CỘI RỄ TỪ ẤN ĐỘ - Ả RẬP CỦA
CHÂU ÂU TỪ THỜI TRUNG CỔ
Một hệ đếm bằng các số viết được truyền từ Ấn Độ qua thế giới Ả Rập đến phương Tây.
Ở đầu vở kịch Le malade imaginaire (Người bệnh tưởng -1673), vở kịch cuối cùng của Molière, Argan dùng một bàn tính để tính đi tính lại mãi các phương thuốc do thầy thuốc kê cho mình. Ông cuối cùng đi tới con số phí tổn tổng cộng là ''sáu mươi ba đồng vàng, bốn xu sáu chinh".
Cách tính này, có từ thời Cổ đại, rất thông dụng thời Molière. Tuy phương Tây (Latinh) từ nhiều thế kỷ trước đã biết đến cách tính bằng các con số viết và giấy đã là thứ thông dụng, song đến Thế kỷ XVII và thậm chí Thế kỷ XVIII, người ta vẫn còn thường dùng bàn tính. Leibrliz cũng dùng một bàn tính và Vua Phổ Frédéric II, trong những bức thư từ đã lấy đó làm đề tài cho một khổ thơ bốn câu:
Quần thần là những quân cờ nhảy trên bàn tính,
Thế kỷ XII
Chữ số ở Tolado
Chữ số Ấn Độ
Bảng số thiên văn
Thế kỷ XIII
Thế kỷ XIV
Bảng trên đây cho thấy sự tiến hóa trong cách viết các chữ số từ hai loại chữ số Đông Ả Rập và Tây Ả Rập (Thế kỷ XII - XV). Các thư bản lưu giữ tại Munich (Thế kỷ XII) và tại Vatican (thế kỷ XIII) cho thấy cả hai hình dạng khác nhau đó đều cùng tồn tại. Các chữ số trong tác phẩm của Widmann (cuối thế kỷ XV) là đỉnh cao của một quá trình tiến hóa mà chúng ta ngày nay chưa hoàn toàn hiểu được.
Giá trị của họ tuỳ thuộc ở vị trí của họ
Khi được ân sủng là hàng triệu,
Khi hết ân huệ là những con số 0,…
Các bàn tính vẫn còn được sử dụng rộng ở Viễn Đông và một số nơi của Tây Âu đều là những bàn tính tuyến tính cùng một nguyên lý như các bàn tính thời Cổ đại Hy Lạp.
Những dụng cụ tỉnh toán này đã bị thay thế cách tính bằng hình ở phương Tây như thế nào?