HÁN VŨ HƯƠNG HẦU GIA CÁT LƯỢNG
KHỔNG MINH (181 - 235)
Gia cát Lượng nhà nghiên cứu dịch học. Ông đã để lại các tác phẩm Âm phù kinh giải, Mã tiền khoa, Binh pháp bát trận đồ, (Bát môn kém toả).
Tiểu sử:
Qua tác phẩm cổ điển Trung Quốc là Tam Quốc Chí của La Quán Trung viết, quân sư nhà mạt Hán là Gia Cát Lượng Khổng Minh được người trong nước cũng như người nước ngoài trên thế giới coi là một kỳ nhân có bộ óc thông minh, suy tính mà người khác không lường trước được và có chí phá định mệnh, chống lại trời. Hai nhà văn phê bình của Trung Quốc là Kim Nhân Thụy Thánh Thán và Mao Tôn Cương đều nhất trí rằng Khổng Minh là một quý nhân, một kỳ nhân trong tam kỳ hay tam tuyệt của đời Tam Quốc, hai người kia là Tào Tháo và Quan Vân Trường.
Qua bài văn vần tóm lược truyện Tam Quốc, tới đoạn Lưu, Quan, Trương gặp Gia Cát Lượng, ta sẽ thấy tài năng và trí tuệ của Khổng Minh còn gấp ngàn lần lời khen của thế nhân, mới có thể đưa một ông Lưu Bị là Hoàng tộc đã thất thế phải đi bán chiếu, bán dép lên ngôi Hoàng đế một nước Thục (thực tế là một nước Hán Thục) chia một phần ba trung Nguyên ngang hàng với hai địch quốc là Ngụy và Ngô. Sự việc có thể tóm tắt:
Huyền Đức gặp Quan, Trương kết nghĩa anh em thề cùng nhau đem lại sơn hà:
Chỉ thương bốn bể không nhà,
Nay Đông, mai Bắc lân la cõi trần
Cầu Gia Cát ân cần quyến cố,
Giãi tấm lòng gắn bó nhỏ to,
Rồng bay, hố nhảy, ganh đua,
Tây Xuyên gây dựng cơ đồ một nơi.
Thành Bạch Đế mấy lời thấm thót
Tình thác cô chua xót nhường bao.
Kỳ Sơn chỏ ngọn cờ đào,
Một tay mong chống trời cao nghìn trùng
Ngờ đầu vận đã cùng khôn gượng,
Nửa đêm gò Ngũ - Trượng sao sa.
Khương Duy cậy sức làm già,
Chím phen đánh Ngụy kể đà uổng công.
Đường vào Thục Đặng, Chung kéo đến
Vận Viêm, Lưu phút biến thành Tào.
Người đời biết và thích thú thán phục Khổng Minh qua truyện Tam Quốc Chí, nhưng Tam Quốc Chí chỉ là dã sử, nên không mô tả được đầy đủ các chi tiết của một người tài trí tuyệt vời, đức độ và năng động thư Khổng Minh.
Các học giả phải bổ sung những chi tiết cụ thể và chuẩn xác bằng các sách Sử ký của triều Ngụy, Thục, Ngô, các biệt truyện, các chí, ký tất cả khoảng 16 loại để cố gắng dựng lại một Khổng Minh gần đúng với thực trạng.
Theo Thục Chí, Gia Cát Lượng, tức là Khổng Minh, vốn là người Lang Nha, Dương Độ, sinh vào giờ Tuất, Tháng 4, ngày 10, năm Tân Dậu, tức năm Quang Hòa thứ tư, đời Hán Linh Đế, tức là năm 181 Tây lịch. Lá số Tử Vi của Khổng Minh được sưu tập trong 1.000 là số chiêm nghiệm cổ kim của sách Tử Vi đẩu số toàn thư Trung Quốc với ghi chú là số vô chính diệu, Mệnh lập ở Mùi, có Thái Dương ở Mão và Thái Âm ở Hợi chiếu là cách Minh Châu lưỡng chiếu, là người tuyệt thế thông minh.
Cha là Gia Cát Khuê làm chức Quận thừa tại Thái Sơn thời Hán mạt. Tổ tiên là Gia Cát Phong là Tư lệ hiệu úy của nhà Hán.
Khổng Minh sớm bị mồ côi cha mẹ, năm 15 tuổi, Lương cùng em là Gia Cát Quân phải theo ở với chú là Gia Cát Huyền làm Thái thú ở Dự Chương, giúp Viên Thuật, được chú cho cả hai anh em làm chức quan nhỏ. Sau Hán chiều cho Chu Hao thay Huyền và Huyền chết, hai anh em lại sa cơ lỡ vận lang thang bần hàn. Lượng về nhà cày ruộng ở Đặng Huyện, vùng Nam Dương, cách thành Tương Dương 20 dặm về phía Tây; nơi ấy gọi là Long Trung. Lượng có thân dài 8 trượng (khoảng 2m), thường ngâm bài Lượng Phụ Ngâm mà Lượng rất thích và tự ví mình với Quản Trọng và Nhạc Nghị. Người thời bấy giờ cho rằng nói thế là quá đáng. Chỉ có Thôi Chu Bình ở Bắc Lăng và Từ Thứ Nguyên Trực ở Đĩnh Xuyên là chỗ thân thiết với Lượng thì tin là đúng.
Theo Tam Quốc Chí, Lượng ở đồi Ngọa Long Cang nên tự đặt tên hiệu cho minh là Ngọa Long tiên sinh.
Về việc Lượng lấy vợ thì sách Tương Dương ký chép rằng: “Ở miền Nhữ Nam có một danh sĩ là Hoàng Thừa Ngạn, tính tình thanh cao, khoát đoạt và thành thực. Ngạn đến bảo với Lượng rằng: “ Nghe anh kén vợ, tôi có đứa con gái xấu xí, đầu vàng, da đen, nhưng tài năng có thể phối hợp với anh được”. Lượng bằng lòng tức thì Ngạn đem con gái đến cho”. Người đương thời rất buồn cười về chuyện ấy, nên trong làng xóm hay nhắc câu:
Mạc học khổng Minh trạch phụ
Chi đắc A Thừa xú nữ
Nghĩa là:
Đừng học cách Khổng Minh kén vợ
Chỉ được gái A Thừa xấu kinh.
Một người tài hoa từ thuở nhỏ, tự kiêu như Lượng mà lấy vợ xấu như vậy, kể cũng là điều đặc biệt đáng ghi nhớ. Khi Lưu Bị đóng quân ở Tân Dã, nghe nói đến tên Lượng, liền ba lần đến thăm ở thảo lư của Lượng và hai người ý hợp tâm đầu, Lượng theo phò Lưu Bị từ đấy. Lúc đó là năm Kiến An thứ 12, tức là năm Đinh Hơi, Lưu Huyền Đức vừa 47 tuổi và Gia Cát Lượng 27 tuổi.
Anh ruột của lượng là Gia Cát Cẩn làm quan tại Đông Ngô với Tôn Quyền.
Khi chưa có con, Lương xin người con của Cẩn để làm đích tử và phong cho chức phò mã, nhưng với long công bình chính trực, Lương xin Cẩn cho con đi vận chuyển lương thực thì hành quân dịch như các binh sĩ khác.
Sau khi Lượng sinh được hai con trai thì cho cháu của Cẩn về Đông Ngô hội họp với ông, vì con của Cẩn là Kiều đã chết ở mặt trận.
Con cả của Lượng và cháu đích tôn đều bị chết trong những cuộc đánh quân nước Ngụy và con thứ hai của Lượng là Gia Cát Chiêm nối nghiệp.
Sau khi Lưu Bị chết, Gia Cát Lượng được giả quyền Tể Tướng và phò tá Lưu Thiện, con của Lưu Bị.
Lượng mang hết tài năng chăm lo việc nội trị, ngoài lo đánh dẹp làm viếc quá sức nên bị ốm và chết tại Gò Ngũ Trượng, trong khi hành quân, thọ 54 tuổi.
Mộ chôn tại Định Quân Sơn ở Miện Dương, không đắp lăng tẩm.
Cháu 36 đời sau của Lượng là Gia Cát Hy, làm quan với nhà Minh có lập gia phả cho Gia Cát vào năm Sung Trinh, tức năm Nhâm Thân. Các đời sau của dòng họ Gia Cát đến nay vẫn còn tiếp tục.
Sự nghiệp:
Gia Cát Lượng giúp Lưu Huyền Đức lấy được Kinh Châu, ích Châu và phía Tây Ba Thục, lập ra nước Thục, ngang hàng với hai nước Ngô và Ngụy, chia nước Hán cũ thành thế chân vạc, lúc liên minh với nhau, lúc kình địch chống nhau.
Nước Thục liên minh với nước Ngô để cự lại nước Ngụy. Thành tích nổi bật của Khổng Minh là giúp Đông Ngô cầu được gió Đông Nam vào mùa lạnh, để phá và đốt cháy 80 vạn quân Tào ở Sông Xích Bích, được cổ kim truyền tụng là một kỳ tích. Khi Lưu Bị mang quân chinh phạt Đông Ngô vì đã giết Quan Vân Trường và Trương Phi, bị thua chạy qua Ngư Phúc Phố, để vào Thành Bạch Đế, thì Khổng Minh đã bố trí một trận đặc biệt bằng những phiến đá lớn thành một trận có tên là Bát Trận Đồ hoặc Bát Môn Kim Toả (Trận 8 cửa có khoá bằng vàng) có oai phong tiềm ẩn bằng 10 vạn quân mai phục, làm cho Đại tướng Đông Ngô là Lục Tốn đuổi đến đó, phải dừng lại rồi đích thân vào xem và bị lạc trong trận, nhờ có Hoàng Thừa Ngạn là bố vợ Khổng Minh, cùng người Đông Ngô với Tốn phải vào dắt Tốn mới ra thoát trận đồ.
Trận nổi tiếng khác của Lượng là dùng tên lửa bắn thui trụi một vạn quân Đằng Giáp, dùng mộc bằng tre tẩm dầu ra trận nên bị lửa bén.
Trận độc ác của Lượng là dùng địa lôi, lừa ba cha con Tư Mã ý vào Hang Tà Cốc để tiêu diệt, nhưng vì đã có thiên mệnh là cha con Tư Mã ý sau có cháu là Tư Mã Viêm sẽ làm Hoàng đế Trung Nguyên nên trời mưa một trận lớn làm tắt hết địa lôi. Người đời thường nói: “Địa lôi không thắng được thiên lôi”.
Biết mình sắp chết, Khổng Minh lập đàn nhương tinh xin trời cho kéo dài tuổi thọ, nhưng không được.
Mưu mô và xảo thuật của Khổng Minh rất tinh vi, tế nhị cho nên ngay cả khi đã chết, còn bắt quân lính đặt mình vào xe xung trận, tay cầm quạt lông, như lúc còn sống, khiến trông xa, Tư Mã ý tưởng Khổng Minh vẫn sống, phải bỏ chạy.
Trong cuộc chinh phục phía Nam, Khổng Minh đã chế ra những xe gỗ, ngựa gỗ, cầu xích sắt và đèn đốt bằng hơi khí để bắt và tha Mạnh Hoạch đến bảy lần, khiến Mạnh Hoạch phải khâm phục và hàng phục.
Trước tác và thi văn:
Trước tác và thi văn của Vũ Hầu rất đa dạng và phong phú, từ Sớ, Tấu, Biểu, Báo, Ký, Sử, Thi thư, Ngoại giao, Binh Pháp, Huấn Thị, Lời khuyên răn con cháu, nhưng chỉ có mấy loại là người đời ghi nhớ, suy ngẫm, tán thưởng và ca ngợi như lời giải Âm phù kinh, Mã tiền khoá và Bát trận đồ.
Bài Âm phù kinh của Hiên Viên Hoàng đế sáng tác ra có 447 chữ để nói lẽ thiện, ác, sinh tồn và suy vong, hưng thịnh của con người, nhưng người đời chỉ ghi chép được mà không lý giải được, đến Gia Cát Lượng mới lý giải được 14 bài Mã Tiền Khoá là những bài Sầm ký mà Vũ Hầu tính toán khi nghỉ ngơi ở trong trận để nói lên khoảng 13 triều đại phong kiến kế tiếp nhau cai trị Trung Quốc và sau đó là thời Thế giới đại đồng. Bát trận đồ là một trận gồm 8 cửa từ xưa đến nay người đời ca tụng tán thưởng rất nhiệt tình và trong Tam Quốc Chí, ai cũng thán phục Vũ Hầu đã bày sẵn trận này để dụ tướng Lục Tốn của Đông Ngô vào uy hiếp.
Đánh giá và phê bình:
Một tác phẩm hoặc một con người cũng cần phải có sự đánh giá và phê bình chuẩn xác để nói lên khía cạnh khách quan của các sự việc và vấn đề.
Về Vũ Vương Hầu Gia Cát Lượng Khổng Minh thì từ xưa tới nay, các sách vở và các nhà phê bình đều nhất trí đánh giá là tuyệt thế thông minh và kỳ tài trong các thời đại. Nhất là về những lời sấm ký của ông và tài điều khiển Bát trận đồ thì cho tới nay vẫn như là những điều bí ẩn mà chưa sách sử hoặc tài liệu cổ kim nào lý giải một cách sáng sủa thoả đáng.
Theo thiển kiến của người viết bài này thì nên nêu lên từng việc mà đánh giá một cách khách quan đầy đủ, có so sánh với những việc tương đồng của các kỳ nhân khác.
Trước tiên là việc hợp tác với Đông Ngô để cầu gió Đông Nam đốt được 80 vạn quân Tào và đại chiến thuyền ở Sông Xích Bích và việc cho Quan Vân Trường tha Tào Tháo ở Hoa Dung Tiểu Lộ thì quả là thần cơ diệu toán trong phép dụng binh.
Việc tính 14 quẻ Mã Tiền Khoá vào sách Trung Quốc nhị thiên niên dự ngôn thì Gia Cát Vũ Hầu có dựa vào những ý của Khương Tử Nha (đời nhà Chu) đã tính một hội của Vũ trụ là 10,800 năm, trong đó có đoạn tính 2.000 năm và các triều đại cho tới ngày Thế giới đại đồng. Cụ thể là đoạn trích sau nói về nhà Chu, nhà Hán, thời Tam Quốc và các triều đại sau:
14 quẻ Mã Tiền Khoá của Khổng Minh cũng được sư Thủ Nguyên tu tại Núi Bạch Hạc đời Gia Tĩnh triều đại nhà Minh lý giải rành rõ với lời dặn: ''Đại đạo tuần hoàn, người sáng suốt thì tự hiểu, kẻ ngu tối thì mù tịt. Đâu có thể ngồi yên không làm gì mà có thể hiểu thấu được”.
Về vấn đề những bài ''tiên tri và dự ngôn" thì Khương Thái Công đã tính 10.800 năm trong sách Càn khôn vạn niên ca và Gia Cát Lượng có xem, có trích và tính lại cho phù hợp.
Vấn đề gây nhiều tranh luận nhất từ cổ chí kim và không lý giải rõ ràng lắm là Bát trận đồ. Sách thì nói môn này là do Phong Hậu đời Hoàng để chế ra, có sách lại nói của các đởi Tôn Vũ (ông nội của Tôn Tẫn) chế ra, sách thì nói của các đời sau như Hán (Gia Cát Khổng Minh), sách thì nói từ đời Đương của Lý Thuần Phong; Tống (Thiệu Khang Tiết), Minh (Lưu Bá Ôn) chế ra, nhưng tất cả đều chịu không nói được cách phá trận như thế nào, vào ra như thế nào? Cho tới ngày nay có những sách in dày hơn 500 trang của các tác giả học vấn uyên thâm, học qua nhiều trường Đại học quân sự song cũng chưa lý giải nổi và đề nghị các độc giả, sau khi đọc sách, sẽ giúp làm sáng tỏ vấn đề, Vì đây là công trình độc đáo nhất có tên là Bát Môn Kim Toả mà người đời sau cho rằng tác giả là Khổng Minh.
Để có những mốc thời gian cụ thể, ta có thể nhớ lại trong truyện Đông Chu liệt quốc đoạn Yên Vương thử tài quân sự của Bàng Quyên và Tôn Tần, cho hai người cùng nhà Vua ra thao trường bày ra và phá trận. Tất cả các trận của Bàng Quyên, Tôn Tần đều phá được cả - Đến trận Bát Môn Kim Toả của Tôn Tần thì Bàng Quyên không biết, phải rỉ tai hỏi Tôn Tần là trận gì và cách phá ra sao. Tôn Tần phải dạy Bàng Quyên là trận Bát Môn Kim Toả và cuối cùng cũng có thể biến ra trận Trường Xà, và cũng không nói rõ cách xuất, nhập trận.
Như vậy, ta có thể biết Bát trận đồ không phải của Khổng Minh và các đời sau chế ra, mà có từ đời Hoàng đế (do Phong Hậu chế ra) và sau đó Khương Tử Nha, Hoàng Trạch Công (là bạn học của Khương Tử Nha, và tương truyền là thày của Trương Lương) bổ sung - về sau Trương Lương và Gia Cát Lượng chỉnh đốn lại Trận Bát Môn Kim Toả và thêm một vòng đai là Liệt khuyết tức vành đai, ôm ngoài chung quanh trận để vừa bảo vệ, vừa tham gia trận địa, lúc công, lúc thủ, khi “lưỡng đầu thọ địch" thì duỗi ra thành trận Trường Xà.
Về cách xuất, nhập trận thì tuyệt nhiên từ xưa tới nay chưa thấy sách nào nói tới. Nhân tiện ta cũng xem lại đoạn Tam Quốc Chí nói về Hoàng Thừa Ngạn là cha của A Thừa xấu xí, là bố vợ của Khổng Minh, vào trận cứu Lục Tốn - Ta chỉ thấy nói Hoàng Thừa Ngạn thấy Lục Tốn lạc trong trận đến gần chiều tối mà không tìm thấy lối ra, bèn vào dắt ra. Nhưng cũng không nói cách ra như thế nào?. . .
Để giải đáp một câu hỏi từ xưa tới nay chưa được giải đáp, ta chỉ nói vắn tắt 8 trận là: Thiên Phú, Địa Tái, Phong Dương, Vân Thuỳ, Long Phi, Hổ Dực, Điểu Tường, Xà Bàn, gộp lại có 8 cửa ra vào là: Sinh, Thương, Cảnh, Tử, Kinh, Khai, Hưu và một vành đai bảo vệ là: Liệt Khuyết - toàn bộ trận đồ đã được Khổng Minh chỉnh đốn và gọi là Bát Môn Kim Toả. Ở nước Trung Hoa có tất cả 4 trận Bát Môn thì 3 trận đã bị thời gian huỷ hoại, chỉ còn trận ở Ngư Phúc Phố là còn. Vậy Hoàng Thừa Ngạn vào trận bằng cửa nào và đưa Lục Tốn ra cửa nào mà được an toàn. Xin thưa rằng Hoàng Thừa Ngạn đã vào bằng cửa Sinh và đưa Lục Tốn ra bằng cửa Tử. Phép phá trận này cũng vậy, phải vào bằng cửa Sinh mới được, nếu bằng cửa Tử sẽ bị đánh chết ngay, và bằng cửa khác sẽ bị đánh bật ra liền. Và vào trong sẽ tuỳ cách biến hoá của từng trận nhỏ và đánh phá. Nghĩa là đúng với câu “vào Sinh ra Tử” mà ta thường nói.
Kết luận, ta có thể nói Khổng Minh là người có biệt tài: Và qua ngòi bút của La Quán Trung đã được nâng cao đến tột đỉnh các kỳ nhân. Nhưng so những biệt tài ấy với tiền nhân thì còn thua kém Khương Tử Nha, Hoàng Thạch Công, Trương Lương.
Lẽ thứ hai là tuy có chí lớn, chống lại trời, nhưng về nhân sự chưa hiểu hết mình mà còn nhương sao xin giải hạn và gia tuổi thọ: Thật ra, một người Mệnh Vô chính diệu là phải chịu một trong 3 cách ''nhất bần, nhị yểu, tam vô tự”. Tuy cách nhau mấy trăm năm mà tuổi thọ của Khổng Minh có 54 tuổi, sao so với Khổng Tử trước đó thọ tới 75 tuổi. Hán Hiến đế sinh cùng năm với Khổng Minh cũng chỉ thọ có 54 tuổi thư Khổng Minh.
Lẽ thứ ba là đánh giá chung những bậc thánh nhân hoặc trúng thần liệt sĩ "sinh bất phùng thời" đều chịu chung một số mệnh có tiếng mà không có miếng, có danh mà không có thực như Khổng Tử, Thái sư Văn Trọng, Á Phụ Phạm Tăng, Khổng Minh. . . Thôi Châu Bình đã đánh giá Khổng Minh là “đắc quân không đắc thời”.
Lẽ cuối cùng là Khổng Minh cũng tự biết và tự đánh giá mình trong điều thứ 11 của Biểu Hậu Xuất Sư là việc chăm dân, trị nước, cho bá tính yên ổn, tốt lành thì được, còn việc thôn tính thiên hạ thì chậm chạp, không năng động và không đủ sức.
Cho nên, sau khi Gia Cát Lượng chết thì Tam Quốc Chí hết hấp dẫn và người đời có thể bằng lòng với lời tổng kết của Tam Quốc Chí do Bùi Kỷ dịch ra quốc ngữ như sau:
Trường Giang cuồn cuộn chảy về Đông,
Sông dập dồn đãi hết anh hùng,
Được thua, phải trái, thoắt thành không.
Non sông nguyên vẻ cũ,
Mấy độ bóng tàn hồng,
Bạn bạc đầu ngư tiều trên bến,
Mảng trăng thanh gió mát vui chơi.
Gặp nhau hồ rượu đầy vơi,
Xưa nay bao nhiêu việc phó mặc cuộc nói cười.
Nghĩa là Khổng Minh cũng là một anh hùng bị Trường Giang dồn dập đãi đi như muôn vàn anh hùng khác trong đời.
TRẦN THANH LOAN