SỰ GẶP NHAU KỲ DIỆU CỦA HAI NỀN
VĂN MINH ĐÔNG TÂY
Triết học phương Đông xưa, từng quan niệm Con người tiểu Vũ trụ", quan niệm đó càng tỏ ra xác đáng trước những khám phá của khoa học thời đại .
CON NGƯỜI Và ĐỜI NGƯỜI - Một đối tượng, một đề tài mà thời đại nào trong suốt lịch trình của nhân loại cũng đều chuyên tâm khảo cứu, muốn hiểu biết tường tận về nó, nhưng càng đi mãi vào cái Thế giới “huyền bí” ấy, cái Thế giới vừa của lĩnh vực vĩ mô, vừa của lĩnh vực vi mô, một Thế giới vừa của vật chất (thể xác), vừa không phải của vật chất (Thế giới tâm - linh) đầy bí ẩn; bởi có quá nhiều mối liên hệ và sự tương tác với con người và đời người. Sự phức tạp và bí ẩn dường như cứ gia tăng mãi đến vô cùng theo sự phát triển trí tuệ và khoa học! Con Người – Đời người và Vũ trụ như một hệ thống hoàn hảo - là tập hợp của những chuỗi mã số có quan hệ thống nhất được "điều khiển" chính xác, đồng bộ với những “sợi chì màu nhiệm" xuyên suốt Vũ trụ, mà các nhà khoa học cuối Thế Kỷ XX đã đi qua gọi là “những lớp nhịp điệu”, “Nhịp điệu vũ trụ”.
Trong Vũ trụ, Mặt trời cùng với môi trường bao quanh nó liên tục truyền cái trật tự của mình tới tất cả những gì trên Trái đất. Ngay cả Mặt trăng, một vật thể gần Trái đất nhất, cũng gây ảnh hưởng tới Trái đất. Mọi sinh vật và cả những đồ vô tri vô giác đều “hưởng ứng” với nó và thay đổi cùng với nó. Các con sông thay đổi dòng chảy theo ánh sáng Mặt trăng, các đại dương thay đổi các đợt sóng triều theo sự mọc và lặn của Mặt trăng. Các đợt ''triều lên" không chỉ bao gồm nước của biển cả và đại dương mà còn cả lớp không khí của Trái đất, cả lớp vỏ cứng (mặt đất) cũng có hiện tượng "tiều lên xuống”, hiên tượng ''triều lên - xuống" cũng diễn ra ngay trong sinh thể con người và tất cả sinh vật nói chung. Các nhà vật lý, y - sinh học và nhiều ngành khoa học đã phát hiện ngày một nhiều về những nhịp đệu có chu kỳ khác nhau diễn ra trong cơ thể con người: chu kỳ ngắn nhất có thể vài phần giây đến vài giây, như tần số của những dòng điện sinh vật, nhịp tim, nhịp thở, nhu động đường ruột, sóng điện não (chừng xấp xỉ một giây). Nhưng nhịp điệu này có thể thay đổi theo thời gian trong ngày, theo thời tiết và môi trường. Có chu kỳ kéo dài từ vài chục phút đến vài giờ, như chức năng của thận, của máu, và hoạt động trí óc...
Nhịp điệu cỡ ngày đêm (24 giờ) rất phổ biến ở hầu hết sinh vật và nhiều chức năng của cơ thể con người. Khoa học đương thời đã phát hiện có hơn 40 quá trình sinh học có nhịp điệu 24 giờ ( nhịp điệu ngày- đêm) như nhịp điệu thân nhiệt, nhịp trệu tim, nhịp điệu trí tuệ, sự biến đổi thành phần của máu... Điển hình là nhịp điệu thân nhiệt: Nhiệt độ cao nhất của con người vào lúc 18 giờ và thấp nhất vào lúc 1 giờ đến 5 giờ, với biên độ 0,6 - 1,30C. Nhịp điệu đó không phụ thuộc vào mức độ vận động, mà thay đổi theo chế độ ăn ngủ, nghỉ ngơi. Những người chuyên làm việc về đêm thân nhiệt đạt tối đa sẽ chậm lại về đêm.
Hoạt động của tim vào lúc 18 giờ có tần số lớn nhất, sau đó nhịp đập sẽ chậm lại khi vào giấc ngủ. Nhịp điệu hệ tuần hoàn hạ thấp nhất vào lúc 13 giờ và 21 giờ. Nhịp điệu biến đổi thành phần của máu lại diễn ra như sau: số lượng tiểu cầu đạt mức tối đa vào buổi sáng, số lượng sắc tố đạt tối đa vào lúc 11 giờ đến 13 giờ, và nhỏ nhất vào lúc 16 - 18 giờ; lượng đường trong máu đạt tối đa vào buổi sáng và tối thiểu vào ban đêm: hàm lượng adrênalin lớn nhất vào 7 - 8 giờ ứng với lúc hoạt động cơ thể tăng cường mạnh nhất. Có thể nói, nhịp điệu ngày đêm của cơ thể diễn ra tuần hoàn và chính xác có thể đạt tới từng phút, thậm chí từng giây. Tuy nhiên, toàn bộ chu kỳ nhịp điệu ngày, đêm của cơ thể dao động (xê dịch) với biên độ 23 - 25 giờ. Đặc biệt có những nhịp điệu đúng bằng 23 giờ 56 phút 4 giây, ứng với thời gian Trái đất quay một vòng xung quanh mình nó.
Có nhịp điệu dài hơn 24 giờ, như nhịp điệu tháng, năm... được chi phổi bởi ảnh hưởng của Mặt trời và Mặt trăng. Mặt trời quay một vòng quanh trục của nó trung bình là 27,3 ngày. Còn Mặt trăng quay xung quanh Trái đất là 29,5 ngày. Điều đó cho ta liên hệ tới nhiều chu kỳ hoạt động sinh vật trên Trái đất, điển hình là chu kỳ rụng buồng trứng, chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ, nhịp trệu Sinh lý - thụ thai ở con người, và chu kỳ động hớn (động đực) của động vật... đều có liên quan tới chu kỳ chuyển động của Mặt trăng nhiều hơn. Chính vì thế, thời cổ xưa đã cho rằng Mặt trăng là thần của ái tình, thần của khí dục, thần của tâm hổn... Như vậy, hiện tượng này đã được phát hiện từ rất xưa.
Dưới tác dụng sức hút của Mặt trăng, trong con người diễn ra thuỷ triều sinh học. Sự ion hoá của khí quyển, hoặc sự biến động về từ trường Trái đất đều lệ thuộc vào các pha của Mặt trăng. Theo các quan sát này, đổi chiếu với nhiều số liệu thống kê cho thấy, con số các rối loạn về tâm lý, trạng thái sinh lý mạnh mẽ đều tăng vọt vào đầu tuần trăng. Ngoài ra, còn cho thấy những biểu hiện thay đổi về trạng thái thần kinh não, tim mạch lại chịu tác động mạnh mẽ với vòng quay (chu kỳ) của Mặt trời, và xuất hiện những tai biến đối với con người, xã hội cũng gia tăng khác thường.
Khoa học cũng ghi lại được nhịp điệu có những chu kỳ lớn hơn như chu kỳ 11 năm (theo ý kiến một số nhà khoa học cho rằng có liên quan tới một nhịp điệu chưa biết nào đó trong Vũ trụ), chu kỳ 18.6 năm, chu kỳ 176,77 năm v.v…
Mỗi lần xuất hiện những chu kỳ này (27 ngày, 11 năm, 176,77 năm) với mức độ khác nhau về cường độ mà bề mặt Trái đất phải chịu những dòng bức xạ vô cùng lớn, khiến khí quyển bị nhiễu loạn, lực từ trường bị thay đổi, bão từ và bão từ khí quyển xuất hiện, cường độ các tia Vũ trụ thay đổi, sự tuần hoàn của khí quyển, lưu lượng nước ở các dòng sông, mức nước các hồ lớn và ngay cả những dòng nước ngầm trong đất cũng bị thay đổi…
Gần đây, người ta còn phát hiện thấy mối tương quan giữa tuần trăng và thời tiết khí hậu, càng làm rõ thêm ý nghĩa ngoại sinh của các nhịp điệu tháng trong sinh hoạt và đời sống. Nếu Mặt trăng có vai trò quan trọng trong nhịp điệu tháng, thỉ ảnh hưởng của khí hậu càng dễ nhận thấy hơn trong những nhịp điệu hàng năm và nhiều năm mà Mặt trời là tác nhân quan trọng hàng đầu.
Như vậy, nhịp điệu sinh học trên Trời đất nói chung, nhịp điệu sinh học của con người nói riêng có nguồn gốc tính từ nhịp điệu Vũ trụ, những ảnh hưởng của Mặt trời và Mặt trăng là yếu tổ chủ yếu, trực tiếp.
Ngoài ra, một vấn đề rất quan trọng mà người phương Đông đã có được quan niệm này rất sớm, chẳng hạn học thuyết Vận - Khí là một điển hình.
Học thuyết vận khí là phép tính dự đoán về thời tiết, khí hậu và đặc tính bệnh tật của mỗi năm theo quy luật sinh - khắc, chế hoá của Âm – Dương Ngũ hành với 5 vận 8 khí của Trời Đất, dựa trên kinh nghiệm những năm đồng Can, Chi trong một chu kỳ 60 năm (Đại vận Giáp Tý) đời trước. Học thuyết này đã được xây dựng trong sách Nội kinh tố vấn cách đây gần 2.500 năm.
Phép tính Chu Vận- Chu Khí trong một năm (cố định) để lấy tiết (mỗi tiết 15 ngày) làm mốc, và khởi đầu từ tiết Đại hàn (21, 22 tháng 1 Dương lịch); Khách vận (6 năm giống nhau) tính theo ngày tháng Âm lịch, mỗi vận gồm 72 ngày 5 khắc; Khách khí (10 năm giống nhau theo tiết, mỗi khí gồm 60 ngày 87 khắc có lẻ), tức là mỗi vòng có:
525 khắc 60 ngày 87,5 khắc x 6 - 360 ngày + (525 khắc :100) = 365 ngày 25
Do vậy, sinh lý con người có quan hệ mật thiết với khí hậu, thời tiết (thiên nhiên). Khí hậu, thời tiết biến động thường phát sinh bệnh tật, thậm chí có ý nghĩa cả về nhân thể (dáng vóc, tạng người, tính cách...).
Cổ xưa đã cho rằng thuỷ, thổ, khí hậu cũng là nhân tổ cấu trúc thành hình thể con người: nơi khí nặng thì thể người chắc mập, nơi khí nhẹ thì thể người gày, mảnh.
Còn có biết bao nhiêu những bất ngờ đến kinh ngạc khác như:
Không gian có 8 phương hướng (Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông - Bắc, Đông - Nam, Tây - Nam, Tây -Bắc), thì ở con người cũng có 8 loại mạch; mỗi mạch ứng với một phương (mạch Nhâm, mạch Đốc, mạch Xung, mạch Đới, mạch Âm duy, mạch Dương duy, mạch Âm kiển và mạch Dương kiển).... Theo Kinh dịch và Văn Vương, Bát quái đồ thì 8 mạch này được xếp theo 8 phương hướng của không gian cùng với "Bát quái" (Ly, Khôn, Đoài, Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn).
Trời có 10 Thiên Can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý), thì con người cũng có 10 đường kinh chính (Đởm, Can, Tiểu, Tràng, Tâm, Vị, Tỳ, Đại Tràng, Phế, Bàng quang, Thận). Quan hệ giữa những khái niệm và thực tế trên như sau: Giáp – Đởm, Ất - Can, Bính -Tiểu Tràng, Đinh - Tâm, Mậu - Vị, Kỷ - Tỳ, Canh – Đại Tràng, Tân - Phế, Nhâm – Bàng quang. Quý - Thận.
Đất có 12 Địa Chi ( Tý, Sửu, Dần, Mão, Thin, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi); thì con người, ngoài 10 kinh chính trên lại có thêm 2 kinh chính khác là Tâm Bào và Tam Tiêu. Tâm Bào đóng vai mẹ các kinh Âm còn Tam Tiêu đóng vai trò cha các kinh Dương – Điều mà không một danh y nào không biết.
Giữa các kinh chính có các thực thể nối lại với nhau, gọi là Lạc. Người ta thấy rằng có tất cả là 260 Lạc: và trong con người lại có đúng 360 khớp.
Số Lạc và số Khớp đúng bằng số ngày trong một năm (365 ngày).
Vậy là ta có thể suy tưởng lại những triết lý "Con Người là một tiểu Vũ trụ, hay vũ trụ được thu gọn trong một con người; hoặc ''đó là hình ảnh thu nhỏ của không gian, của Trời và Đất”. Trong cái “không gian có Trời và Đất'' ấy là các hoạt động không ngừng của một hệ thống những đồng hồ sinh học theo thời khắc cực kỳ chính xác - đó là Thời gian.
Vậy ta hãy trở lại cái khái niệm về Vũ trụ và sự tinh hoa của triết lý ''vạn vật đồng nhất thể. Vũ trụ là một”.
Ngay từ xưa, Đông y đã sớm phát hiện có nhịp tuần hoàn của "khí" trong ngày. Khí huyết vận động trong cơ thể liên tục, nhưng ở mỗi kinh mạch vượng (thịnh) lên ở một giờ nhất định và suy giảm ở một giờ nhất định. Mạch khí cũng vượng, suy tuần hoàn đủ hết 12 đường kinh là một vòng (nhịp điệu) vượng - suy của Lục phủ (phủ) Ngũ tạng (tạng) trong cơ thể:
''Khí" trong cơ thể cũng thay đổi theo mùa trong năm:
Khí trong cơ thể cũng thay đổi, tuần hoàn theo nhịp điệu trong tháng:
Khí mùa Xuân ở kinh mạch;
Khí mùa Hạ ở tồn lạc;
Khí đầu mùa Hạ ở cơ nhục;
Khí mùa Thu ở bì phu;
Khí mùa Đông ở cốt tuỷ.
Trong một tháng khi trăng tròn, trăng khuyết; con nước đầy, vơi đều ảnh hưởng tới khí lực (trường lực) của con người.
Phủ tạng | Giờ vượng | Giờ suy |
- Đởm | Giờ Tý (23 – 01) giờ | Giờ Ngọ (11 - 13) giờ |
- Can (gan) | Giờ Sửu (1 - 3) giờ | Giờ Mùi (13 - 15) giờ |
- Phế (phổi) | Giờ Dần (3 – 5) giờ | Giờ Thân (15 – 17 giờ |
- Đại tràng | Giờ Mão (4 - 7) giờ | Giờ dậu (17 - 19) giờ |
- Vị (dạ dày) | Giờ Thìn (7 - 9) giờ | Giờ Tuất (19 - 21) giờ |
- Tý (lá lách) | Giờ Tỵ (9 - 11) giờ | Giờ Hợi (21 - 23) giờ |
- Tâm (tim) | Giờ Ngọ (11 - 13) giờ | Giờ Tý (23 - 01) giờ |
- Tiểu tràng (ruột non) | Giờ Mùi (13 - 15) giờ | Giờ Sửu (1 - 3) giờ |
- Bàng Quang | Giờ Thân (15 - 17) giờ | Giờ Dần (3 - 5) giờ |
- Thận | Giờ Dậu (17 - 19) giờ | Giờ Mão (5 - 7) giờ |
- Tâm Bào | Giờ Tuất (9 - 21) giờ | Giờ Thìn (5 - 7) giờ |
- Tam Tiêu | Giờ Hợi (21 - 23) giờ | Giờ Tỵ (9 - 11) giờ |
“Khí” trong cơ thể cũng thay đổi, tuần hoàn theo nhịp điệu trong tháng:
Phủ tạng | Tháng vượng | Tháng suy |
- Phế, khí | Tháng Dần (Tháng Giêng) | Tháng Thân (Tháng Bảy) |
- Đại tràng | Tháng Mão (Tháng Hai) | Tháng Dậu (Tháng Tám) |
- Vị | Tháng Thìn (Tháng Ba) | Tháng Tuất (Tháng Chín) |
- Tỳ | Tháng Tỵ (Tháng Tư) | Tháng Hợi (Tháng Mười) |
- Tâm | Tháng Ngọ (Tháng Năm) | Tháng Tý (Tháng Mười Một) |
- Tiểu tràng | Tháng Mùi (Tháng Sáu) | Tháng Sửu (Tháng Chạp) |
- Bàng Quang | Tháng Thân (Tháng Bảy) | Tháng Dần (Tháng Giêng) |
- Thận | Tháng Dậu (Tháng Tám) | Tháng Mão (Tháng Hai) |
- Tâm bào | Tháng Tuất (Tháng Chín) | Tháng Thìn (Tháng Ba) |
- Tam tiêu | Tháng Hợi (Tháng Mười) | Tháng Tỵ (Tháng Tư) |
- Đởm | Tháng Tý (Tháng Mười Một) | Tháng Ngọ (Tháng Năm) |
- Gan | Tháng Sửu (Tháng Chạp) | Tháng Mùi (Tháng Sáu) |
Khi trăng non thì khí huyết tinh khiết, vệ khí mới hành. Khi trăng đầy (trăng tròn) thì khí huyết thực, cơ nhục bền chặt. Khi trăng khuyết cơ nhục giảm sút, kinh lạc lui, vệ khí tán. Cho nên người ta cần biết đến quy luật đó để "nhân thiên thời mà điều hoà khí huyết, bổi bổ sức khoẻ và tồn phòng giữ sức", đó cũng là đạo "Thiên nhân tương ứng" biết cương biết nhu biết tiến biết thoái đúng đạo Trời – Đất mà “tương sinh”, “tương hoà” để trường tồn.
Trong Đông y, người xưa có nói rằng: "Trời rét thì đừng trích, trờii nóng huyết không ngừng trệ, đừng cứu. Trăng non thì chớ tả, trăng đầy chớ bổ, trăng khuyết chớ châm cứu.
Đông y xưa đã có Lịch thời châm cứu trị cho từng bệnh vào những thời gian nhất định của một ngày đêm. Các lương y giỏi cũng định giờ ăn uống cho từng loại bệnh.
Do đó, việc bồi bổ cơ thể cũng phải có giờ nhất định. Ngạn ngữ cổ có câu: "Ăn vào buổi sáng là ăn cho mình, ăn vào buổi trưa là ăn cho bạn, ăn vào buổi tối là ăn cho kẻ thù!”. Người có tuổi, sức yếu không nên ăn uống thái quá vào buổi tối. Không giữ được thế ắt sẽ xảy ra sự cố.
Cổ thư Trung Hoa dạy rằng:
Mùa Xuân: "Khí của Trời – Đất mới nảy sinh, khí của người ở kinh mạch. Nên dạy sớm đi lại thong thẻ, không vấn tộc, không mặc đồ chật, tâm trí thảnh thơi. Làm được như vậy là hợp với khí Xuân.
Can (gan) khổ về sự thái quá, ăn ngọt để hoãn lại”.
Mùa Hạ: ''Khí Trời – Đất giao nhau, muôn loài đều tốt tươi, nở hoa, kết trái. Khí của con người ở tồn lạc - cơ nhục. Nên dậy sớm, chớ ngại ngày dài. Tránh giận dữ để thần khí thư thái".
Đầu mùa Hạ: " Tâm (tim) khổ về sự hoãn lai, kịp ăn chua cho thâu lại.
Trường Hạ: Tỳ (lá lách) khổ về thấp, ăn vị đắng cho khô ráo”.
Mùa Thu: “Khí Trời lạnh ráo; ''khí" Đất trong sáng. Khí của con người bì phu. Nên dậy sớm để cho người yên bình. Phế khô do nghịch khí, ăn cay cho tiết đi".
Mùa Đông: "Khí Trời bế tàng, nước giá lạnh (đóng băng), mặt đất nứt nẻ. Khí của con người ở cốt tuỷ; không nên làm nhiều động Dương khí, nên ngủ sớm dậy muộn. Tránh nơi rét gió lùa; đừng để da thịt hở nhiều khiến cho khí như ẩn giữ. Thận khô vì táo, ăn mặn để cho nhuận”.
Trong một ngày cũng có bốn mùa: buổi sáng tựa mùa Xuân, buổi trưa tựa mùa Hạ, buổi chiều tựa mùa Thu, buổi tối tựa mùa Đông.
Cách đây 2300 năm. Hippocrate - người thầy thuốc vĩ đại đã nói: Người nào muốn thực sự và hoàn toàn muốn công nhận trong nghệ thuật chữa bệnh, trước hết phải chú ý đến đặc điểm các mùa: không những vì các mùa có thể gây ra các hậu quả rất khác nhau… rất tuỳ thuộc vào các hiện tượng trong khí quyển mà còn về tình trạng cơ thể thay đổi theo sự luân phiên của các mùa".
Ngày nay, y học hiện đại cũng đã xác nhận nhiều chức năng sinh học của cơ thể thay đổi theo mùa có liên hệ mật thiết với nhịp điệu xuất hiện những chứng bệnh hàng năm; bệnh viêm nhiễm trùng đường ruột, chứng liệt tuỷ sống... xuất hiện nhiều vào mùa Hạ. Các chứng co giật liên quan tới sự mất cân bằng trong thành phần máu, hệ thống nội tiết và hệ thần kinh thực vật, bệnh tim mạch và chảy máu não lại xảy ra nhiều nhất vào mà Đông - Xuân. Một số chứng bệnh khác như loét dạ dày, tá tràng, bệnh dị ứng, bệnh do huyết áp... lại xuất hiện nhiều vào mùa Xuân.
Có thể nói con người và Vũ trụ tuy hai nhưng là một; tuy một nhưng vẫn là hai. - Đó là định lý thuận - nghịch, là mối quan hệ Sinh - Biến đồng với nhịp điệu Vũ trụ. Thật ít có nhịp điệu nào của Vũ trụ bỏ qua con người và đời người. Phải chăng khoa học đương thời đã lặp lại những trí tuệ mà một thời từng huy hoàng ở phương Đông,v.v…
Quả thực, đã một thời, những triết lý của Đông phương cổ xưa về Vũ trụ và con người bị ''người đời" xem như "vô nghĩa'', "nhảm nhí và quái dị”! Nhiều nhà khoa học, nhà tư tưởng phương Tây đã phủ nhận và bài xích, coi như những nghịch lý hoang tưởng!. Nhưng nay thì đã khác, có không ít những nhà khoa học cỡ lớn đã bắt đầu tìm đến, đánh giá lại một cách nghiêm túc triết lý đó, sự trở lại với triết lý cổ phương Đông về phương diện này. Và nó chỉ có được khi nhiều lĩnh vực khoa học tiên tiến của phương Tây đã đạt tới những đỉnh cao của sự thăng hoa. Khoa học phương Tây đã "sững sờ" gặp lại những hình bóng tương đồng với mô hình triết học của phương Đông cách đây hàng nghìn năm. Đúng như Giáo sư vật lý Nguyễn Hoàng Phương đã nói "Cái Đạo của Lão Tử chính là hình ảnh của cái chân không (Vacuum) của vật lý hiện đại. Cái Một của Lão Tử chính là tư tưởng chủ đạo của lý thuyết siêu thống nhất của vật lý học hiện đại; Người là một Tiểu Vũ trụ, cũng chính là hình ảnh của khoa học về hologramme (toàn đồ) của vật lý hiện đại”. “Tất cả các nhà vật lý hiện đại đều hiểu một cách chắc chắn rằng, thực thể Vacuum - gọi là chân không vật lý - chính là môi trường sản sinh ra được mọi hạt cơ bản và các trường vật lý... “. Điều lý thú nữa là: ''Khi vật lý học hiện đại đã đi tới chân tướng, giới hạn của mình: ra ngoài các mật độ 1093gram/cm3 thì vật lý học hiện hành không còn đúng nữa... Những gì nằm đằng sau bức tường đó? Chưa rõ phải chăng đó là những hình tượng của nền triết học cổ phương Đông?
Vật lý hiện đại đã tìm ra "cái chân không vật lý chia từng vùng'' (domaine); mỗi vùng có một bức tường ngăn cách; bức tường đó rất mỏng nhưng với mật độ rất cao chia thành hai phân vùng. "Một phần vùng Âm trong đó có Dương; và một phần vùng Dương trong đó có Âm...”. Giáo sư Hoàng Phương trình bày tiếp: "Chúng ta giật mình nhìn cái hình ảnh này... vì chính nó là Đồ hình Thái cực của Kinh Dịch”, là biểu tượng tổng quan, cô đọng cái chân nguyên bản thể của Vũ trụ - Con người; nơi xuất phát điểm của mọi bản chất và hiện tượng, mọi quan hệ Sinh - Biến trong Vũ trụ và Con người, trong cái tự nhiên mênh mang vô tận đến mỗi con người và xã hội cùng bao quan hệ phức tạp của nó.
Trong vật lý học hiện đại đã tìm ra và đi tới các khái niệm ''chân không nhiều tầng”, thì phương Đông cổ xưa cũng đã từng nói đến - Đó là: "chân không có đến 6 tầng, mà ở đó ''còn tạo được những thực thể còn bé hơn rất nhiều các khái niệm về các hạt hiện con người biết là electron, quark...”. Nhiều phát hiện tương đồng khác của khoa học hiện nay đã nói lên sự minh triết và trí tuệ tuyệt vời của người xưa.
Có điều "Người đời" khi đã bước qua những nấc thang khác quá nhanh, thường quên đi, hoặc có tâm lý muốn phủ định cái nơi xuất phát của chính mình!
Không phải ngẫu nhiên, một số nhà khoa học lớn phương Tây đã tự thấy mình cần phải quay lại dĩ vãng cổ phương Đông xa xưa. Và không chỉ có họ, đã đến lúc chúng ta cần thiết phải biết trân trọng và khai thác những ''tài nguyên" vô giá đó với ý thức ''Đãi cát tìm vàng”. Nếu muốn đi sâu vào bản chất thì đừng sợ cùn mũi dùi, vì rằng "cái nhọn là không vĩnh hằng...”. Ngày nay, nhiều nước có nền khoa học - kỹ thuật tiên tiến như Mỹ, Nga, Đức, Nhật cũng đã lập những Viện nghiên cứu về nền văn hoá phương Đông kỳ diệu để họ khám phá, tìm hiểu "Cái tiềm tàng vô giá" của xứ sở này về khoa học. Và phải chăng khoa học siêu hình, "Hư vô" này, phương Tây đã gặp phương Đông trên trục thời gian phía sau của lịch trình tiến hoá.
NGUYỄN HOÀNG ĐIỆP - VŨ TRỌNG HÙNG
(Biên khảo, tuyển chọn)