PHÉP THAI TỨC - BÍ PHÁP TRƯỜNG THỌ CỦA ĐẠO GIA (C)
Thở là khâu then chốt trong tất cả các phương pháp tu tập Cổ đại Đông phương. Thở gắn kết với con người và Vũ trụ, tác động qua lại giữa tâm lý và sinh lý, đều hoà Âm – Dương, khơi gợi tiềm năng, đẩy lùi bệnh tật, đem lại sức khoẻ và niềm vui cho con người. Nắm vững được những phương pháp thở cổ xưa, con người mới có thể phát huy được những khả năng siêu thường bí ẩn.
Quả đúng như Trang Tử đã từng nói: ''Người bình thường thở bằng cuống họng, còn các bậc Chân nhân thở bằng gót chân”.
Phép thai tức của Đạo gia chính là một trong số những phương pháp còn ít được người đời biết đến.
a. Bản văn bộ kinh 83 từ uyên áo
Hiện nay còn lưu giữ được bộ kinh tối thượng về phép dưỡng sinh của Đạo gia: đó là bộ Thai tức kinh. Đây là văn bản sớm nhất trình bày về phép thai tức cổ xưa. Cả bộ kinh chỉ vẻn vẹn có 83 từ, song đã kết tinh được những tri thức sâu sắc, xúc tích và uyên áo về phép thai tức. Bộ kinh này được viết vào đời Đường, không rõ tác giả và được thu thập trong Đạo Tạng - bộ sách tập hợp những văn bản cổ của Đạo giáo. Ảo Chân tiên sinh sống vào thời Trung Đường là người đầu tiên chú thích kinh này. Về sau, Vương Văn Lục đời Minh cũng có viết: Thai tức kinh chú sớ. Còn về sách xưa bàn về phép thai tức ta có thể kể Thái Thượng dưỡng sinh thai tức kinh, Thai tức tinh vi luận, Thai tức bảo nhất ca, Thai tức bí yếu ca quyết, Thai tức minh, v.v...
Nguyên văn Thai tức kinh như sau: (83 từ)
- Thai tòng phục khí trung kết, Khí tòng hữu thai trung tức, khí nhập thân lai vi chi sinh, thần khí ly hình vị chi tử. Tri thần khí khả dĩ trường sinh, cố thủ hư vô dĩ dưỡng thần khí. Thần hành tức khí hành, thần trú tức khí trú. Nhược dục trường sinh, thần khí tương trú. Tâm bất động niệm, vô lai vô khứ, bất xuất bất nhập, tự nhiên thường tại, cần nhi hành chi, thị chân đạo lộ.
Dịch nghĩa:
- Thai kết thông qua phục khí, khi đã kết thai sẽ sinh thai tức, khí tự nhiên sẽ đi vào cơ thể. Khí đi vào cơ thể là sống, thần rời khỏi hình gọi là chết. Hiểu rõ về thần khí có thể trường sinh, hãy giữ ở trạng thái hư vô để dưỡng thần khí. Thần hoạt động khí sẽ hoạt động theo, thần ngừng, khí cũng sẽ ngừng. Nếu muốn trường sinh, thần khí phải hoà hợp, không tách rời nhau. Tâm gạt bỏ hết tạp niệm, chẳng bận lòng, chẳng vương vấn điều gì, hoàn toàn thanh tịnh tự nhiên. Hãy tu tập kiên trì, đây quả đúng là con đường chân chính.
Qua bản văn ta thấy quan điểm và phép dưỡng sinh của Đạo gia đã hấp thu những tinh hoa dưỡng sinh của Nho gia và Phật gia, từ đó đúc kết thông tri thức quý giá lưu truyền trong dân gian, trên cơ sở y dược học Cổ đại Trung Hoa, hình thành nên một hệ thống dương sinh sâu sắc và hoàn chỉnh. Trong phép dưỡng sinh của Đạo gia không chỉ bao gồm cả một hệ thống tri thức về tu tâm, dương tính, mà còn hàm dưỡng cả về sinh lý lẫn tâm lý. Các Đạo gia, trên quan điểm hình thần thống nhất, đã đề xuất tư tưởng “tính mệnh song tu”, chú trọng cả ''tu tính" và ''luyện mệnh”, đồng thời chủ trương ''mệnh của ta do chính nơi ta, không phải do Trời”.
Có thể nói, phép dưỡng sinh của Đạo gia là một di sản vừa coi trọng lý luận, vừa chú ý thực tiễn, lý luận và thực tiễn nhất quán, thống nhất, rất đáng để chúng ta nghiên cứu, kế thừa.
b. Những chiêm ngẫm dẫn đưa tới phép thai tức
Đạo giáo Trung Hoa tôn Lão Tử là giáo chủ, coi Đạo đức kinh là kinh điển chính. Đối với người Trung Hoa, Đạo giáo là một tài sản văn hoá đồ sộ do người xưa để lại, được xem là một trong ba cột trụ tư tưởng chính của lịch sử Trung Hoa.
Trong Đạo đức kinh, Lão Tử có viết: "Đạo sinh Nhất, Nhất sinh Nhị, Nhị sinh Tam, Tam sinh Vạn vật”. Nhất ở đây là chỉ khí Tiên thiên hay còn gọi là Thần khí. Nhị tức Âm - Dương. Tam là Âm – Dương và Thần khí hay còn gọi là chân khí. Ba yếu tố đó kết hợp với nhau tạo nên muôn vật. Vì vậy, Đạo là tối cao, tối thượng. Xét về cái lẽ vần xoay của Vũ trụ thì Đạo là động lực chính điều khiển sự chuyển vận của hai khí Âm - Dương. Điều đó cho hay Đạo chẳng những tồn tại trong muôn vật mà còn điều khiển sự vận động, sự biến hoá của vạn sự, vạn vật. Con người tu tập theo các phương pháp cổ truyền Đông phương chính là lấy hai khí Âm - Dương làm cơ sở vật chất, lấy sự chỉ đạo của cái lẽ về sự chuyển vận của khí ''một Âm, một Dương" để đạt tới khí Chân nhất.
Đạo đức kinh còn nói: ''Trong vạn vật không có vật nào mà không chứa Âm và mang Dương”. Vạn vật nói ở đây bao gồm cả con người. Âm – Dương trong cơ thể chủ yếu biểu hiện ở hai mạch Nhâm và Đốc, trong đó mạch Nhâm là Âm, bắt đầu từ môi dưới và kết thúc ở trước hậu môn, đó là nơi tàng khí huyết. Mạch Đốc là Dương, bắt đầu là môi trên kết thúc ở phía sau hậu môn, đó là nơi tàng Thần khí. Lúc còn là thai nhi nằm trong bụng mẹ, hai mạch Nhâm – Đốc yên dĩ thông với nhau. Vì thế thai nhi tuy gân mềm xương yếu mà cơ thể phát triển vô cùng vượng thịnh, khả năng miễn dịch cực cao. Sau khi con người chào đời, cuống nhau bỗng nhiên bị đứt kèm theo tiếng khóc và lần đầu tiên, khiến Nhâm – Đốc giờ đây phải phân chia đôi ngả: trên thì đứt ở miệng, dưới thì đứt ở hậu môn. Mới đầu do nguyên thần chủ trì, nên vẫn ngày một lớn khôn, cường tráng; nhưng càng về sau, con người ngày một suy yếu, ốm đau, bệnh tật, tử vong. Nếu biết gắng công tu luyện lại nối liền được hai mạch Nhâm – Đốc, lúc ấy có thể được gọi là “Đắc đạo”. Bởi lẽ Nhâm – Đốc là tổng kinh mạch của cả cơ thể, Nhâm - Đốc thông thì trăm mạch tự thông, trăm bệnh đều lui. Nhâm – Đốc thông thì có thể lấy lại được khả năng thai tức, nghĩa là khôi phục lại được sự hít thở như của thai nhi nằm trong bụng mẹ.
Thai nhi, khi nằm trong bụng mẹ, không thở bằng mũi và mồm, mà sự hô hấp của người mẹ đã dẫn dắt sự hô hấp toàn vẹn của thai nhi. Người ''Đắc Đạo" khi đi vào trạng thái thai tức, cũng không còn thở bằng mũi và mồm, vậy mà chẳng hề cảm thấy bí tắc, ngột ngạt, khó chịu; ngược lại còn có cảm giác thông thoáng, thoải mái, dễ chịu, lâng lâng. Bởi lẽ hai mạch Nhâm – Đốc thông sẽ hình thành Khí chu thiên, nhờ đó khơi thông được với Khí tự nhiên. Lúc này, Tự Nhiên vĩ đại giống như người mẹ đối với thai nhi, có thể ban phát một cách hào phóng thường xuyên Khí mà người ''Đắc Đạo'' cần dùng. Chính vì thế mà người "Đắc Đạo" Thần đủ nên chẳng nghĩ đến chuyện ngủ, Khí đủ nên chẳng nghĩ đến chuyện ăn, Tĩnh đủ nên chẳng nghĩ đến chuyện tà dâm, tự mình có thể khu trừ bệnh tật, phục hồi sức khoẻ, tinh thần sung mãn, trí tuệ sáng suốt, hưởng hết tuổi trời cho. Mà đã ''Đắc Đạo'' thì không hủy diệt, tự mình có thể trường sinh bất lão: muốn sống có thể trụ ở cuộc đời, cần chết có thể khép mắt viên tịch, đón nhận cái chết an lạc, dễ dàng siêu thoát, ra đi nhẹ như lông hồng…
Người "Đắc Đạo" sống túng nghèo mà tự cảm thấy phú túc, vì họ đủ Khí, sống dân dã mà tỏ dáng vẻ thanh cao vì họ đủ Thần. Họ thực sự tri túc, thực sự yên vui. Họ sống thanh đạm, bình dân, chẳng đam mê cũng chẳng ưu phiền, ung dung tự tại, thanh tĩnh vô vi.
Tóm lại, người ''Đắc Đạo'' có thể ''hợp Đức với Đất Trời, hợp ánh sáng với Nhật Nguyệt, hợp Cát Hung với quỷ thần, hợp Mệnh lý với núi Sông trường cửu. . . ''
Từ những điều tâm ngộ trên, trải qua biết bao thể nghiệm của biết bao thế hệ nối tiếp, trong giây phút thần hiệp, người xưa đã viết nên hộ "Thai tức kinh'' uyên áo!
c. Thai tức dưới ánh sáng khoa học ngày nay
Người đầu tiên đề xuất khái niệm “thai tức” và cách luyện là Cát Hồng đời Tấn. Trong “Bão Phác Tử”, thiên “Thích trệ”, ông viết: “Người luyện phép thai tức, nếu có thể không tha bằng mũi và mồm giống như thai nhi trong bụng mẹ, như thế là Đạo thành vậy”.
Trong đoạn này Cát Hồng trình bày rất rõ về trạng thái thai tức. Người tu luyện tĩnh công đến giai đoạn cao siêu có thể hô hấp không qua miệng và mũi giống như thai nhi trong bụng mẹ, mũi miệng và khí quản không có không khí vào ra thì gọi là thai tức. Có thể nói, thai tức là quá trình sinh lý nảy sinh một cách tự nhiên trong trạng thái khí công hư tĩnh đến tột cùng. Thai tức thực chất là quá trình tiềm hô hấp hay còn gọi là chân tức. Đặc điểm chủ yếu của thai tức là hô hấp không thông qua cơ quan hô hấp như mũi, miệng, cổ họng, khí quản . . . Điều này thoạt nhìn tưởng chừng như nghịch thường, không có cơ sở. Con người làm sao có thể trao đổi ôxy và khí cacbonic với ngoại giới không thông qua hệ hô hấp? Chúng ta hãy quay trở lại với những kiến thức về sinh lý hô hấp.
Quá trình hô hấp của người có thể chia thành hô hấp trong và hô hấp ngoài. Hô hấp ngoài là cơ thể tiến hành trao đổi với hoàn cảnh bên ngoài, hấp thụ ôxy và thải khí cacbonic, còn hô hấp bên trong là sự hô hấp của các tế bào. Tế bào thông qua màng tế bào hấp thụ ôxy ở môi trường bên trong, đồng thời cũng lại thải khí cacbonic vào môi trường bên trong cơ thể sau khi đã diễn ra sự trao đổi ôxy hoá khử. Về hô hấp ngoài, theo các Đạo gia và y gia Cổ đại Đông phương, có ba cách. Cách thứ nhất: trao đổi khí với ngoại giới thông qua mũi, miệng, khí quản, phế nang. . . ở đây, các cơ hô hấp tham gia vào quá trình hô hấp này. Cách thứ hai: thai thi trong thời gian nằm trong bụng mẹ thông qua động mạch và tĩnh mạch rốn, trao đổi khí với cơ thể người mẹ. Cách thứ ba: da, lỗ chân lông, du huyệt, khổng khiếu của cơ thể người có thể trực tiếp trao đổi khí với ngoại giới, có chức năng thấu khí. Về hai cách trên, con người hiện đại đều biết rõ, nhưng còn cách thứ ba thì ít người biết. Thế nhưng, những người tu Đạo cổ Đông phương từ lâu đã có sự thể nghiệm thiết thân đổi với chức năng hô hấp qua da, lỗ chân lông, du huyệt, khổng khiếu . . . Chẳng hạn như trong Hoàng đế nội kinh có viết: ''Độc lập thủ thần, cơ phu nhược nhất”, ám chỉ cho hay rằng, trong trạng thái Nguyên thần không bị khuấy động, ta sẽ có cảm giác da thịt cùng bầu khí quyển xung quanh hoà quyện thành một, không còn phân biệt cái gì là trong, cái gì là ngoài. Lý luận Đông y cho rằng phế chủ khí điều khiển sự khai hợp của da, lỗ chân lông và tuyến mồ hôi; Kinh túc Thái dương bàng quang chủ an toàn bộ mặt ngoài: cơ thể, điều khiển thông sự biến đổi xảy ra do sự vận động của khí, đồng thời điều khiển cả sự khai hợp của da và lỗ chân lông, cho rằng da và lỗ chân lông là những cánh cửa của sự vận động của khí. Lý luận y học cổ xưa ấy ngày nay đang dần dần được con người nhận thức. Chẳng hạn, có những nhà Yoga chôn nhiều ngày dưới hầm sâu đào lên vẫn sống hoặc một số trường hợp ''chết ngạt" do sơn hoặc bôi khắp mình bằng thuốc nhuộm móng tay. Lúc này người ta mới vỡ lẽ ra rằng chức năng trao đổi khí của da là cực kỳ quan trọng đối với cơ thể và trong khoa học sinh lý đã bắt đầu dùng khái niệm “hô hấp bằng da”.
Hệ thống trao đổi khí nói trên của cơ thể ngoài da, lỗ chân lông, du huyệt, khổng khiếu, còn bao gồm rất nhiều nội khiếu, khiếu đạo, mạch đạo. . .
Con người, sau khi chào đời, do nhiều nguyên nhân mà các hệ thống trao đổi khí nói trên bị tắc nghẽn hoặc suy thoái chức năng, chỉ có trải qua tập luyện theo các phương pháp cổ truyền Đông phương như Yoga, Khí công, Thiền . . . mới có thể khai thông và khôi phục lại được chức năng trao đổi khí vốn có của nó trước đây là một thời đã bị thoái hoá!
Tới đây chúng ta có thể hiểu toàn diện hơn về thai tức, nói cho dễ hiểu thai tức là một trạng thái sinh lý có thể đạt được trong quá trình luyện tập các phương pháp Nội đan, Yoga, Khí công. Thiền. . .
Ở trạng thái này, dưới sự chỉ đạo của Nguyên thần, cơ thể người hô hấp không thông qua đường hô hấp thông thường do mũi, miệng, khí quản tạo nên mà trực tiếp trao đổi khí với ngoại giới thông qua sự khai hợp của da, lỗ chân lông, du huyệt, quan khiếu và phế nang, đồng thời trao đổi khí với các tế bào trong toàn cơ thể thông qua hai đường nội khí vận hành là mạch đạo và khiếu đạo.
Ở trạng thái này, toàn bộ chức năng hô hấp của cơ thể được khôi phục lại đầy đủ hơn và phát huy đến mức tối đa.
Phép thai tức xưa được các Đạo gia xem như công pháp thượng thừa và xếp trong “bí tạng tâm ấn”, không chịu truyền dạy cho người đời. Ngày nay, phép thai tức được con người hiện đại nghiên cứu kế thừa và phát huy. Có thể nói phép thai tức được tái nhận thức nhằm giúp con người hiện đại giữ gìn sức khoẻ, chiến thắng bệnh tật, hiểu biết sâu thêm về những tiềm năng của chính cơ thể mình, tiến thêm một bước trên con đường hoà nhập với Tự thiên vĩ đại!