Tài liệu: Samyama

Tài liệu
Samyama

Nội dung

SAMYAMA

 

Như đã nói trên các nhà tư tưởng Yoga cho rằng trí năng hay thức manas chỉ đơn thuần tiếp nhận rồi chuyển giao thông tin cho cơ năng phản ứng budhi mà linh hồn purusha là người chỉ đạo đằng sau. Mặt khác cả ý chí, trí năng và các phần còn lại không có cơ sở tồn tại nếu không có ý niệm ''ngã" thể hiện trong “tôi thấy”, “tôi biết”, “tôi là”.

Ý niệm “ngã” (mà theo Duy thức là tính năng của thức manas), ý chí và trí năng cấu thành cái họ gọi là tâm thể Chitta, từ đó tất cả các phần khác được hình thành. Tâm thể này tổ hợp từ chất liệu Tanmatras và hấp thụ lực tự nhiên PRANA để từ đó sản sinh ra tư tưởng. Tất nhiên là chất liệu Tanmatras và lực PRANA ấy lại được lấy từ những thực phẩm mà ta tiêu hóa. Như vậy cần phải có một cái gì đó để cho cả tâm thức và vật chất đều có chung một căn bản nhất nguyên, cái đó là Avyakta, trạng thái Vacum không thị hiện của tự nhiên trước buổi tạo thế, hình thái nguyên thủy của cả vật chất lẫn năng lượng, tức là “Vô cực nhi Thái cực”. Cuối mỗi chu kỳ Vũ trụ, toàn bộ tự nhiên lại trở về trạng thái Không này để tái xuất hiện trong chu kỳ kế tiếp dưới dạng “Thái cực”, "Lưỡng nghi, “Tứ tượng”, “Bát quái”… Ở bên ngoài tất cả là linh hồn purusha. Như vậy ở đây có một điểm quan trọng khiến cho triết học Yoga khác với Dịch học hay Phật họcpurusha tồn tại bên ngoài tự nhiên, dị biệt với tự nhiên cho dù đó là cái tự nhiên tốt ở Avykta.

Trong lập luận của phái Yoga. Có ba khâu mà nhiều người khó tiếp nhận: trí năng chỉ làm việc chuyển tiếp đơn thuần, không đóng một vai trò riêng biệt rào xứng đáng với tên gọi của nó: Cơ năng phản ứng không được miêu tả rõ ràng cụ thể, không mang một hình thái sinh học “trực quan” nào, và linh hồn purusha khó quan niệm như một thực thể đứng ngoài tự nhiên và hoàn toàn khác biệt với tâm thức. Các nhà tư tưởng Yoga chỉ nói rằng purusha không thể nhận biết bằng lý trí, càng không thể diễn tả bằng ngôn ngữ của thế giới nhị nguyên, mà chỉ có thể kiến nhận trực tiếp và duy nhất nhờ phương pháp Samyama, tức là tập trung tư tưởng.

Samyama gồm 3 cấp độ:

Dharana hay quán sở tức tinh thần ta luôn luôn ở trạng thái xao động bất tuyệt, ''tâm viên ý mãn”. Nó chuyên chú đến một đối tượng này, rồi ngay lập tức nó lại để mắt đến một đối tượng khác, nó lưu chuyển theo một dòng chảy rồi đột nhiên rẽ ngoặt sang một dòng khác.  Ta hãy buộc tâm thức ta không được tùy hứng phiêu du mây gió, không được tùy tiện lượn lờ đó đây, không được nhảy nhót lung tung, thoắt chỗ này, thoắt chỗ kia, mà phải thu hút toàn bộ hoạt động của tâm thức và một vật thể ở trong hay ở ngoài thân ta, chẳng hạn một bàn tay hay một quyển sách trước mặt, ''rót'' tâm thức ta vào vật thể giống như người bán dầu rót dầu qua lỗ đồng tiền trong một câu chuyện cổ Trung Quốc. Ngoại giả không còn gì tồn tạt đối với tâm thức ta nữa. Mỗi lần tâm thức đỉnh rồi chạy sang nơi khác, ta phải lôi kéo nó trở lại vị trí cũ ngay lập tức. Cố gắng hạn chế hoạt động của tâm thức chỉ trên phạm vi nhỏ hẹp của đối tượng đang quán tưởng, cột chặt tâm thức vào một nơi duy nhất, đóng đinh nó vào một điểm duy nhất, đình chỉ mọi hoạt động khác của tư duy, ngăn chặn mọi kích thích vào tâm thức, đó là phép tập Dharana. Nếu duy trì được trạng thái tinh thần này lâu chừng 12 giây thì tức là ta đã thành đạt được một Dharana.

* Dhyana hay tập Thiền: một khi ta đã buộc được tâm thức đứng yên ở một điểm và biến điểm này thành chỗ dựa thì trong ta sẽ đấy lên những đợt sóng tâm thức đặc thù thuần nhất, đồng dạng, chúng không bị xô đẩy, chen lấn chùm lấp bởi những lớp sóng tâm thức khác hỗn độn và rối loạn, chúng dần dần chiếm địa vị độc tôn, áp đảo và duy nhất, liên tục nối nhau ''chảy" vào đối tượng quán tưởng thư dòng nước rót vào bình; còn những lớp sóng kia êm ắng dần tiến đến chỗ mất hẳn. Khi ấy ta đã đạt được mục đích của phép tập Dhyana hay tập Thiền. Cũng có thể nói đơn giản rằng thực hiện được 12 Dhyana liên tục là hoàn tất được một Dhyana. Hoặc Qhyana chỉ là Dharana - tức là tâm thức không chạy ra khỏi đối tượng quán tưởng - được kéo dài không hề gián đoạn dù trong, một thời lượng nhỏ bé nào qua suốt 12 giây x 12 = 144 giây = 2 phút 24 giây.

* Samâdhi hay đại định: nếu những đợt sóng tâm thức thuần nhất đồng dạng trong trạng thái Dhyana của tâm thức thu lại chỉ còn một đơn thể mất hết tính cách trừu tượng, tính cách không gian ba chiều và tính cách tồn tại liên tục của thời gian mà chỉ còn hiện hữu là tư cách ý niệm duy nhất với nội dung cốt lõi của nó thì tức là ta đã đạt được trình độ cao nhất của phép tập trung tư tưởng, tức là thực hiện được phép samâdhi hay đại định. Patanjali định nghĩa Samâdhi là Dhyana đã vứt bỏ đi mọi hình thức bên ngoài mà chỉ còn giữ ý nghĩa nội tại của đối tượng quán tưởng. Thí dụ, khi ta quán tưởng một quyển sách, ta đạt được trình độ Samâdhi của quyển sách đối tượng của phép quán tưởng không còn mang hình thức của một quyển sách riêng biệt, cụ thể ban đầu mà chỉ là ý niệm sách nói chung, biểu tượng sách khái quát, giống như các ý liệm phổ quát, trừu tượng của Platôn về các chủng loại. Cũng có thể cho rằng một Samâdhi chỉ bằng Dhyana kế tiếp nhau không đứt đoạn.

Để thấu triệt được ý nghĩa của Samyama, đặc biệt của Samâdhi, ta cần phải đi sâu vào nhận - thức - luận của triết học Yoga. Một vật thể, thí dụ một quyển sách mà ta nhận biết, nhìn thấy, chỉ là một phản ứng đặc thù của tâm thức khi tiếp xúc với một kích thích từ vật thể bên ngoài đến, ở đây là từ ''quyển sách" đến. Ta không thể đồng - nhất – hóa vật thể thực sự với hình ảnh mà tâm thức ta có về nó, với tâm thức ta tạo dựng nên dưới dạng thức phản ứng đối lại một kích thích, giống như khi ta ném một hòn đá xuống nước, nước phản ứng lại bằng các đợt sóng xô đẩy, kế tiếp nhau xuất hiện. Ai cũng cho là phi lý, là ngớ ngẩn, là mất trí nếu đồng nhất hóa những đợt sóng đó với hòn đá ném xuống, nhưng khi chúng ta đồng nhất hóa quyển - sách - nguồn - kích - thích với quyển sách – hình - ảnh mà ta chủ quan hóa những kích thích tiếp nhận thì ta lại cho đó là khách quan, là chân lý, là thực tế trong khi hai hiện tượng này không khác nhau gì về bản chất.

Thế giới thực sự là nguyên nhân tạo thành những phản ứng của tâm thức. Một vật thể dưới dạng thức ta gọi là quyển sách chẳng hạn, là con người, là nhà cửa, là Mặt trăng, Mặt trời. . . với tất cả các màu sắc, hình dáng mùi vị. . . của nó, chỉ là hình ảnh chủ quan, hình ảnh riêng biệt, đặc thù do ta tạo nên - ta với tất cả tính cách đặc thù của cấu trúc cả về hai mặt chủng loại và cá thể - đối với quyển sách, con người, nhà cửa. . . chúng chỉ tồn tại trong ta với tư cách ấy chứ không hề có thực ở bên ngoài cũng với tư cách ấy. Tất cả những gì ta tri giác chỉ là phản ứng của tâm thức trước một kích thích từ bên ngoài tới, vì vậy John Stuart Mill nói rằng: ''Vật chất là nguồn gốc thường xuyên khả dĩ của các xúc cảm, chỉ có kích thích là ở bên ngoài ta. Cũng như một cái hạt lọt vào trong thân một con trai, con trai sẽ phản ứng lại sự đột nhập về sự hiện hữu của hạt cát trong mình nó bằng cách tiết ra một chất nhờn bọc lấy hạt cát. Đó là quá trình hình thành hạt trai thế giới kinh nghiệm, thế giới mà ta tri giác được chính là cái chất nhờn được tiết ra để tạo thành hạt - trai - tri - giác. Người bình thường không bao giờ hiểu được thế giới chân thực, bởi vì mỗi lần anh ta cố gắng tìm hiểu bằng lý trí là mỗi lần anh ta lại tiết ra chất nhờn bọc lấy nó.

Tâm thức ta ví như nước trong hồ, khi một hòn đá ném xuống, nước dâng lên những đợt sóng, những cơn lốc Vritti. Chính những Vritti này là cái ta quen gọi là thể giới khách quan. Nhưng khi kích thích chấm dứt, sóng tam thức Vritti xẹp xuống thì còn lại gì trong hồ tâm thức nữa không? Còn! Đó là samskara hay dấu ấn hoặc khuynh hướng nội tại - khuynh hướng của nguyên nhân đưa đến kết quả tương ứng như thuộc tính của phương thức vận hành trong thế giới hữu sinh, nói rộng ra, trong chu kỳ sinh - Tử, Tử - sinh, samskara chất chứa đủ nhiều sẽ tạo nên những thói quen. Hơn cả cái tư cách ''tự nhiên thứ hai" (la seconde nature) mà Pascal gán cho nó, thói quen là toàn bộ tự nhiên của con người thông qua samskara, với tư cách là bản thể và quy luật thứ nhất của giới hữu sinh, nói cách khác, biết đâu ''tự nhiên chẳng là một thói quen thứ nhất”. Mọi hành vi mọi ứng xử, mọi suy nghĩ, mọi lời nói, mọi phản ứng đặc thù của tâm thức đối lại các kích thích bên ngoài đều để lại những tì vết, đều lắng thành những cặn cợt, và đọng lại những kết tủa, đều chất chứa thêm samskara vào kho tâm thức. Ngay cả khi những samskara này không biểu thị ồn ào trên bề mặt, trên bình diện hữu thức thì chúng vẫn đủ cường lực để hoạt động âm ỉ dưới bề mặt, dưới trạng thái tiềm thức. Ở bất cứ lúc nào, tư tưởng và tình cảm, hành vi và ứng xử - nói khái quát toàn bộ tính cách của ta thị hiện trong tất cả mọi tình huống - đều được quy định bởi tổng số những samskara mà tiếp nhận, đúng hơn đã gián tiếp sản sinh suốt cả đời ta cho đến lúc ấy. Nói cách khác cá tính của một con người hình thành trên kết quả của một phép tính cộng samskara đã tích tụ. Chính những samskara ấy quy định tính đặc thù cá nhân trên cả thân xác lẫn tinh thần và rất có thể được tàng trữ trong mulahara - đã gây ra những kích thích tác động vào trung tâm này hay trung tâm nọ trong não để từ đó dấy lên các sóng tâm thức vritti trong giấc . Giấc mơ là một hình thức khác của sóng tâm thức mà ta vẫn gọi là ký ức khi trong trạng thái tỉnh, nó được dấy lên bởi một tín hiệu nào đó gửi đến từ thế giới bên ngoài.

Ký ức kết hợp một cách vô thức những kinh nghiệm đã qua được quy về các ấn tượng với hoạt động hữu thức hiện tại. Trong mỗi cơ thể tập hợp các ấn tượng đã sở đắc một cách duy nhất trong cơ thể tương đồng, trở thành nguyên nhân của hành động trong cơ thể này, nhưng những kinh nghiệm đã sở đắc trong một cơ thể không tương đồng thì chủng vẫn hiện hữu dưới dạng tiềm năng. Mỗi cơ thể như vậy hành xử như thể nó là di huệ của cả một loạt những cơ thể cùng một chủng loại. Nói theo Patânjâli, tức là sự kế tiếp của các ham muốn, dù rằng cách biệt nhau về chủng loại, không gian và thời gian, vẫn có tính đồng chất về ký ức và ấn tượng.

Nếu như trên mặt nước của hồ tâm thức phủ đầy những lớp sóng, hoặc nếu như trong lòng nước vẫn đầy bùn đất thì ta không thể nhìn thấy đáy hồ. Nếu nước trong trẻo, và mặt nước không sóng động, ta sẽ nhìn thấy đáy hồ là cái Ngã chân chính của ta. Cũng như mọi hình thái vận động trong Vũ trụ, tâm thức ta vận động dưới ba trạng thái: Tamas hay quán tính, Rajas hay hoạt tính và Sattva hay quân bình. Trong tâm thức ta, nếu tính cách Tamas trội hơn, tức là hồ tâm thức của ta đặc sệt bùn nhơ, ta sẽ là người trì trệ, ngu tối, lười nhác, u uất, thường có những hành động và suy nghĩ mù quáng, xấu xa. Nếu tính cách Rajas chiếm ưu thế, tức là hồ tâm thức của ta luôn dạt dào những đợt sóng nối tiếp, ta sẽ là người năng động, hoạt bát, hăng hái, vui tươi, khao khát hiểu biết, để hướng về quyền lực và khoái lạc. Nếu tính cách Sattva áp đảo, tức là hồ tâm thức trong trẻo, sóng tâm thức lặng lờ, ta sẽ là người điềm đạm, bình tĩnh sáng suốt. Sự phẳng lặng và tĩch mịch của Sattva, yếu tố tuyệt đối cần thiết để phát triển tâm linh, khác hẳn với trạng thái ù lì như đất đá vô tri của Tamas, tiềm tàng một sức năng động và quyền lực phi thường; so với nó cái năng động và quyền lực mà Rajas đạt được chỉ là cái huênh hoang vô nghĩa của bề ngoài giả dối. Ba tính cách hay trạng thái Tamas, Rajás Sattva này đôi chỗ lại được quan niệm dưới dạng cấu thể vật chất gọi chung là Gunna - tương tự như trong vật lý ba tính Dơng, Âm Trung hòa biểu thị trọn vẹn, ''nguyên chất" trong các hạt proton, electron và neutron - Gunna ở trạng thái thuần nhất, cân bằng hình thành ra Prakiti, còn ở trạng thái tạp là nhiễu động hình thành ra Vũ trụ. Trong chất liệu cấu thành con người, hàm lượng Sattva đóng vai trò tuyệt đối cần thiết cho sự phát triển của tâm linh.

Trong tâm thể, yếu tố Sattva thường bị trù ám bởi các yếu tố Raias Tamas, phép tập Pranayama sẽ thanh lọc Sattva khỏi bị "ô nhiễm'' bởi Tamas Rajas. Mặt khác tâm thể cùng những bộ phận vật chất của nó là các cơ năng tiếp nhận tín hiệu từ vật thể bên ngoài phát ra, xử lý các tín hiệu để cho ta tri giác về vặt thể ấy dưới một dạng thức không diễn đạt được một tí gì gọi là chân lý về vật thể ngoại trừ sự hiện hữu của vật thể, cũng như bóng đèn cháy sáng chứng tỏ có điện nhưng không phải hình thể thực sự của điện chính là ánh sáng của bóng đèn. Dạng thức của vật thể chỉ có ở trong tâm thức và các cơ năng đã đồng nhất hóa chúng với các tín hiệu đến với chúng và tạo nên dạng thức tương ứng. Nếu người tập Raja Yoga ngăn cản được các cơ năng không tạo dựng nên các dạng thức về vật thể bên ngoài từ vật liệu là tín hiệu nhận được, nếu người ấy buộc được các cơ năng thống nhất với các thành phần còn lại của tâm thể thành một thể riêng biệt - và đây chính là đối tượng của phép tập Pratyahara - thì các cơ năng sẽ bị hoàn toàn chế ngự, tức là chúng không còn theo tính năng nội tại mà "duyên theo trần cảnh”, chúng không còn, do tác dụng thanh lọc của phép tập Pranayama, bị ảnh hưởng xấu của Rajas hiếu động mà nhạy cảm lung tung, của Tamas ù lì mà trì trệ trên đường mòn của thói quen, quán tính. Lúc đó các cơ bắp, các mạch thần kinh cũng bị đặt trong tình trạng tương tự bởi các cơ năng cảm giác chẳng những là trung tâm thông tin của mọi cảm thụ mà còn là chỉ huy sở của hành động, đó là người lập thành tựu được khả năng điểu hành theo ý muốn hoạt động bất kỳ của bộ phận bất kỳ trong cơ thể mình.

Tâm thức hiện hữu nơi mọi động vật, nhưng chỉ ở người nó mới có nhiều khả năng giải thoát trực tiếp vì nó có tri thức để tìm ra con đường, ra phương pháp. Tâm thức con người muốn trở về trạng thái thuần phác, trong trẻo của nó lại thường vấp phải sự ngăn cản, lôi kéo, dụ dỗ của giác quan. Phép luyện Yoga chủ yếu nhằm kìm giữ tâm thức, chặn đứng các khuynh hướng hướng - ngoại của nó, lôi nó ra khỏi vòng tay ''hủ hóa'' của thân xác, cưỡng bức nó phải quay về cái thế giới bên trong của nó. Tâm thức thị hiện dưới cái hình thái phân tán, tối tăm, quy tụ chỉ đạo và tập trung. Phân tán là tính cách của hoạt động, nó có khuynh hướng tự biểu thị dưới dạng khoái cảm và đau khổ. Hoạt tính Rajas thị hiện cao nhất ở thần linh mà phẩm chất bị hạn chế ở chỗ có khuynh hướng về quyền lực khoái lạc. Tối tăm là hình thức của sức ỳ quán tính, chỉ gây ra tác hại, vốn là bản chất và thuộc tính của quỷ; quỷ chính là sự tiếp tục sống của những tính xấu nơi con người đã chết về mặt thân xác. Tâm thức quy tụ khi nó quy về một trung tâm nó được chỉ đạo khi nó tìm đường tập trung lại, chính cái hình thái tập trung này đưa tới Samâdhi, ở đó linh hồn purusha được kiến nhận mà không còn bị đồng nhất hóa với các biến động vriti của tâm thức.

Khi ta quán tưởng trên một vật thể bên ngoài thì tức là ta thực hiện phép quán tưởng truy vấn Savitarka, truy vấn các chân lý của vật thể, cái sự thực về vật thể, từ đó truy vấn quyển năng, bởi vì trí thức quyền năng, hiểu biết là sức mạnh.

Phép quán tưởng truy vấn chỉ đem lại cho con người quyền năng, tức là một kiểu khoái lạc trong thực tiễn nhân sinh. Sự chinh phục được cái ta quen gọi là quyền năng huyền bí cũng chỉ thêm cường hóa thế gian trần tục và do đó cường hóa đau khổ. Nó không đưa tới Tự do, đưa tới Giải thoát là mục đích tối hậu. Đối tượng của quán tưởng truy vấn gồm ba loài: vật thể vật chất, thực thể vi tế như ý niệm, tinh thần, tâm thức…; và linh hồn Pursusha đã bị bọc kín trong cái vỏ ngoài là égo. Bằng thực hành, người luyện Yoga thành đạt được các phép quán tưởng này. Nếu trong quán tưởng, người luyện Yoga gạt hết được mọi ý niệm, mọi suy nghĩ, chỉ còn lại một tâm niệm mà thất thể hóa mình với cái mà mình quán tưởng, người ta sẽ trở thành giống như chất pha lê: đặt trước bông hồng nó có màu hồng, đặt trước mực đen, nó có màu đen.

Trong phép quán tưởng truy vấn ta vẫn còn duy trì sự đối ngẫu giữa chủ thể và khách thể mà kết quả là sự hỗn hợp, sự hòa đồng ba yếu tố trở thành tri giác: vật thể bên ngoài, phát ra những dao động kích thích thông tin; sự tiếp nhận và chuyển kích thích thông tin của thần kinh; và tri giác dưới dạng thức sóng phản ứng của tâm thể. Ba yếu tố này trong tâm thể của ta gắn liền vào nhau chặt chẽ đến mức ta không thể tách chúng riêng ra từng cái. Nhận tín hiệu, truyền tín hiệu và phản ứng kế tiếp nhau quá nhanh, gần như đồng thời khiến ta không thể phân biệt được chúng. Nhưng nếu ta quán tưởng chúng đủ lâu, đủ kiên trì thì chung cục ký ức, cho tàng trức các Samskara sẽ được thanh lọc; nói cách khác các Samskara - ở đây hiểu theo nghĩa hẹp và ''ước lệ'' là các ý nghĩ đã hình thành từ trước, các kinh nghiệm đã sở đắc từ trước. Nó không còn được tham gia vào quá trình hình thành tri giác, và nhờ đó ta đã tiến tới khả năng tách biệt được ba yếu tố này riêng rẽ ra từng cái, khiến sự hiểu biết của ta là trọn vẹn vì mọi vật thể cảm tính hay mọi tư tưởng chỉ là kết quả của sự phản ứng thông tin mà ra, khi ấy ta có được mọi quyền năng kỳ diệu đối với chính ta và đối với tự nhiên bên ngoài. Và đây cũng là lúc ta thành tựu được phép quán tưởng không truy vấn nirvitarka.

Nếu lấy đối tượng là vật thể vi tế như Tamâtras hoặc prakriti, hoặc avyakta, hoặc thức manas. . . thì phép quán tưởng lúc ấy gọi là Vichâra Samâdhi với hai cấp độ khác nhau: trong quán tưởng savichâra ta còn giữ ý niệm về thời gian và không gian (đó là quán tưởng có biện biệt); Trong quán tưởng không biện biệt nirvichâra ta loại bỏ được các ý niệm này, chỉ còn lại trực diện duy nhất với đối tượng “bất biến”.

Ta thực hiện quán tưởng Sânanda trên đối tượng là cơ năng tư duy được quan niệm trong trạng thái đã thanh lọc hết các yếu tố Rajas Tamas.

Bước kế tiếp cao hơn với quán tưởng asmitâ, trong đó đối tượng là thế quân bình của égo dị hóa với mọi tồn tại dù thuộc phạm trù hữu hình hay vi tế. Con người đã lên đến trình độ này sẽ sở đắc được phép thoát xác thư cách nói của Kinh Vệ đà, tức là lúc ấy con người có thể tự ý thức được cái Ngã của mình không nằm trong một thân xác vật lý mà chỉ còn hạn định trong một thân xác vi tế, tức là thể vía; do đó theo Patanjâli, có thể bảo toàn được thân xác nguyên vẹn, bất biến trong bất kỳ một thời lượng nào cũng như có thể chuyển hóa từ thân xác này sang bất kỳ một chủng loại nào khác.

Nhưng tất cả bốn loại quán tưởng nói trên đều không thủ tiêu được hết các samskara, tác nhân gây nhiễu thường xuyên cho quán tưởng và tiềm năng phá hoại thành quả, gây ra sa ngã trở lại, vì vậy đều thuộc cùng một loại quán tưởng có chủng Tử samprajnâta. Các phép quán tưởng samprajnâta dù có đem lại cho con người sự hiểu biết kỳ vĩ và do đó có các quyền năng kỳ vĩ thì đấy vẫn không phải lý tưởng giải thoát của triết lý Yoga. Quyền năng thuộc bình diện hành động vĩ đại của phép Yoga đã thành tựu trên một thẩm cấp. Nhưng chính quyền năng cũng lại gây những trở ngại lớn trên đường tiến tới mục tiêu tối hậu: sự kiến nhận cái Ngã thuần túy và tự do. Trong phép Samyama, dừng lại ở quyền năng, tự mãn với quyền năng đã sở đắc, tức là quay tưng lại cái lý tưởng huyền diệu của Yoga, tức là để cho căn nghiệp từ những smaskara của cả tiền kiếp lẫn cuộc sống hiện thời vươn ra ngáng trở bước chân tiến tới Giải - Thoát, tức là còn để mình bị nô dịch hóa bởi những cám dỗ của cõi đời phù hoa, ảo ảnh của Thế giới Maya, và từ đó dễ rơi trở lại những hệ lụy khác, vì quyền lực và danh vọng là hai khía cạnh phàm tục của tính xã hội, phàm tục nơi con người, phàm tục vô minh.

Ta càng muốn, càng cố gắng tập trung tư tưởng lại thì tư tưởng lại càng tìm cách phân tán ra nhiều ngả, nói cách khác, các samskara càng có khuynh hướng nổi dậy, càng biến động hơn. Vào những lúc bình thường, các samskara còn chịu yên nghỉ, ẩn cư nhưng chính lúc ta muốn chúng yên nghỉ, ẩn cư nhất thì chúng lại ùa cả ra, tràn ngập toàn bộ tâm trí ta. Bình thường các samskara của quá khứ với số lượng nhiều vô kể ẩn lấp đâu đó trong tâm thức, nhưng chỉ cần ta định tập trung tư tưởng là chúng sẽ chồm cả lên thư những con hổ đói, chúng cạnh tranh nhau, chen lấn nhau để được xuất hiện, đó là thuộc tính của bản chất của samskara trong mối quan hệ với tập trung tư tưởng. Trong phép quán tưởng mà ở đó vẫn tồn hữu ý thức, ở đó trí năng mới chỉ làm xẹp những làn sóng và ngăn cản chúng không cho nổi lên nữa trên mặt hồ tâm thức thì những chủng Tử hay khung hướng nội tại của những đợt sóng này vẫn còn đó, chỉ chờ cơ hội thuận lợi là chúng sẽ xô đẩy nhau dội lên. Vì vậy, dĩ độc trị độc, Patanjâli dạy ta cách giải tán chúng bằng cách gây lên một làn sóng mạnh hơn cả, lớn hơn cả mà chùm lấp lên tất cả. Khi chỉ còn độc ngọn sóng thôi ta sẽ dễ dàng thanh toán nốt, và chính khi ấy ta thực hiện được tư duy trống trơn, ta làm được phép quán tưởng không chủng Tử asam-prajnâta, vì khi ấy ta đã tiêu diệt được tất cả các chủng Tử, khi ấy ta đã tiêu diệt được ngay cả bản thân tâm thức của ta với tư cách là kho chứa đựng và bất hoạt động của samskara; khi ấy tâm thức sạch trơn, chẳng còn lại gì để từ nó lại một lần nữa như bao giờ trước đây đâm rễ nảy mầm cái cây đời của vòng sinh Tử luân hồi. Trạng thái hư vô này của tâm thức khi thực hiện quán tưởng không chủng Tử có khác gì trạng thái vô thức hay thôi miên không? Ta biết rằng phần lớn các hoạt động trong cơ thể ta cũng như trạng thái thụy miên, mộng du . . . đều tiến hành ngoài ý thức của ta. Ngoại trừ các nhà Yoga bằng cách tuyển tập Hatha Yoga và nhất là Paranayama có thể điều khiển được hầu hết các chức năng của các bộ phận trong thân thể, như làm tim ngừng đập, làm phổi ngừng co bóp,… còn phần lớn chúng ta không nhận biết được gì về các hoạt động ấy. Cũng chính vì vậy, hoạt động vô thức  khác với hữu thức, không bị kèm theo ý niệm Ngã, đó là trình độ thấp nhất của tâm thức, nó chiếm vị thế thống trị ở loài thú vật. Quán tưởng không chủng Tử nâng ta vượt lên trên trình độ hữu thức để tới trình độ siêu thức. Như vậy là trong khi cái hư vô của vô thức hay thôi miên vốn không đem lại một sở đắc nào cho quyền năng chủ động của con người, thì cái hư vô của tâm thức trong phép quán tưởng không chủng Tử đưa đến sự kiến nhận hoặc thức tỉnh của siêu thức bao hàm cả ý thức lẫn vô thức cùng với danh giới trung gian tiềm thức như một nguyên lý tổng quát bao hàm các hệ luật lặt vặt của nó. Siêu thức vẫn chỉ là tâm thức nhưng đã chút sạch được hết cái hơi hướng của Ngã, đồng thời của cả Vô Ngã.

Bây giờ ta hãy tìm hiểu ý nghĩa của siêu thức đối với các quan hệ giữa người với người trong cộng đồng nhân sinh. Trước hết bởi vì nói chung tuyệt đại đa số chúng ta không có ý chí, không đủ nghị lực, hoặc nói cách khác còn quá nặng phàm căn nên không tập được samyama đến nơi đến chốn để có dịp mặt đối mặt với siêu thức, nên ta hãy tìm cách khác để phần nào tiếp nhận với siêu thức ngõ hầu, phần nào giải tỏa được mối nghi ngờ về sự hiện hữu của nó.

Vô thức là chủ thể chỉ huy, điều hành một cách cực kỳ tinh vi những hoạt động sống cực kỳ phức tạp đồng thời cũng là cái mà nói chung ta không hề biết mấy về tính cách, cơ cấu và phương thức hoạt động của nó, nhưng không bao giờ ta lại giám tỏ ý hoài nghi, ngờ vực sự hiện hữu của nó. Khi ta ăn, ta làm việc đó một cách hoàn toàn có ý thức, ta biết rất rõ ta ăn cái gì, tại sao ăn và ta có những cảm giác gì do nó gây ra, nhưng đồng hóa cái thức ăn ấy thế nào, biến nó ra các kiểu protit, lipit, glucit, nuclêôtit. . . làm sao thì ai đứng ra làm cái công việc rắc rối ấy nếu không phải cũng vẫn là ta, nhưng cái ta ấy lần này lại chẳng biết cái mô tê gì về cái mà nó làm và chỉ riêng nó làm chứ không có ai làm hộ. Cứ gộp tất cả các hiện tượng này dưới cái tên chung bản năng rồi xoa tay đắc chí cho là đã giải quyết xong xuôi vẫn đề thì. . . kể ra như thế cũng có cái đúng là. . . dễ hưởng thái bình! Cũng vậy, đối với trước những hiện tượng rất huyền bí, những quyền năng rất kỳ diệu của một số người, của người thôi và ta đã tạm gạt bỏ Tôn Ngộ Không, Mãng Sà Tinh và các loại Hồ ly ra khỏi thế giới hiện thực, thì ta - những con người bình thường và những con người không phủ nhận các chuyện đó như là chuyện hoang đường - ta không có cách nào khác ngoài cách phải thừa nhận rằng nguồn gốc của những sự kiện có thực ấy là cái tiềm năng cũng có thực không kém ở nơi những người ấy. Cái tiềm năng đó Yoga gọi là siêu thức. Siêu thức hiện hữu nơi mọi người, mọt loài. Nó biểu thị ra thế giới trực quan qua một số phép lạ nào đó ở người này một cách ngẫu nhiên, ở người kia một cách tất yếu qua công phu luyện tập, nhất là qua luyện tập samyama.

Và chính cái siêu thức ấy cũng là nguồn gốc phát sinh của những nguyên tắc đạo lý và sự thể hiện phong phú và đa dạng đã đem lại cho đời sống nhân loại một vẻ đẹp luôn luôn làm xúc động lòng người. Nghiên cứu lịch sử, ta thấy rằng các vị giáo chủ tôn giáo mà Thế giới từng biết tới và đã chinh phục được một bộ phận lớn trong nhân loại kinh qua nhiều Thế kỷ, bất chấp mọi sự thách thức của tiến bộ khoa học, họ tiếp nhận được chân lý của họ từ thế giới bên kia mặc dù nhiều người trong số đó không rõ thực sự là từ đâu. Đối với người này, có thể là do một Thần linh hiện lên chỉ bảo, đối với người kia, có thề là do Thiên Khải vào một phút thiêng liêng nào đó của đời họ. Theo lý thuyết Yoga, đúng là những kiến thức ấy, những kiến thức siêu hình siêu nghiệm ấy đã tới từ bên kia của cõi ý thức, nhưng vẫn ở bên trong của cõi tâm thức. Có thể chăng những nguyên tắc ấy xuất phát từ sự quan sát thực tiễn vận động của cộng đồng nhân sinh với ý đồ tìm ra một phương thức bảo đảm sự ổn định và hài hòa trong quan hệ xã hội giữa các thành viên và các nhóm thành viên? Nói cách khác, có thể chẳng những nguyên tắc ấy thực ra chỉ có cơ sở trên những lý do có tính hoàn toàn duy lợi (utilitaire) mà thôi? Điều này đúng với luật pháp. Luật pháp chỉ ngăn cấm bằng những chế tài nhất định những việc ác việc xấu đối với tồn tại xã hội, nhưng không tự đặt cho mình mục tiêu khuyến khích những việc thiện, việc tốt. Đạo đức, trong bất kỳ cách ứng xử ở tình huống nào và với đối tượng nào, càng cao bao nhiêu thì càng chứa đựng tính vị tha bấy nhiêu. Những người duy lý, duy lợi biết điều nhắt, có thiện chí nhất và công tâm nhất có thể nào hoàn toàn vị tha được không? - Lòng vị tha tự nó, tới một chừng mực nào đó sẽ mâu thuẫn với tính duy lý và duy lợi rồi. Tính duy lý, duy lợi ấy của một chủ thể khả tử tìm thấy gì sau nó nếu không phải cái vô nghĩa của trận hồng thủy cho dù có nhấn chìm cả những duy huệ của nó đi nữa. Như vậy, làm sao những người duy lý, duy lợi có thể là những tác giả của những nguyên lý và hành vi đạo đức cao thượng đến mức thánh thiện? Cái đó chỉ có thể đến từ những con người ngưỡng vọng vào một cái gì đó từ bên kia cõi đời trực quan, vật chất. Cái gì đó, đối với tuyệt đại đa số những người tín ngưỡng là một lý chí nhân cách hóa ở ngoài ta, cái gì đó, đối với Đạo Phật chỉ là Phật tính ở ngay bên trong ta, đối với Yoga cũng chỉ là siêu thức cũng ở ngay bên trong ta. Siêu thức ấy có thể thị hiện ngẫu nhiên hay bệnh lý dưới dạng một ảo giác để rồi tạo tác ra những cái tuyệt diệu trên cả hai mặt xấu - tốt, thiện - ác.

Mohamet kể rằng ông đã được thiên Thần Gabriel hiện lên trong hang đá cho ông ngồi sau lưng Thiên mã Harak để du ngoạn cảnh Thiên đường, ông trở về với những điều răn dạy tích cực, đồng thời cả những điều không chỉ tiêu cực trong Kinh Coran. Ông đã làm biết bao nhiêu việc tốt, nhưng ông cũng đã gây bao nhiêu thảm họa: hàng triệu người đã bị tàn sát, hàng vạn đền, chùa của các tôn giáo khác đã bị hủy diệt, và đó đâu phải là chuyện ngày xửa, ngày xưa mà là nhãn tiền, trước mắt đấy!... Nhưng thôi, thôi không phải vì tấm gương Salmon Rusdhi mà vì ta đang muốn tìm lại siêu thức đã bỏ mất, và nhất là linh hồn purusha, ôi purusha huyền diệu, không thị phi, không thiện ác. Nhưng khoan đã, ta đang sống và đang bàn tới hiện thực nhân sinh. Hiện thực thân sinh? - Thể hỗn rỗng của những điều phi lý, của những thiện, ác, tốt, xấu, lành, dữ. . . chuyển hóa cho nhau không theo một định thức, một hằng thức nào, từ đó có thể rút ra nhận thức gì nếu như ta không vượt qua ngưỡng lý trí và ta vượt qua không phải nhờ vào một đức tin mù quáng, tiên quyết, mà một cách tuần tự, có hệ thống, có phương pháp hoặc nói cách khác ta vượt qua lý trí cũng chính bằng con đường của lý trí mà ở đoạn cuối chính lý trí sẽ tự phản tính mà nói với ta rằng nó bất lực, vai trò hướng đạo của nó chấm dứt nơi đây và nhường quyền chỉ dẫn, giáo hóa cho siêu thức siêu thức ấy qua cửa miệng của các bậc tiên tri vĩ đại tuyên bố ''ta đến không phải để hủy bỏ mà chỉ để hoàn tất", cũng như Lobachevski, Rieman . . . không hủy bỏ Euclide; cũng như Bohr, Heisenberg. . . không hủy bỏ Newton; dù những điều họ nói có những cái khác nhau như âm với dương. Siêu thức vẫn thuộc về tâm thức, nhưng là một bộ phận, một thẩm cấp cao hơn ý thức, trong đó lý trí ngự trị trên ngai vàng của biểu trưng đầy đủ.

Như vậy là bằng phép tập Samyama, tức là con đường dẫn dắt của hữu thức, ta có thể đi sâu xuống cõi vô thức, và cũng qua con đường ấy ta lại có thể vượt lên trên giới ý thức, tức là vượt lên trên chính ta, bởi vì ta vẫn thường đồng nhất hóa ta với bộ phận này của tâm thức. Với quán trưởng không chủng tử, với asamp-rajnâta Samâdhi đã thành tựu, con người hoàn toàn biến đổi, thiên thị được mở rộng, thiên nhãn được khai thông, từ đó, một cách gián tiếp qua sự thức nhận tính thiện hữu chân thực của siêu thức với năng lực nhiều lần lớn hơn năng lực của ý thức ta sẽ tiếp cận bằng phép ngoại suy... Từ đó, một cách trực tiếp ta sẽ kiến nhận những cái nằm ngoại phạm vi hiệu lực của lý trí tức là... Thế giới siêu thức.

HOÀNG ANH

(Khảo cứu, biên soạn)




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/143-02-633385775462968750/Nen-van-hoa-co-than-bi-Dong-Tay-phuong-ky-...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận