DÒNG SÔNG THỜI GIAN VỚI NGƯỜI AI CẬP CỔ ĐẠI
SỐNG THEO NHỊP ĐIỆU CÁC ĐỢT LŨ SÔNG NIL
Với lượng mưa hàng năm rất nhỏ, Ai Cập sẽ là nơi không có một con người sinh sống nếu không có con Sông Nil chảy qua suốt dọc chiều dài nước này từ phía Nam lên phía Bắc; từ các Cao nguyên Etiôpi đến Địa Trung Hải. Thực vậy nhờ có con sông này mà trong ba thiên niên kỷ, từ năm 3000 Tr. CN đến cuộc chinh phục La Mã vào năm 30 Tr. CN, Ai Cập là Nhà nước rộng lớn nhất và phồn thịnh nhất miền Đông Địa Trung Hải. Ai Cập đã giành lại được vị trí ấy trong thời Trung cổ, và bây giờ vẫn là nước quan trọng nhất và đông dân nhất ở Trung Đông. Có một sự tiếp nối liên tục thực sự trong suốt khoảng thời gian rất dài đó; bởi vì các đường biên giới của Ai Cập qua các Thế kỷ đã không thay đổi bao nhiêu.
Trong suốt thời Cổ đại, sự phồn vinh của Ai Cập phụ thuộc vào của cải làm ra bằng nghề nông, tức là phụ thuộc vào Sông Nil. Dẫu vậy, nền nông nghiệp đó không phải ra đời ngay một lúc mà đã tiến hoá dần ở thời tiền sử. Không những chi phối ở tiềm năng vật chất của nước này, Sông Nil và các đặc điểm địa lý khác của Ai Cập còn ảnh hưởng đến các sự kiện chính trị và đóng một vai trò trong hệ tư tưởng của Ai Cập.
Cách đây khoảng 12000 năm, ở Ai Cập vẫn còn nằm trong miền Đông Sahara, có những toán người săn bắn hái lượm du cư sinh sống. Khí hậu không khắc nghiệt như bây giờ và một số vùng hiện nay khô cằn và hoang vu, khi ấy còn có người ở Lưu vực và Châu thổ Sông Nil khi ấy chỉ là vùng đầm lầy mênh mông mà trữ lượng nước của nó đã thu hút những toán người săn bắn và các con mồi và là nơi các loại cây cối và cá đã được khai thác. Cũng vào khoảng thời gian đó, người dân trong vùng cũng bắt đầu hái lượm những loài cây, hoa quả hoang đại, có lẽ là các loại mễ cốc mà việc tiêu thụ cần được chế biến nhiều hơn các thứ khác. Từ đó có thể suy ra là, sức ép đối với các nguồn lương thực ngày một tăng lên. Trong các thiên niên kỷ kế tiếp, Sahara dần dần bị khô hạn và đến năm 2000 Tr. CN thì hầu như khô cằn như ngày nay. Từ năm 10000 đến 5000 Tr.CN, những người cuối cùng của thời đại đồ đá sinh sống tập trung tại những điểm có nước. Họ khai thác tài nguyên ráo riết hơn nữa, cả trên sa mạc lẫn trên bờ Sông Nil. Phương thức khai thác chưa đa dạng như sau này.
Lưu vực sông Nil bắt đầu có người đến sinh sống cùng với sự phát triển của công nghiệp. Vào khoảng năm 4000 năm Tr. CN, ở Ai Cập chỉ có hai nền văn hoá lớn là văn hoá Merimda cổ ở vùng Châu thổ và văn hoá Badarian ở chung quanh Asyut tại Thượng Ai Cập. Trước năm 3100 Tr. CN, hai nền văn hóa ấy sáp nhập làm một và sinh ra Nhà nước Ai Cập, Nhà nước dân tộc lớn đầu tiên trong lịch sử.
Kể từ ngày đó, Ai Cập không ngừng phát triển và dân số không ngừng tăng lên cho đến cuộc chinh phục của La Mã. Sự thống nhất chính trị và sự ổn định về thể chế, cũng như khả năng khai thác những miền đất mới màu mỡ là những nhân tố lớn tạo nên quá trình đó. Công việc gieo trồng được tiến hành sau cơn lũ hàng năm làm ngập nước lưu vực và Châu thổ Sông Nil từ cuối Tháng 7 đến Tháng 9: việc tưới nước hầu như không cần thiết và vụ thu hoạch diễn ra từ Tháng 3 đến Tháng 5. Có thể nâng cao năng suất bằng cách đào mương dẫn nước lũ để lấy phù sa cho một diện tích đất canh tác rộng lớn hơn. Ngược lại, những thửa đất nhỏ trồng rau lại cần được tưới nước quanh năm. Nước được tưới bằng chậu cho đến khoảng năm 1500 Tr. CN mới xuất hiện những guồng nước đầu tiên. Một số loài cây như cây cọ, dừa quả chín vào cuối mùa Hè và rễ đâm sâu xuống dưới đất để tìm nước thì không cần tưới nước.
Người ta vẫn chưa biết đến thời kỳ nào thì các biện pháp thủ công này nhường chỗ cho một hệ thống tưới nước tập thể ở quy mô lớn. Đến thời Trung đế chế (khoảng năm 2040 đến 1640. Tr.CN), việc tưới nước theo từng khu vực rộng, tức là xử lý những cánh đồng rộng lớn như một đơn vị, đã được thiết lập vững chắc nhưng có thể phương pháp đó chưa tồn tại dưới thời Cựu để chế (Thiên niên kỷ thứ III Tr.CN), vào thời gian xây dựng những Kim Tự Tháp lớn.
Các văn bản Ai Cập cổ nói rất ít đến các vấn đề cung cấp nước và tưới nước cho nên khó xác định được quá trình phát triển của các kỹ thuật được sử dụng. Chỉ trừ một vài ngoại lệ là những văn bản mang tính tự thuật của các lãnh chúa địa phương trong thời kỳ rối ren giữa thời Cựu đế chế và thời Trung đế chế (2134 - 2040 Tr. CN), kể công đã đào đắp kênh mương và cung cấp nước cho thần dân của mình trong khi những lãnh chúa khác không làm được. Trong thời kỳ phồn thịnh, những chi tiết như vậy có lẽ bị coi là không đáng kể nên không được ghi vào các văn bản công cộng. Khu vực duy nhất có một công trình tưới tiêu lớn trước thời Hy Lạp – La Mã là vùng Faiyum, một ốc đảo rộng lớn nằm về phía Tây Nam vùng Châu thổ. Các Vua chúa thời Trung đệ chế đã cho xây dựng một con kênh ở bên cạnh để đưa nước xuống tưới cho bồn ở phía dưới, nhưng công trình của họ đã không tồn tại lâu. Các đợt lũ đều đặn của Sông Nil cũng như đất đai phì nhiêu dọc Sông Nil và ở vùng Châu thổ khiến cho Ai Cập trở thành một ốc đảo phồn vinh, nhất là sự ổn định chính trị lại cho phép lập ra những kho dự trữ lương thực đề phòng những khi đói kém. Tuy nhiên, tình hình đó mới chỉ thuận lợi tương đối: lũ nhỏ hoặc lũ quá lớn, mùa màng xấu, dịch bệnh và những mối nguy hiểm khác có thể bất kỳ lúc nào ập tới làm kìm hãm sự phát triển của Ai Cập Cổ đại là nơi khác với ngày nay - người ta chỉ trồng mỗi năm có một vụ chính.
Hai loài cây trồng chính là hai loại mễ cốc: lúa mì để làm bánh mì và yến mạch để làm bia. Những sản phẩm dễ bảo quản này được dùng làm lương thực cơ bản. Những loại cây trồng khác là gai dùng để chế tạo các mặt hàng, từ dây thừng cho đến các loại vải xuất khẩu rất mỏng, và cói chỉ (loại cây đồng lầy vừa được trồng và vừa mộc hoang). Rễ cây cói chỉ dùng làm thức ăn, thân cây dùng vào nhiều việc, từ việc đóng thuyền và bện thảm đến việc làm ra những tờ giấy viết; mặt hàng này cũng dùng để xuất khẩu. Ngoài ra, nhiều loại rau quả cũng được trồng. Người Ai Cập Cổ đại tiêu thụ tương đối ít thịt gia súc nhưng họ bắn chim ở đồng lầy và đánh cá trên sông Nil, lấy đó làm Prôtít động vật chủ yếu cho hầu hết dân chúng.
Là nguồn nuôi sống người dân Ai Cập, Sông Nil còn là trục giao thông chủ yếu của nước này đến nỗi chiếc thuyền là hình ảnh được ghi trong hầu hết các chữ tượng hình liên quan đến du hành. Tất cả những gì nặng nề đều có thể vận chuyển bằng đường sông, và phương tiện giao thông dễ dàng đó đã góp phần tạo nên sự thống nhất của Ai Cập cũng như hệ thống mương lạch chằng chịt ở vùng Châu thổ đã giúp cho việc chống lại các cuộc ngoại xâm. Giao thông với vùng Sahara ở Châu Phi hoặc với Châu Á là điều khó khăn hơn rất nhiều so với việc đi lại giữa hai miền Thượng và Hạ Ai Cập. Con sông lại cũng có thể là sự ngăn cách con người với nhau. Người nghèo là: “kẻ không có nổi chiếc thuyền” và người giàu phải chở họ qua sông. Hình ảnh con sông cũng được dùng khi nói đến cái chết: chết là “cập bờ bên kia và việc sang bên kia thế giới là một chuyến qua sông''.
Ai Cập thu mình lại xung quanh Sông Nil, hình thái đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự thống nhất chính trị và cho phép vừa khai thác mạnh mẽ các nguồn tài nguyên và vừa tập trung quyền lực. Là người sở hữu đất đai, các Pharaon kiểm soát nông nghiệp, đánh thuế nông sản, dùng biện pháp hành chính và lao động cưỡng bức để bắt người dân canh tác. Ngược lại, họ phải lo lập những kho dự trữ phòng khi mất mùa đói kém, như vậy là đảm nhiệm một số chức năng của một hệ thống hợp tác trong những xã hội hẹp hơn. Tổ chức tập trung phát triển từ thiên niên kỷ thứ III Tr.CN đã tạo ra một lực lượng nhân công có kỷ luật được dùng để xây dựng các lăng tẩm của Vua chúa và đền miếu của các đại thần, cộng sự và các Kim Tự Tháp ở thời Trung đế chế. Các ngôi đền và mộ địa ở thời Tân đế chế (khoảng 1550 đến 1070 Tr. CN), sau này dùng vào công việc xây dựng và các hoạt động khác dưới thời Hy Lạp, La Mã.
Tất cả những việc đó được thực hiện là nhờ ở sự hoàn thiện nền nông nghiệp tưới tiêu, giải phóng được một lực lượng nhân công lớn trong những tháng nông nhàn. Mùa Hè cho phép một số người tập trung hoàn toàn vào những công việc chuyên môn hơn và quan trọng hơn. Trong các thời kỳ chuyển tiếp được đánh đấu bằng sự sụp đổ của chính quyền trung ương (giữa 2134 và 2040, 1640 và 1532, 1070 và 71 2 Tr. CN), các đền đài không được xây dựng và bành trướng chính trị bị suy yếu; nhưng các cơ sở nông nghiệp của chính quyền và sự phồn vinh vẫn tồn tại, bảo đảm đời sống văn hoá được tiếp tục và cho phép trở lại việc xây dựng các công trình lớn sau khi chấm dứt thời kỳ rối ren.
Ta có thể ngạc nhiên khi thấy Sông Nil vẫn giữ một vai trò to lớn như vậy trong nền kinh tế Ai Cập Cổ đại lại chỉ chiếm một vị trí nhỏ bé trong tôn giáo của nước này. Người Ai Cập coi trật tự của họ là trật tự chung của Thế giới, còn Sông Nil đơn thuần chỉ làm một ''con sông''. Tên “Nil” có thể cũng không phải là một tên gốc Ai Cập. Với lại không phải con sông lặng lẽ ấy đã mang lại của cải và sự phồn vinh mà là những đợt lũ của nó mà hiện thân là Thần Hapy. Hapy chủ yếu là hình ảnh về sự trù phú song lại không phải là một vị Thần lớn trong các chư Thần Ai Cập. Các Vua chúa thích ví mình là Hapy để nói lên sự thịnh vượng của mình và sự phồn vinh mà họ đã đem lại cho thần dân. Ngày nay còn giữ được một bài tụng ca Thần Hapy, ca ngợi khía cạnh ân phúc trong hành động của vị Thần này; nhưng lại không gợi gì đến mối liên quan giữa Thần Hapy với các vị Thần khác như thường vẫn có trong các bài ca tụng về các vị Thần khác. Thực tế, Hapy không được miêu tả như một vị Thần mà như một nhân vật phục phịch đem sản phẩm của sự trù phú dâng lên các Thần linh. Thần Hapy không có đền thờ, nhưng hằng năm được thờ cúng vào đầu mùa lũ bằng những vật hiến tế và các bài tụng ca tại Gabal- al- Silsila, có lẽ là một đường ranh giới có từ thời tiền sử nơi lưu vực Sông Nil hẹp lại ở phía Bắc Aswan.
Tầm quan trọng ở Sông Nil được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác trong đời sống ở Ai Cập Cổ đại. Ví dụ, trái ngược với hầu hết các dân tộc khác, người Ai Cập lại hướng về phương Nam; tức là về cội nguồn của Sông Nil, thành ra hướng tốt lành (ở về bên phải) lại là phương Tây, phía đi sang thế giới bên kia. Niên lịch được xác định theo những sự chuyển động của dòng sông và các vì tinh tú; năm mới bắt đầu vào giữa Tháng 7, vào đầu kỳ lũ, trùng hợp với sự xuất hiện lại trên bầu trời vì tinh tú Sothis (Thiên Lang) sau 70 ngày bị che khuất. Mỗi năm được chia làm ba mùa, mỗi mùa 4 thảng tương ứng với những thời kỳ lớn của Sông Nil: mùa lũ, akhet (Hè Thu); mùa xuất hiện và tăng trưởng (từ Tháng 11 đến Tháng 3) khi mặt đất hiện ra và có thể trồng trọt; mùa thu hoạch; Chemou, thời kỳ thu hoạch các loại cây trồng và nước Sông Nil ở mức thấp nhất.
Vị Thần lớn của Ai Cập gắn bó chặt chẽ nhất với Sông Nil là Thần Osiris, một Pharaon huyền thoại bị em trai là Seth sát hại trên bờ sông rồi bị chặt ra làm nhiều khúc. Isis, em gái và là vợ Osiris, chắp lại thi hài và làm cho Osiris sống lại để hoài thai một đứa con trai đẻ ra sau ngày cha chết tên là Hous. Osiris không trở lại cuộc sống dương thế mà làm Vua dưới âm phủ. Chu kỳ chết đi và sống lại của Thần Osiris tượng trưng cho sự phì nhiêu của đất đai Ai Cập. Trong ngày hội tổ chức giữa mùa lũ, người ta gieo những hạt yến mạch vào trong những bức tượng nhỏ Osiris bằng đất sét ẩm ướt và việc gieo hạt đó tượng trưng cho sự sống lại của đất đai nhờ nước Sông Nil. Như vậy, Thần Osiris, Sông Nil và đất đai được đưa chung vào một hệ thống biểu tượng về sự phì nhiêu và tái sinh.
Một vị Thần khác có quan hệ với Sông Nil là Thần Khnum, ''Thần thác nước'', vị Thần đầu Cừu đực được thờ cúng tại Elephantirle miền cực Nam Ai Cập Khnum tà Thần khai sinh lập địa và ban ân phúc, trị vì chỗ ở thác nước nơi Sông Nil bắt đầu vào đất Ai Cập. Nhưng việc thờ Thần Khnum được đặt ra để thay thế một việc thờ cúng khác có từ trước nữa là việc thờ nữ Thần Satis tại ngôi đền mà người ta thờ sự giao hội giữa vì tinh tú Sothis với con lũ. Tuy con lũ tràn tới các miền đất đông dân hơn ở phía Bắc có muộn hơn, song buổi lễ vẫn được tổ chức vào ngày con lũ tràn đến Elephantine.
Chúng ta ngày nay có thể nhận thấy rõ tầm quan trọng cơ bản của Sông Nil hơn người Ai Cập Cổ đại. Người Ai Cập thời ấy đã trở nên quá quen thuộc với vai trò của Sông Nil đến nỗi họ gọi những trận mưa tại các nước khác mà ở nước họ rất hiếm là ''lũ từ trên trời”. Để hiểu được vị trí của Sông Nil ở thời Cổ đại, ta phải nhìn nó qua con mắt của người xưa với sự phân biệt của thời ấy giữa cái thiêng liêng và cát thế tục, cái Thần linh và cái nhân bản. Người Ai Cập chấp nhận sự tồn tại của Sông Nil như một hiện tượng tự nhiên mà các con lũ có thể vừa mang tính tàn phá nhưng lại có một ảnh hưởng tốt đẹp đối với cuộc sống của họ. Phần lớn các vị Thần của họ là những nhân vật phức tạp hơn nhiều và đứng ngoài thế giới thường nhật. Điều nghịch lý là, chính người Hy Lạp và người La Mã đã Thần Thánh hoá Sông Nil như họ đã làm với bất kỳ con sông nào trên Thế giới.
GS. JOHN BAINES