QUYỀN NĂNG THƯỢNG THỪA CỦA CÁC YOGI (A)
“… Thay cho những phòng thí nghiệm của chúng ta, người Ấn Độ đã có hàng bao Thế kỷ kiên trì tu tập với một trực giác thiên tài của mình...”
Romain Rolland (1886-1994)
(Nhà văn Pháp, giải thưởng Nobel văn học năm 1915)
Yoga là một Pháp môn huyền tuyệt, ra đời đã có trên bốn nghìn năm nay. Trong Yoga đã xây dựng được một hệ thống chặt chẽ các quan điểm và bài tập thực hành dẫn đưa con người tới sự phát triển một cách hài hoà. Cho tới nay, tuy chưa nghiên cứu một cách toàn diện về khoa học, song nó đã hé mở cho chúng ta những khuynh hướng thực tiễn như luyện nội, điều chỉnh tâm lý, điều khiển trên cơ sở mối liên hệ ngược, luyện khí v.v...
Những người tập luyện theo hệ thống Yoga gọi chung là các Yogi, từng bước, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, dần dần lập được sự cân bằng trong cơ thể, đẩy lùi được bệnh tật, có cảm giác thoải mái dễ chịu, phục hồi và tăng cường được sức khoẻ. Nếu kiên trì rèn luyện, dần dần sẽ đạt được những khả năng đặc biệt, như điều hoà các chức năng tâm sinh lý trong cơ thể, tuỳ ý gây ra các cảm giác nóng lạnh, nhẹ tùy ý, tăng hay giảm nhịp tim, điều chỉnh huyết áp, thay đổi hoạt động của thận, ảnh hưởng đến dòng điện sinh học của não, v.v…Tu luyện đến trình độ cao, có thể làm chủ được bản thân mình, khai mở được những bí huyệt trong cơ thể, nắm được chìa khoá tác động đến những tầng bậc sâu kín của cái ''tôi đích thực” huy động được những tiềm năng sâu ẩn của cơ thể mình, đạt được những khả năng siêu phàm bí ẩn, tới được cảnh giới tối cao làm biểu hiện “bản tính chân như”...
Trong Yoga, những quyền năng thượng thừa nói trên được gọi là “Siddhis”. Mục đích của luyện tập chủ yếu là để đạt được một sức khoẻ dồi dào, một trí óc minh mẫn, một năng lực làm việc dẻo dai, một lối sống lạnh mạnh hưởng thiện. Song nếu thư cuối cùng có được những năng lực khác thường hay ít nhiều, điều đó cho ta niềm tin sâu sắc rằng: Tiềm năng của con người quả thật lớn lao, chưa ai có thể lường hết được. Nghiên cứu những năng lực khác thường ấy chẳng những giúp ta xây dựng được những mô hình vận hành và điều chỉnh mới của hệ thống sống, góp phần làm sáng tỏ những bí ẩn của con người, của mỗi liên hệ tinh tế và phức tạp của Thế giới trong ta và ngoài ta, mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của khoa học tự nhiên hiện đại. Bởi lẽ, nó sẽ góp phần làm sáng tỏ một trong những hình thái vận động cao cấp nhất của vật chất đó là tư tưởng của con người.
Các Yogi với chiếc chìa khoá đi vào trạng thái tiềm sinh
Nữ phóng viên Liên Xô (cũ) E.Xaparina trong một bài báo có kể lại trường hợp mà bà đã chứng kiến tại Calcutta Ấn Độ: ''Hôm ấy chừng như có một cuộc hành lễ long trọng, đám đông diễu hành qua trung tâm thành phố, rồng rắn kéo thẳng tới giữa cánh đồng. Bước chân họ chậm dần và dừng lại trước cái huyệt đã đào sẵn. Từ trong đoàn người một ông già người gày gò khô đét tiến đến miệng hố lẳng lặng chống tay bước xuống huyệt và nằm yên bất động hệt như một xác chết. Đoàn người lầm rầm cầu khấn rồi nhặt đất xung quanh ném xuống huyệt. Lớp đất cứ cao lên cao lên dần... Cuối cùng trông hệt như một nấm mộ thực sự. Đám đông vẫn bình thản đợi chờ. Thời khắc lặng lẽ trôi. Sau 3 – 4 giờ, người ta thận trọng bới đào ngôi mộ. Cuối cùng một thân hình bất động hiện ra: mắt nhắm, tay chân mềm nhão, chừng như không còn hơi thở... một phút trôi qua, ông già hít nhẹ, mí mắt động đậy, tay chân co duỗi và chậm dãi đứng dậy lẳng lặng đi về phía những người đang đứng đợi ông..."

Ông già đó là một Yogi.
Báo chí còn cho biết trước đó khá lâu, vào khoảng năm 1837, ở Tỉnh Pendjab, người ta cũng tiến hành chôn sống Yogi Haridas trong 40 ngày. Thí nghiệm được tiến hành trước sự hiện diện của vị đứng đầu tỉnh lúc đó là ông Singh cùng nhiều nhân vật Anh và Pháp, trong đó có hai Bác sĩ Murray và Mac Gregor. Haridas ngồi theo tư thế ''hoa sen'' tai và mũi được bịt kín bằng sáp ong, còn họng thì tựa như được đóng lại bằng chính cái lưỡi của mình. Sau đấy, người ta đặt ông vào một hòm gỗ rồi đem chôn. Trên mộ được gieo đại mạch, có lính canh gác suốt 40 ngày đêm. Sau khi khai quật, người ta thấy Haridis vẫn ngồi nguyên ở tư thế cũ. Những khám nghiệm y học cho thấy mạch ngừng đập và ngừng hơi thở. Tiếp đó, người ta giao Haridis cho các môn đệ của ông và họ đã làm cho nhà Yoga này sống lại…
Năm 1950, người ta lại tiến hành ''chôn sống'': nhà Yoga 52 tuổi B.Ramadi tại Thành phố Bombay. Trước đám đông hàng vạn người, nhà Yoga bước xuống một cái hố hẹp, đào sâu dưới đất. Người ta đậy nắp hố, trát xi măng. Ramadi ở trong trạng thái ''chết giả" đó suốt 56 tiếng đồng hồ. Khi đào lên, người ta đổ đầy nước vào hố và nhà Yoga lại ở dưới nước thêm 6 tiếng nữa.
Lúc được đưa lên khỏi hố, một lát sau, Ramadi dần dần hồi tỉnh... Từ bấy đến nay, nhiều thực nghiệm khoa học đã được tiến hành với các Yoga chôn sâu trong hầm mộ.
Các khám nghiệm y học đã đi đến kết luận rằng, các Yogi bị chôn sống đã ở vào một trạng thái hệt thư động vật trong thời gian ngủ trốn đông - trạng thái tiềm sinh (anabiosis). Trong trạng thái này, các quá trình sống thư trao đổi chất, hầu như ngưng chậm hẳn lại nhằm giúp cho cơ thể có thể tiếp tục duy trì được trong những điều kiện nhiệt độ, độ ẩm vô cùng bất lợi. Hiện trạng này thật ra chỉ phổ biến trong giới động vật, thực vật, vi sinh vật. Ấy vậy, mà từ nghìn xưa trong khi đi tìm đường tu tập, khắc phục vô minh, hoàn thiện ''chân ngã”, dứt bỏ những dục vọng si mê, giữ cho xác thân trong sạch, nhằm đạt đích hoà đồng, hợp nhất với Đất trời, với vạn vật và toàn Vũ trụ, các Yogi Ấn Độ và Tây Tạng đã nắm được chìa khoá của trạng thái độc đáo lạ lùng này là dựa vào quá trình tập trung tư tưởng, điều hoà hơi thở, thả lỏng bắp cơ và tiết chế ăn uống.
Giữa lúc con người đang ở vào khoảng vô tận, thực hiện những chuyến bay Vũ trụ tới các hành tinh xa xôi, nó đòi hỏi con người phải sống dài ngày trong điều kiện vô cùng khắc nghiệt, hiểm nghèo, thế tất phải có một phương pháp tiềm sinh mới, dài hạn (hàng tháng, thậm chí hàng năm) khác hẳn về nguyên tắc với phương pháp tiềm sinh ngắn hạn, cục bộ dựa vào biện pháp gây mê và dược phẩm vẫn dùng trong khoa phẫu thuật.
Lúc này, người ta chợt nhớ đến chìa khoá giúp ta thâm nhập vào trạng thái tiềm sinh hiện đang nằm trong các Yogi thượng thặng.
Bí pháp ''Lửa tam muội''
Năm 1966, Swani Dhiredra Brahmachari, thầy hướng dẫn luyện tập cho cố Thủ tướng M.Nehru, được mời sang Liên Xô (cũ) trình bày về kỹ thuật Yoga cho các nhà du hành Vũ trụ học hỏi. Ông đáp máy bay Air - India xuống sân bay Moskva giữa mùa Đông băng giá...
Các quan chức Xô Viết trong những bộ quần áo, mũ, găng bằng lông thú đứng đón ông tại sân bay. Khi mọi người chuẩn bị ra cầu thang máy bay đón tiếp vị khách quý thì thấy ông hiện ra ở khung cửa phi cơ; nhưng kỳ lạ thay, chỉ với bộ quần áo choàng bằng ''mousseline" mỏng tang nhìn rõ cả màu da mà vị khách Ấn Độ vẫn cảm thấy thời tiết bình thường.
Một người trong ban lễ tân vội chạy lên đưa cho nhà Yoga Brahmachari một chiếc áo choàng lông. Ông mỉm cười đáp lễ ''Xin cảm ơn! Tôi tự tạo được nhiệt bên trong, khi cần đến”...
Bà David - Neel, nhà thám hiểm Pháp nổi tiếng người Châu Âu đầu tiên đã đột nhập được vào Cấm thành Lhasa Tây Tạng. Bà thông thạo tiếng Palisanskrit và tiếng Tây Tạng. Bà đã đạt được tầng thứ như các Đạt lai Lạt Ma truyền dạy cho những nghi lễ bí truyền nhất của Tây Tạng. Trong tác phẩm Huyền thuật và các pháp sư Tây Tạng, bà có kể về một cuộc thi lạ lùng thư sau: ''Vào một đêm trăng sáng gió thổi mạnh, các Yogi tự nhận là đã có thể chịu được những thử thách khắc nghiệt, đã cùng với minh sư của mình lặng lẽ đi về phía bờ sông băng giá... các Yogi tham dự cuộc thi mình trần. Ngồi xếp bằng trên mặt băng. Người ta khoét một lỗ băng vừa rộng bằng cái mâm, nhúng những chiếc khăn xuống nước, đợi cho tới khi đông cứng mới kéo lên. Mỗi người dự thi nhận một chiếc khăn, cuốn vào minh rồi làm cho nước đá tan ra và chiếc khăn dần dần trở nên khô kiệt. Lúc này, người ta lại lấy chăn ra nhúng nước và người dự thi lại cuộn lên mình. Cứ như thế cuộc thi kéo dài cho tới lúc Mặt trời mọc. Ai là người làm cho khô được nhiều chăn nhất sẽ là người thắng cuộc và được vinh dự mang danh hiệu “Kẻ nắm vững bí pháp Lửa tam muội”.
Một thử thách nữa minh chứng rằng các Yogi đã nắm vững bí pháp Lửa tam muội. Họ để các Yogi ngồi vào tuyết. Khối lượng và diện tích tuyết tan ở xung quanh chỗ ngồi cho biết các Yogi đã nắm vững bí pháp này đến mức độ nào.
Nhiều nhà thám hiểm Âu Châu cũng được tận mắt nhìn thấy các pháp sư Tây Tạng mình trần sống heo hút trên đỉnh Hymalaya tuyết phủ. Các Yogi Ấn Độ cũng là những người nắm vững bí pháp Lửa tam muội. Tiến sĩ Evanswentz, người cũng đã từng sống nhiều năm với các minh sư Tây Tạng và Ấn Độ cũng kể rằng ''Vào mùa Hè năm 1918, tôi có đi hành hương vài tuần với một nhóm tu sĩ khổ hạnh Ấn Độ. Cũng như tôi, các tu sĩ này tới thẳng Tây Tạng từ vùng đồng bằng nóng bỏng của Ấn Độ. Chúng tôi gặp nhau ở Snnagar. Tại đây, hoà vào đám hành hương đông đảo từ khắp nơi trên đất Ấn tụ họp lại, đàn ông, đàn bà thuộc nhiều đẳng cấp, chúng tôi cũng lên đường nhằm hướng vùng băng tuyết trên dãy Hymalaya thuộc xứ Cachemlre. Chúng tôi tới nơi hành hương tôn nghiêm đã được sùng kính từ nhiều Thế kỷ nay, đó là Động Amar Nath trong đó thờ dương vật (Linga) của Thần Siva, vị thần chủ thể Thế giới, tạc bằng nước đá, một số tu sĩ khổ hạnh không mặc một thứ quần áo gì khác ngoài mảnh vải quấn ngang hông, ngay cả khi lên độ cao 3000m, ban đêm gió lạnh thấu xương, giá lạnh từ những vùng cao tuyết phủ đổ xuống. Ngay cả lúc đi qua những vùng băng tuyết, một số tu sĩ khổ hạnh vẫn mình trần và họ vẫn cứ giữ như thế cho tới khi kết thúc cuộc hành hương…”
Thì ra, cũng giống như các pháp sư Tây Tạng, các Yogi Ấn Độ đã nắm vững bí pháp ''Lửa tam muội''.
Vậy "Lửa tam muội'' là gì? Do đâu mà các Yogi lại có khả năng chịu đựng cái rét khốc liệt như vậy?
''Lửa tam muội'' tiếng Tây Tạng là Toumo, có nghĩa là nhiệt, song đây không phải là thứ thiệt thông thường, mà là tâm nhiệt (Psychicheat).
Trong phép tu tiên của các đạo gia Trung Hoa cũng có nói đến ''lửa tam muội'' chẳng hạn, trong sách Chân tiên bí truyền, hoả hậu pháp có viết: ''Tâm là quân hoả, nên gọi là thượng muội, thận là thần hoả, nên gọi là trung muội, bàng quang là dân hoả, nên gọi là hạ muội. Tam khí tụ nên sinh ra lửa, vì vậy gọi là ''Lửa tam muội''.
Theo một giáo huấn truyền bí của các minh sư Ấn Độ và Tây Tạng, từ ''Toumo" nói lên cách rút Prana từ cái bình Prana vô tận của thiên nhiên, nạp vào “ắc quy cơ thể” để từ đó biến thành một thứ năng lượng tinh tế, sản ra một thứ ''tâm nhiệt'' thần diệu chuyển vận sưởi ấm toàn thân.
Prana, theo Yogi, là cơ sở của mọi lực, là năng lượng tạo thành sự sống của vạn vật trong trời đất, là nhiên liệu của phổi và của toàn cơ thể. Không có Prana sẽ không có sự sống. Nó là linh hồn của mọi lực và mọi dạng năng lượng. Nó có trong không khí, mặc dù không phải là không khí có trong thức ăn mặc dù không phải là thức ăn có trong vitamin, trong nước nhưng không đồng nhất với thành phần hoá học của nước. Tất cả các chất kể trên chẳng qua chỉ là chất vận chuyển Prana. Không khí tràn đầy Prana tự do và dựa vào phép thở Yoga ta có thể tàng trữ được một lượng lớn Prana, đồng thời nắm được nghệ thuật điều khiển, hội tụ, thăng hoa Prana trong chính bản thân mình, biến nó thành một thứ năng lượng vi diệu sưởi ấm toàn thân, tạo nên sự phấn khích trong từng tế bào cơ thể.
Các công trình nghiên cứu tâm lý sinh học ngày nay cũng đã chỉ rõ rằng, việc luyện thở theo phương pháp Yoga (Pranayama) quả thực đã tác động tích cực đến hệ thống thần kinh trung ương của con người, từ đó nâng cao hoạt động điều chỉnh của hai bán cầu đại não, kết quả huy động được những dự trữ tiềm ẩn của hệ thần kinh và toàn cơ thể.
Như vậy là đằng sau những bài tập đơn giản, bình thường mà các Yogi Ấn Độ và Tây Tạng thực hiện từ ngàn xưa chúng ta thấy dấu ấn những quá trình biến đổi, vô cùng phức tạp và lý thú.
Tới đây, chúng ta nhớ tới lời bà Thérèse Brosse, một Bác sĩ người Pháp đã từng nghiên cứu Yoga với những phương tiện y học hiện đại trong suốt 30 năm trời, đã viết cuốn Nghiên cứu với các dụng cụ sinh lý kỹ thuật Yoga như sau: ''Kinh nghiệm của những người tập luyện cũng như các thí nghiệm chứng tỏ: sự thở là một ngã ba đường, chỗ gặp nhau của những hoạt động sinh lý và tâm lý. Thở có khả năng phát hiện cho khoa học con người nhiều bí ẩn sâu sắc…”.
Vượt biển trên một… cành lau
Sư tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Tây Trúc sang Trung Hoa truyền Đạo. Người trụ trì các chùa Thiếu Lâm trên Núi Sơn. Chính tại chùa này, người đã dạy cho các Thiền sư Trung Quốc phép luyện khí, phép quán tưởng, phép Thiền định... Giới võ tâm Trung Quốc còn học được các môn võ học Tây Trúc chân truyền. Truyền thuyết Phật giáo Thiền tông kể rằng, sau 9 năm hoằng hương đạo pháp, Sư Tể phiêu lãng trên mặt nước mênh mông trở về quê hương bằng một cành lau. Chuyện đó hư thực thế nào ít ai nói được...
Thế nhưng, từ lâu người ta quả có gặp Thiền sư, qua một quá trình khổ luyện lâu dài, có khả năng đề khí khinh thân, phiêu hành nhẹ nhàng như chiếc lá. Cũng trong tác phẩm Huyền thuật và các pháp sư Tây Tạng, bà David-Neel kể: ''Vào lúc chiều tà, chúng tôi cưỡi ngựa thủng thẳng qua miền cao nguyên rộng lớn. Bỗng tôi thấy ở phía xa xa trước mắt chúng tôi, hơi chếch về phía trái một chấm đen nhỏ xíu. Qua ống nhòm, tôi nhận ra đó là một người. Tôi lấy làm lạ. .. ở miền này vắng người kia mà? Đã mười ngay trời, chúng tôi không hể thấy một bóng người. Nhất là những lữ khách đơn độc chẳng ai dám mạo hiểm chu du miền cao nguyên mênh mông hoang vắng này. Vậy lữ khách đó là ai? Tiếp tục nhìn qua ống nhòm, tôi nhận thấy con người đó sải bước hết sức lạ lùng, nhanh khôn tả... Không thể nói được rằng vị Thiền sư đó đang chạy. Cứ mỗi sải bước nhà sư như bay trong không trung, bồng bềnh về phía trước giống như một quả bóng đàn hồi... Chúng tôi dõi nhìn theo gần ba cây số. Nhưng rồi ông rẽ ngoặt khỏi con đường ngựa chạy, leo lên sườn núi và mất hút trong dãy núi chập trùng bao bọc của cao nguyên... ''
Một số minh sư cho tôi hay rằng, sau nhiều năm tu luyện sẽ đạt đến mức: khi đã vượt qua một đoạn đường nhất định, các vi Thiền sư sẽ không chạm đất và họ lướt đi trong không trung với tốc độ nhanh kỳ lạ”.
Ở Tây Tạng, bí pháp này có tên là Loang gom pas. Vốn là tín đồ Phật giáo, đã từng làm lễ tắm gội dưới Sông Hằng và ngồi Tiền định dưới gốc bồ đề, David-Neel cho rằng vị Thiền sư trên đang đi trong trạng thái xuất thần (état de transe).
Theo giáo lý Yoga, người ta sống bình thường, với một hình thức năng lượng nhất định, nhưng trong con người còn có một hình thái năng lượng tiềm ẩn, được hình dung dưới dạng con rắn lửa Kundalinlthu mình nằm cuộn ở đốt sống cuối cùng cơ thể, đang mê mải chìm trong giấc ngủ triền miên. Nhờ Thiền định, con người thức tỉnh được con rắn lửa, nó trườn lên, ngoằn ngoèo dọc theo cột sống, tới đỉnh đầu tỏa sáng, làm cho con người đạt được sự minh triết thiêng liêng, những quyền năng siêu việt. Lúc ấy, một luồng năng lượng khủng khiếp trào dâng trong cơ thể. Thân xác con người tựa thư chắp cánh nhẹ tênh, bồng bềnh trôi nổi. Họ chấp chới hướng tới hoà nhịp với vì sao chiếu mệnh. Khả năng khinh thân của Yogi diễn tiến chính trong trạng thái ấy.
Thường thì, khả năng khinh thân của các Yogi dễ xảy ra ở những nơi đồng không mông quạnh, trên các thảo nguyên, dưới những đêm trăng. . .
Để có được khả năng khinh thân siêu thường đặc biệt, các Yogi có thể trải qua các bước nằm yên nổi bồng bềnh trên mặt nước, chuyển nhẹ nhàng trên các cành cây, tựa nhẹ vào một cây tre hoặc khẽ bám vào một sợi dây có thể ngồi ''kiết già'' lơ lửng trên không. . .
Kinh nghiệm cuộc sống cũng đã từ lâu cho thấy và sau đó đã được khoa học khẳng định một sự kiện là: khi nào ở vào trạng thái thiu thiu, chập chờn, gần như ngủ thì nó trở nên nhạy cảm khác thường đối với những lời nói hay, những hình ảnh tưởng tượng diễn ra lúc đó, tạo cho con người có khả năng ảnh hưởng đến những chức năng cơ thể mà ta không thể nào bắt nó tuân theo trong những lúc bình thường. Như chúng ta biết những người trong trạng thái miên hành nhìn vẻ bề ngoài xem chừng như họ vẫn tiếp tục ngủ, mắt họ thậm chí nhiều khi vẫn nhắm, thế mà họ có thể đi đứng, leo trèo thoăn thoát trên những nóc nhà cao, có thể nhẹ những chuyền từ cành cây này sang cành cây khác, hay băng qua những hào sâu đến rợn người. . .
Thì ra, trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, gần giống như khi Thiền định, con người đã vận động dựa vào khoảng tâm lý sâu ẩn tiềm tàng, dựa vào những cơ quan cảm xúc hoàn toàn khác so với lúc bình thường.
Chính vì lẽ đó mà có những phát minh khoa học, những sáng tác thơ văn bất hủ đã đến với con người trong lúc mơ màng ngủ gà ngủ gật: nhà hoá học Đức Kekule đã tìm ra công thức cấu tạo của ben-zen; nhạc sĩ Italia: Tartini trong lúc nằm mơ, thấy một con quỷ đang chơi một giai điệu kỳ diệu, tỉnh dậy ông đã ghi lại những nốt nhạc thích hợp cho tác phẩm của mình; nhà văn Pháp Voltaire đã nằm mơ thấy bản mới tập thơ: La Henriade của mình.
Khoa học từ lâu đã nói tới cái “siêu tôi”. Tác động tới cái “siêu tôi” ẩn tàng dưới những tầng sâu sẽ cho con người có được những khả năng đặc biệt, bất ngờ. Phải chăng ở đây con người cũng có thể rút tỉa cách thức tỉnh Nữ thần Kundalini của pháp môn Yoga áp dụng cho việc tiếp cận với cái ''siêu tôi'' bí ẩn? Thì ra, cái "Tôi thường Nhật'' (phàm ngã) quả nhỏ bé hơn cái "tôi đích thực'' (chân ngã) rất nhiều. Chỏm núi băng lộ ra trên mặt biển thật chẳng thấm tháp vào đâu so với phần ẩn chìm dưới nước!
Tồn tại từ ngàn xưa, nhờ nắm vững sâu sắc hệ thống thông tin rộng lượng của cơ thể, pháp môn Yoga đã chỉ cho ta con đường hoàng thiện bản thân. Hệ thống những vấn đề về bài tập Yoga phản ánh bản chất phức tạp của thiên nhiên xung quanh ta, của Thế giới trong ta và ngoài ta, gắn kết với nhau bằng sự thống nhất biện chứng cái hữu sinh và cái vô sinh trong một chỉnh thể duy nhất. Ở đây, qua các phép luyện khí, luyện ý, luyện tư thế và thả lỏng bắp cơ các Yogi đã học được cách điều chỉnh hoạt động ở những vùng nhất định của não bộ, nhờ đó điều khiển được các chức năng tâm vật lý, tâm sinh lý và thần kinh nội tiết (neuroendo - crinology), điều khiển được năng lượng sinh học.
Sứ mệnh của khoa học chính là thông qua quyền năng siêu phàm của các Yogi để khám phá ra những quy luật của tự nhiên. Còn tập theo Phương pháp Yoga, con người chẳng những có thể phát huy được những tiềm năng ẩn tàng trong cơ thể đồng thời còn cảm nhận được sự hoàn thiện tuyệt diệu của con người, như nhà thơ bi kịch cổ Hy Lạp Sophocle đã nhận xét trong vở Antigone của mình:
Trời – Đất có muôn vàn kỳ diệu,
Nhưng kỳ diệu nhất chỉ có con người!