GIẢ KIM THUẬT Ở CHÂU ÂU
Vào khoảng giai đoạn giữa các Thế kỷ XI – XII nhiều nghề thủ công phát triển, đặc biệt là các nghề luyện kim, dệt để phục vụ các kỵ sĩ trong các cuộc hành quân của các lãnh chúa phong kiến chinh phục đất đai, việc buôn bán trở nên nhộn nhịp. Trong thành phố đã xuất hiện nhiều tổ chức của thợ thủ công: các xưởng thợ, những hội buôn. . . Nhiều thành phố đã được tự trị hay ít bị lệ thuộc vào các lãnh chúa phong kiến.
Vai trò chính trị và kinh tế của thành phố tăng lên thì hoạt động tinh thần cũng sôi nổi hơn. Do nhu cầu học tập của thanh niên thuộc giới thương nhân và thợ thủ công mà ở các thành phố lớn đã xuất hiện các trường Đại học dân sự, nó khác với nhà trường tu viện ở chỗ có dạy các nghề nghiệp khác nhau và có quyền tự trị như các công xưởng thủ công. Cổ nhất ở Châu Âu là trường Đại học Boulogne thành lập năm 1119, rồi đến năm 1189 xuất hiện trường Đại học Y ở Môpen (Pháp) và năm 1200 trường Đại học Paris được thành lập, sau đó nhiều trường Đại học ở các thành phố khác lần lượt xuất hiện. Ở các trường Đại học này, sau khi qua trường dự bị tại đó giảng dạy 7 thứ khoa học, sinh viên chuyển sang nghiên cứu các môn chuyên khoa. Ví dụ ở trường Đại học Boulogne có khoa luật trong đó người ta dạy ''Luật La Mã”. Ở Paris có các khoa Thần học và Y khoa. Khoa Thần học ở Paris mang tên Robert Sorbone (1201 - 1247), người sáng lập ra khoa này. Việc giảng dạy ở trường Đại học Trung cổ gồm có phần đọc bài giảng (lectio) và phần thảo luận (disputatio).
Từ Thế kỷ XI - XIII nhờ những cuộc thập tự chinh của các đạo quân tôn giáo với danh nghĩa chiếm lại Jérusalem, nơi đặt mộ Chúa, người ta đã mở rộng nền ngoại thương của Châu Âu và tìm con đường đi sang các nước phương Đông. Nhờ vậy, tầm mắt của các nhà buôn và thợ thủ công Châu Âu được mở rộng. Người Châu Âu làm quen với nền văn hoá và kỹ thuật thủ công của Bizantine là nơi trong khoảng từ Thế kỷ X - XIII có một nền sản xuất thủ công phồn vinh dùng nhiều loại vật liệu, hoá học và các chất khác nhau. Tại đây, vẫn còn nhiều tác phẩm bằng tiếng Hy Lạp (chủ yếu là các tập ghi công thức chế biến hoá học).
Vào giữa Thế kỷ XII, ở Châu Âu lần đầu tiên xuất hiện những bản dịch các tài liệu giả kim thuật Ả Rập ra tiếng La tinh. Các tài liệu này được nhanh chóng lưu truyền rộng rãi. Những bài luận văn giả kim thuật đầy các ký hiệu tượng trưng và huyền bí rất phù hợp với thế giới quan của người Châu Âu lúc đó đang tin vào Thần linh và khả năng biến đổi kim loại. Kể từ nửa sau Thế kỷ XII, trong vòng 2 Thế kỷ, ở Châu Âu đã xuất hiện trên 70 tác phẩm giả kim thuật mà chủ yếu là dịch từ tiếng Ả Rập. Bản dịch đầu tiên là của Robert (Rôbớt) một người Anh ở Sestơ, đó là cuốn Sách về các tác phẩm giả kim thuật ra đời năm 1144.
Chẳng bao lâu, giả kim thuật như một bệnh truyền nhiễm lan ra khắp Châu Âu. Đủ mọi tầng lớp người xô nhau đi tìm kiếm con đường làm giàu nhanh chóng, kể từ những người thợ thủ công nghệ, nhà buôn phá sản, các vị tu sĩ. . . cho đến các Bá tước, Giáo chủ và thậm chí Quốc vương nữa. Phần lớn họ không được chuẩn bị gì về tri thức hoá học mà chỉ có một niềm hy vọng là, tìm được bí mật về viên đá triết học trong các tác phẩm giả kim thuật cổ đã bị thất truyền bằng những lời thần chú, bói toán.
Tuy nhiên, ngoài những kẻ ham làm giàu nhanh chóng nhưng dốt nát, còn có nhiều trí tuệ thông minh và uyên bác bị lôi cuốn vào công việc giả kim thuật, chủ yếu đó là những tu sĩ rồi đến những thầy thuốc và các nhà Bác học khoa học tự nhiên. Một trong những nhà giả kim thuật nổi tiếng đầu tiên của Châu Âu là Bá tước Anbrêc Bônstêt, thường được biết dưới tên Albertus Magnus (Anbect) vĩ đại. Ông là một Giáo sư Thần học thuộc giáo phái Đôminicanh, năm 1259, được phong làm Giáo chủ ở Rêgenbuốc. Sau 5 năm, ông từ bỏ chức Giáo chủ và lánh mình tại một tu viện ở gần Ken để làm khoa học. Là một nhà thần học và triết học kinh viện có tên tuổi, ông để lại nhiều tác phẩm. Một trong những mặt hoạt động của ''Albertus vĩ đại'' là cùng với học trò là Fôma Acvin tiến hành bình luận Aristotles để loại trừ những mâu thuẫn giữa các luận điểm của Aristotles với các giáo điều của nhà thờ bằng cách bóp méo tư tưởng của Aristotles. Như vậy, Albertus vĩ đại là một trong những người sáng lập ra triết học kinh viện Trung cổ. Ngoài ra, ông còn nghiên cứu vật lý, giả kim thuật, chiêm tinh học. Có lẽ chính bản thân ông đã tiến hành các thí nghiệm về biến đổi kim loại và đã đến thăm nhiều phòng thí nghiệm giả kim thuật ở các xưởng thủ công. Trong các tác phẩm của ông có nói tới địa bàn và mô tả thuốc súng (lúc đó còn chưa được sử dụng ở Châu Âu). Người ta còn gắn cho Albertus vĩ đại những sáng chế kỳ lạ như chiếc máy tự động có dạng như đầu người.
Trong các tác phẩm ''Sách về giả kim thuật'' và “Năm cuốn sách về kim loại và khoáng vật'', Albertus vĩ đại đã trình bày các quan điểm của mình về thành phần kim loại. Ông cho rằng kim loại cấu tạo từ các nguyên tố thuỷ ngân, lưu huỳnh, nước, và đôi khi cả Asen. Các kim loại có thể biến đổi ra nhau, sự biến đổi này thể hiện ở sự thay đổi màu và tỷ trọng kim loại. Thuỷ ngân làm cho kim loại có màu trắng, lưu huỳnh cho màu đỏ, Asen – màu vàng, nước nằm trong kim loại chịu nén và ép với những mức độ khác nhau. Bạc là kim loại gần giống vàng hơn cả, muốn biến đổi bạc thành vàng chỉ cần thay đổi sắc màu và tỷ trọng. Albertus vĩ đại đã biết cách phân biệt vàng thật và vàng giả bằng lửa và biết tách các kim loại quý khỏi kim loại không quý.
Một nhà giả kim thuật nổi tiếng người Anh là Roger Bacon (Rôgiơ Bêcơn, 1214 - 1294), lúc trẻ học ở Anh rồi sang Paris, đỗ Tiến sĩ triết học ở đây. Ông có khả năng xuất sắc và được mệnh danh là ''vị Tiến sĩ kỳ diệu - Doctor mirabilis''. Khoảng năm 1250, Bacon trở về Oxford giảng dạy và nghiên cứu khoa học một thời gian. Ông rất nổi tiếng và có nhiều học trò, nhưng những người cùng giáo phái Franxiscan nghi ngờ ông là phù thuỷ và đuổi không cho ông giảng dạy, sau đó (năm 1252) ông bị bắt giam ở Paris.
Sau 10 năm bị giam cầm, Bacon được tha nhờ sự che chở của giáo hoàng Clêmen IV mà trước đó ông đã trình lên cuốn sách ''Sự nghiệp vĩ đại – Opus majus''. Quay trở lại Oxford, ông lại bị tầm nã và vào năm 1278 lại bị bắt giam lần thứ 2 trong 14 năm. Người ta nêu lý do làm cho Bacon bị giới cầm quyền tôn giáo bắt giam và hành hạ là, vì ông am hiểu các tác phẩm triết học về giả kim thuật Ả Rập. Ông công khai phát biểu chống lại triết học kinh viện của Nhà thờ, đặc biệt chống lại lời khẳng định của Albertus vĩ đại và Khôma: Acvin cho rằng triết học kinh viện đã đạt đến mức hoàn hảo. Mặt khác những người lãnh đạo giáo phái Franxiscan hình như cho rằng, Bacon đã nắm được bí mật của hòn đá triết học nên hy vọng rằng ông sẽ tiết lộ bí mật đó để đổi lấy tự do. Quả thực Bacon tin tưởng rằng các kim loại có thể biến đổi ra nhau và có tiến hành nghiên cứu giả kim thuật. Ông còn để lại các cuốn sách viết về giả kim thuật như Tấm gương giả kim thuật - (Speculum alchmie), Về bí mật của thiên nhiên và kẻ tiểu nhân của ma thuật - (Espitola de Secretis ope - ribus artis et natural et nulllate magie).
Bacon là một trong những người Châu Âu đầu tiên chú ý đến tầm quan trọng của thí nghiệm trong nghiên cứu. Theo Bacon, có hai phương pháp nghiên cứu: phương pháp lập luận trừu tượng và phương pháp thí nghiệm. Phương pháp lập luận trừu tượng không đủ tin cậy nên phải kiểm tra bằng phương pháp thí nghiệm. Bacon phân định ranh giới rõ rệt giữa khoa học thí nghiệm với khoa học tự nhiên và nghệ thuật thủ công.
Trong các tác phẩm giả kim thuật của mình. Bacon định nghĩa giả kim thuật như một nghệ thuật gồm các kết luận tư duy và thí nghiệm. Theo ông, nhiệm vụ của giả kim thuật là bắt chước tự nhiên, biến vật chưa hoàn thiện thành vật hoàn thiện và quý. Cũng như các nhà giả kim thuật ả Rập, Bacon thừa nhận thuỷ ngân và lưu huỳnh là cơ sở của mọi kim loại. Thuỷ ngân dễ tạo hỗn hống với kim loại, còn lưu huỳnh tạo với nhiều kim loại những chất đất, khi nung nóng trong không khí các chất đất lại biến thành kim loại.
Các tác phẩm của Bacon đặc biệt là cuốn Tấm gương giả kim thuật (viết khoảng năm 1267) đã trở thành sách giáo khoa thực hành của nhiều hệ các nhà giả kim thuật và được dùng làm một trong những nguồn tài liệu chính của các tác phẩm giả kim thuật sau này. Các quan điểm lý thuyết của Bacon là cơ sở của lý luận giả kim thuật ở dạng thuần tuý nhất chưa bị pha tạp, đặc trưng đầy đủ nhất cho nội dung nền giả kim thuật Tây Âu.
Bacon cho rằng, quá trình ''sinh ra một cách tự nhiên'' các kim loại trong thiên nhiên bắt đầu bằng sự tạo thành các amalgam (hỗn hống); rồi từ amalgam, kim loại được tách ra, vì thế ông gọi thuỷ ngân là ''mẹ của các kim loại”. Từ 2 nguyên tố thuỷ ngân (Hg) và lưu huỳnh (S) nảy sinh ra mọi kim loại và khoáng vật. Thiên nhiên luôn luôn hướng tới sự hoàn hảo tức là sinh ra vàng, nhưng do nhiều hiện tượng ngẫu nhiên cản trở nên mới sinh ra nhiều kim loại (chưa hoàn hảo khác nhau). Từ đó, ông đi đến kết luận: ''Có thể bắt chước thiên nhiên điều chế các kim loại từ thuỷ ngân và lưu huỳnh. Muốn có vàng thì phải dùng thuỷ ngân và lưu huỳnh thuần khiết theo một tỷ lệ hoàn hảo nhất”. Nhưng kinh nghiệm bản thân Bacon thấy rằng, mọi cố gắng chế vàng từ thuỷ ngân và lưu huỳnh đều thất bại. Ông giải thích thất bại này là vì con người chưa biết cách tạo ra điều kiện tiến hành biến đổi giống như điều kiện tự nhiên (nấu nóng lâu dài lưu huỳnh và thuỷ ngân trong lòng đất bằng nhiệt của ruột quả đất). Ông cũng cho rằng, từ lưu huỳnh và thuỷ ngân lấy theo tỷ lệ tối ưu thì có thể chế tạo được thuốc vạn năng (êlixia) tức là hòn đá triết học có tác dụng huyền diệu biến đổi kim loại thành vàng.
Sau những chuỗi ngày dài lập luận luận quẩn. khó hiểu, Bacon (cũng như mọi nhà giả kim thuật thời Trung cổ) khẳng định rằng, ông đã tiết lộ điều bí mật quan trọng nhất và nếu ''đầu óc độc giả không đến nỗi ngu dốt và đần độn thì qua đó độc giả đã có thể biết cách chế được chất siêu hoàn hảo (tức là hòn đá triết học) để biến đổi các vật cho hoàn hảo thành hoàn hảo hơn và việc đó chỉ là có thể làm được bằng lao động của mình”.
Đó là một nội dung và lời lẽ điển hình của các luận văn giả kim thuật Tây Âu. Các tác phẩm của Bacon là sách giáo khoa về giả kim thuật được sử dụng rộng rãi suốt 5 Thế kỷ.
Cũng vào giai đoạn này có Arnaldus Vllanovanus (Acnôn Vilinôvan, 1235 - 1313) là một nhà giả kim thuật kiêm thầy thuốc nổi tiếng. Ông đã nghiên cứu y học và giả kim thuật ở nhiều trường Đại học Châu Âu. Do va chạm bởi giới cầm quyền và giới tu hành, ông bị truy nã và phải lưu lạc từ thành phố này sang thành phố khác và cuối cùng cư ngụ ở Đảo Sicile (Xixin). Arnaldus còn là nhà Chiêm tinh, triết học và ngoại giao. Ông để lại một số tác phẩm trong đó nổi tiếng nhất là Vườn ươm của các nhà triết học, Về chất độc, Về chất chống độc. Những tác phẩm này cho thấy Arnaldus không tách rời giả kim thuật với y học. Trong các cuốn sách của mình, ông đã mô tả các biến đổi hoá học, các chất làm thuốc, danh sách các chất độc và chống độc. Đặc biệt ông mô tả cách chế và chưng cất rượu vang mà ông gọi là "nước sống – aqua vital”. Về mặt lý thuyết giả kim thuật, ông không có quan điểm gì mới.
Nổi tiếng nhất thời Trung cổ là nhà giả kim thuật Raymundus Lullius (1235 - 1313), học trò của Bacon và Arnaldus. Lullius thuộc dòng dõi quý tộc giàu có, lúc trẻ tuổi sống cuộc đời xa hoa ở cung đình Aragông, nhưng về sau chuyển sang hoạt động truyền giáo, nghiên cứu các ngôn ngữ phương Đông và Thần học. Tại trường Đại học Paris, ông đỗ Tiến sĩ Thần học, làm quen với Bacon và bắt đầu nghiên cứu giả kim thuật, sau đó ông gặp Arnaldus ở Nêapôn. Từ năm 1300, Lullius nhiều lần đi truyền giáo ở phương Đông và Bắc Phi. Lĩnh vực hoạt động chính của Lullius là lôgic học kinh viện. Ông đã sáng tạo ra ''bánh xe lôgic'' nổi tiếng gồm 7 vòng đồng tâm quay được trên cùng một trục, mỗi vòng được chia ra nhiều ô ghi các từ và chữ cái. Khi quay các vòng sẽ thu được các tổ hợp từ trả lời cho những câu hỏi đã đặt. Một số tác phẩm giả kim thuật đã được người ta gán cho Lullius, trong số đó có cuốn Di chúc (Testamentum); Tuyển tập các quy tắc hay sách hướng dẫn về giả kim thuật (Codicillus scu Vademecum) và Thực nghiệm (Experimenta) đã có tiếng vang lớn trong các Thế kỷ sau. Ngày nay, người ta đặt vấn đề nghi ngờ bản quyền tác giả của Lullius đổi với các tác phẩm này vì trong một số tác phẩm khác của ông có lời lẽ đả kích giả kim thuật là nghệ thuật giả dối.
Trong các tác phẩm đã nêu (mà người ta gắn cho Lullius) có trình bày các quan điểm giả kim thuật và nhiệm vụ của nó theo học thuyết của các nhà giả kim thuật Ả Rập. Tác giả gán cho hòn đá triết học những tính chất diệu kỳ, ví dụ: ''Hãy lấy một lượng thuốc quý này bằng hạt đậu, bỏ nó vào 1.000 unxi thuỷ ngân, thuỷ ngân sẽ biển thành bột đỏ. Lấy 1 unxi bột đỏ này thêm vào 1.000 unxi thuỷ ngân, thuỷ ngân cũng biến thành bột đỏ, lại lấy 1 unxi bột này bỏ vào 1.000 unxi thủy ngân, tất cả biến thành thuốc lấy 1 unxi thuốc bỏ vào 1.000 unxi thủy ngân, thuỷ ngân lại biến thành thuốc. . . Lấy 1 unxi thuốc này bỏ vào 1.000 unxi thủy ngân, tất cả sẽ biến thành vàng, thứ vàng tốt hơn vàng rút từ quặng ra.
Sang Thế kỷ XIV, XV, số nhà giả kim thuật ở Tây Âu liên tục tăng, nhưng ít có những tên tuổi nổi tiếng. Lúc này nhờ việc sáng chế ra kỹ thuật in sách nên số tác phẩm giả kim thuật được in ra lên đến hàng nghìn cuốn. Vào Thế kỷ XVII, đã có những nhà xuất bản chuyên xuất bản các tài liệu giả kim thuật. Tuy nhiên, toàn bộ khối tài liệu khổng lồ này không có gì mới về lý thuyết mà chỉ tiếp tục phát triển lối diễn đạt thần bí và mờ mịt về biến đổi kim loại vốn đã có trong các tác phẩm giả kim thuật Ả Rập và Thế kỷ XIII.
Vào Thế kỷ XIV, ở Châu Âu phổ biến rộng rãi các tác phẩm của “tác giả Ả Rập Gêbe'' như Tổng số các biến đổi v.v.. Mặc dù có những ký hiệu giả kim thuật Ả Rập, cuốn sách này không thể là của Giabia vì cả Albertus vĩ đại và Bacon đều không hề nhắc đến các tác phẩm này. Thực ra đó là các tác phẩm được viết vào Thế kỷ XIV của một nhà giả kim thuật vô danh nào đó trình bày lý thuyết và thực bằng về giả kim thuật. Tác giả cũng cho rằng kim loại cấu tạo từ thuỷ ngân và lưu huỳnh, và vàng cấu tạo từ thuỷ ngân nguyên chất với một lượng nhỏ lưu huỳnh. Trong tác phẩm có mô tả quá trình cố định (hoá rắn) thuỷ ngân bằng hòn đá triết học, rồi sau đó trình bày học thuyết Aristotles về nguyên tố. Đặc biệt trong các tác phẩm của Giabia có nhiều mô tả thực hành giả kim thuật, đó là những phép thực hành hoá học khác nhau: chưng cất, thăng hoa, lọc, cô đặc tách vàng khỏi bạc, tách bạc khỏi chì. . . Một điểm quan trọng về mặt lịch sử là đã có bài mô tả về các axit, đặc biệt là "nước hoà tan" tức là axit nitric, về sau được gọi là ''nước mạnh - aqua forfís”. Lần đầu tiên, cuốn sách này đã mô tả về ''nước chúa tể - aqua regis'' tức là nước cường toan thu được khi đun nóng hỗn hợp diêm tiêu, cupơrơzơ, phèn và clorua ammôni. Gọi là ''nước chúa tể” có lẽ vì nó hoà tan được vàng là ''chúa tể” của các kim loại.
Vào Thế kỷ XVI ở Tây Âu có những tác phẩm của một tác giả mang tên Vasilius Valentinus (Vaxili Valentin) được truyền bá rộng rãi, ví dụ các cuốn sách Chiếc thang vinh quang của Antimôni (Cunus tnúmphantimonii), Về hòn đá vĩ đại của các nhà thông thái cổ (De magno lapideantiquo-rum Sapientum), Di chúc cuối cùng (Testamentum ultimum). Khám phá ra các phương thuốc mật (Apola - lypsis chemica) v.v... Sang đầu Thế kỷ XVII các tác phẩm này được in lại nhiều lần bằng tiếng La tinh và tiếng Đức. Tiếng tăm của Valentinus vang đến Hoàng đế Macximillan I. Ngay từ năm 1515, Vua ra lệnh thu thập các tài liệu về cuộc đời và hoạt động của ông, nhưng cuộc tìm kiếm không có kết quả; và người ta kết luận rằng, dưới tên Vaxili Valentin (dịch nghĩa là vị Hoàng đế hùng mạnh) là một tác giả kim thuật giấu tên nào đó - có lẽ là một tu sĩ am hiểu y học.
Các tác phẩm của Valentinus đánh dấu một thời kỳ phồn vinh mới của giả kim thuật Châu Âu trên cơ sở những kiến thức hoá học đã được mở rộng nhiều so với Thế kỷ XIII. Các tác phẩm này dù vẫn theo quan điểm thẩn bí điển hình của giả kim thuật và đầy những lời lẽ nhảm nhí, nhưng trong đó có xem xét nhiều vấn đề có tính chất thuần tuý hóa học và hoá học thực hành.
Khác với các bậc tiền bối, Valentinus cho rằng kim loại cấu tạo từ 3 nguyên tố: thuỷ ngân, lưu huỳnh và muối. Quan điểm này chẳng bao lâu đã được thừa nhận rộng rãi và còn lưu truyền đến giai đoạn sau, tức là giai đoạn Hoá y học. Tuy nhiên ''muối'' được hiểu không phải là một chất cụ thể mà là một nguyên tố trừu tượng, tượng trưng cho khả năng tạo muối của kim loại khi hòa trong axit.
Theo Valentinus, các kim loại được hình thành trong lòng đất dưới ảnh hưởng của các thiên thể. Thực chất đây là sự lặp lại học thuyết cổ liên hệ các kim loại với các hành tinh: vàng với Mặt trời, bạc với Mặt trăng, thuỷ ngân - Sao Thuỷ, đồng - Sao Vệ nữ, sắt - Sao Hỏa, thiếc - Sao Thiên Vương, và chì - Sao Thổ. Từ lâu các nhà giả kim thuật đã dùng ký hiệu của các hành tinh này để biểu diễn các kim loại tương ứng.
Trong các tác phẩm của valentinus có nhắc đến tên của nhiều chất hoá học, cách điều chế các chất và các quá trình chế hoá hoá học. Ví dụ, lần đầu tiên Axit Clohyđric (HCl) được nhắc tới dưới tên rượu muối (Spintus salis), và mô tả quá trình điều chế axit này bằng cách nung nóng hỗn hợp muối ăn và cupơrôzơ sắt. Sau đó, tác phẩm mô tả tác dụng của rượu lên các kim loại và ôxyt kim loại. Các chất dầu cupơrôzơ (Axit sunfuric), nước mạnh (Axit nitric) và rượu chúa tể (nước cường toan) đã được nhắc đến như những chất quen biết thường xuyên. Trong cuốn sách Chiếc thang vinh quang của Antimoni, antimoni được mô tả chi tiết và lần đầu tiên, người ta mô tả cách điều chế antimoni kim loại từ sunfua antimon. Valentinus cho biết, antimon có tính chất kim loại nhưng khống xếp tiếp nộ thành kim loại thứ tám trong bảng danh sách kim loại mà gọi nó là Antimon chì. Sau đó trong sách mô tả các hợp chất của antimon, trong đó đặc biệt có "dầu antimon'' tức là Clorua antimon, chất này về sau sẽ chiếm một vị trí danh dự trong bảng các tên thuốc dùng trong y học.
Trong các tác phẩm khác của Valentinus có nói đến muối Clorua ammônium (sau ammoniacum), Clorua thuỷ ngân, Nitrat và Sunfat thủy ngân, các hợp chất của Zn, Bi, Sn, Pb, Co. . .
Valentinus cũng nói nhiều về rượu, phương pháp chế rượu mạnh bằng cách chưng cất nhiều lần, tác dụng của rượu với Axit tạo thành Este.
Trong các Thế kỷ XVI - XVIII, đội ngũ các nhà giả kim thuật Tây Âu tăng lên, rất nhiều người trở nên nổi tiếng một thời, nhờ những thành công giả dối trong việc tìm kiếm hòn đá triết học hoặc nhờ những tác phẩm giả kim thuật. Ngoài Vasilius Valentinus còn có Nicôlai Flamen, Alecxăng Xêtôni, lôgan Ixăc Hôlan, Lêôna Tuyêcnâyxe, Mikhai Xếtzava. . . Niềm tin vào hòn đá triết học vẫn chưa lay chuyển và ảnh hưởng đến cả những nhà Bác học lớn như Leibnist, Newton . . .
Chỉ mãi đến Thế kỷ XVIII, các thành tựu của hoá học thực nghiệm và hoá học kỹ thuật mới đẩy lùi những tư tưởng giả kim thuật xuống hàng thứ yếu, rồi cuối cùng loại trừ hẳn nó ra khỏi lĩnh vực lý thuyết hoá học.