Tài liệu: Giả Kim Thuật của người Ả Rập

Tài liệu
Giả Kim Thuật của người Ả Rập

Nội dung

GIẢ KIM THUẬT CỦA NGƯỜI Ả RẬP

 

Khi các nền văn hóa ở Alexandria và La Mã suy sụp thì tại vùng Tiểu á, trên lãnh thổ loan và Syrie ngày nay đã xuất hiện một số trung tâm khoa học dưới sự bảo trợ của nhà cầm quyền giàu có. Một trong những trung tâm này là Viện Hàn lâm khoa học được thành lập tại thành phố Giunđi - Sacpua (Nam Ba Tư). Viện Hàn lâm khoa học này nổi tiếng với trường phái y học của nó và đã có nhiều liên hệ với các trung tâm khoa học khác, đặc biệt với Constantinople là nơi có một thư viện lớn vào Thế kỷ VI tại nhà thờ Xôphia.

Viện Hàn lâm Giunđi - Sacpua hoạt động cho đến khi ngườiẢ Rập chiếm đóng thành phố (năm  639). Trong thời phồn vinh, nó đã thu hút được nhiều nhà Bác học từ Alexandria, La Mã và các nơi khác chạy trốn sự truy nã của nhà thờ Thiên Chúa giáo, nhiều nhà hóa học thuộc ''đa thần giáo'' cũng chạy từ Constantinople đến.

Ngoài Giunđi - Sacpua, tại các nước Cận Đông, còn có một trung tâm khoa học khác nữa, trong đó triết học Hy Lạp Cổ giữ vai trò thống trị, nhưng tồn tại không được lâu. Tại các trung tâm khoa học này vào những Thế kỷ IV - VII, người ta đã dịch tác phẩm của các tác giả Hy Lạp và La tinh ra tiếng Ba Tư và tiếng Syrie. Người ta cũng dịch một số luận văn hóa học của các nhà Bác học Alexandria về “nghệ thuật bí mật”.

Đến Thế kỷ VII, sự phát triển hóa học và khoa học nói chung chuyển sang một giai đoạn mới liên quan với hoạt động của người Ả Rập và sau đó là của các dân tộc bị người Ả Rập chinh phục.

Dân tộc Ả Rập là một dân tộc du mục bán khai đã từ lâu sinh sống ở bán đảo Ả Rập. Khi chưa thống nhất lại được dưới một tôn giáo chung là Đạo Hồi thì họ thường chia rẽ và đánh lẫn nhau. Đến đầu Thế kỷ VII một thà buôn ở Mecka là Môhamet tự xưng là sứ giả của thánh Allah và tuyên truyền Đạo Hồi. Lúc đầu, ông bị người Ả Rập đuổi đến Mêđina (năm 622 năm gốc của lịch Hồi giáo), nhưng tại đây Môhamet lôi kéo được một số người và tiến hành đấu tranh vũ trang chống lại Mecka. Đến năm 630 thì phần lớn người Ả Rập thừa nhận Đạo Hồi.

Sau khi Môhamét chết (năm 632), những người thân cận của ông ta trở thành các vị khalip (phó tiên tri - thủ lĩnh Hồi giáo) và thúc đẩy người Ả Rập gây chiến tranh chinh phục các nước chung quanh. Trong vòng vài chục năm, họ đã chinh phục được một vùng lãnh thổ rộng lớn gồm Syrie, Ba Tư, Palestine, Mesopotamie, Tiểu á và Trung á, Ai Cập, Bắc Phi, Tây Ban Nha, Sicile. Khoảng năm 640, người Ả Rập chiếm Ai Cập và Thủ đô Alexandria. Lúc đầu, người Ả Rập chỉ chú ý chiếm đoạt vàng bạc, châu báu và các tù binh (để làm nô lệ) chưa chú ý đến khoa học, văn học, nghệ thuật. Họ tuân theo lôi giáo huấn: ''Nếu khoa học dạy điều gì đã được biết trong Kinh Koran thì đó là thừa, còn nếu khoa học dạy điều gì khác Kinh Koran thì đó là điều vô thần và tội lỗi”. Tuy nhiên, sau này các vị khalip trong cuộc sống xa hoa của mình, bắt đầu mời các nhà Chiêm tinh, toán học, giả kim thuật ngoại quốc về tô điểm cho cuộc sống ở cung đình.

Đến năm 750, chính quyền chuyển sang tay các vị khalip thuộc triều đại Apbatxit đặt Thủ đô ở Baghdad. Tại đây, khoa học và nghề thủ công của người Ả Rập phát triển rực rỡ. Baghdad trở thành một trung tâm khoa học và văn hóa lớn của Thế giới lúc đó, người ta say mê nghiên cứu tác phẩm của Aristotle, Euclide, Galien, Ptolémée. . . và các nhà Bác học Ả Rập đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ trong những lĩnh vực khác nhau (toán học, thiên văn...). Nền văn hóa Ả Rập đạt tới mức phồn vinh rực rỡ nhất vào các Thế kỷ VIII, IX với sự xuất hiện nhiều trung tâm khoa học lớn giống như Baghdad.

Đầu tiên người Ả Rập học kiến thức hóa học từ những bản viết tay của Syrie, Ba Tư, Ấn Độ và một phần những bản dịch của các tác giả Hy Lạp và Alexandria. Đến các Thế kỷ VIII - IX, người Ả Rập tiếp xúc với các tác phẩm gốc bằng tiếng Hy Lạp, chủ yếu là của các tác giả ở Viện Hàn lâm khoa học Alexandria, họ dịch các tác phẩm này ra tiếng Ả Rập. Đến đầu Thế kỷ IX thì xuất hiện các tác phẩm hóa học của các nhà Bác học Ả Rập.

Nhờ lãnh thổ rộng lớn và sự đồng nhất về tôn giáo và ngôn ngữ mà các kiến thức khoa học được truyền bá rộng rãi khắp đế quốc Ả Rập. Mối liên hệ giữa Baghdad và Byzantine cũng được phát triển.

Tại nước Tây Ban Nha và Sicile bị người Ả Rập chiếm đóng cũng xuất hiện nhiều trung tâm khoa học và văn hóa, bắt đầu từ các Thế kỷ X, XI thu hút không những người Ả Rập mà cả người Châu Âu đến học tập. Tại đó, lần đầu tiên có một số tác phẩm giả kim thuật Ả Rập được dịch ra tiếng La  tinh. Ở Tây Ban Nha lúc đó có trung tâm khoa học Coócđov nổi tiếng nhất, tại đây có trường cao đẳng với các môn Triết học, Toán học, Thiên văn, Chiêm tinh, Y học, Giả kim thuật . . .

Người Ả Rập đã thêm vào từ, ''Khymeia'' tiếp đầu ngữ của tiếng Ả Rập ''al'' thành ''alkhymeia'' để chỉ môn giả kim thuật, và dưới từ ngữ ''alkhymeia'' (giả kim thuật) người ta hiểu đó là các kiến thức hóa học đã tích lũy được bởi người Ả Rập và thời trước đó. Tên gọi ''alkhymela'' tồn tại cho đến Thế kỷ XVIII. Từ Thể kỷ XIII ''alkhymela'' được hiểu là nghệ thuật biến đổi các kim loại thành vàng nhờ hòn đá Triết học.

Lúc nền khoa học Ả Rập phát triển rực rỡ cũng là lúc xuất hiện nhiều nhà Bác học Ả Rập nổi tiếng, trong đó có nhiều thầy thuốc và nhà giả kim thuật xuất sắc.

Nhà giả kim thuật Ả Rập đầu tiên là Khalitip Nazit, một vị Hoàng thân của vương  triều Umayyad (661 - 750). Theo lệnh của ông, lần đầu tiên người ta đã tiến hành dịch các tác phẩm giả kim thuật tử tiếng Hy Lạp và La tinh ra tiếng Ả Rập.

Nhà giả kim thuật Ả Rập nổi tiếng nhất là Giabia - ipn - Gian (tên Latinh gọi là Geber) sinh vào khoảng năm 721 ở Ba Tư, chết năm 815. Các tác phẩm chính của ông nói về y học, toán và giả kim thuật. Cuốn sách ''70 chương'' được coi là của Giabia là một loại bách khoa toàn thư về thần học, chính trị, khoa học tự nhiên. Các chương 61 - 70 có viết một số kiến thức về kim loại và khoáng vật.

Giabia là một người theo thuyết Aristotle, tuy nhiên không thỏa mãn với thuyết Aristotle. Trong số các chất gặp trong thiên nhiên, ông đặc biệt chú ý đến 7 kim loại: vàng, bạc, đồng, sắt, thiếc, chì và thủy tinh (ông đặt thủy tinh thay cho thủy ngân). Ông cũng chú ý nhiều đến các khoáng vật. Để đặc trưng cho tính chất của các chất, đặc biệt là các tính nóng chảy, chịu rèn, vẻ sáng của kim loại, Giabia thấy rằng tính chất 4 nguyên tố của Aristotle (nóng, lạnh, khô, ẩm) là chưa đủ. Giabia cũng nêu lên các quan niệm mà các nhà triết học Cổ ở Trung Quốc, Ấn Độ, Alexandria đã nói đến, tức là coi thủy ngân và lưu huỳnh là các nguyên tố tạo nên kim loại. Lưu huỳnh được coi là nguyên lý của tính cháy được, còn thủy ngân là nguyên lý của tính kim loại. Giabla cho thủy ngân là ''linh hồn'' của kim loại, hơi khô ngưng tụ trong đất cho lưu huỳnh, còn hơi ẩm ngưng tụ lại thành thủy ngân. Sau đó lưu huỳnh và thủy ngân kết hợp theo các tỷ lệ khác nhau sẽ cho 7 kim loại. Vàng là kim loại hoàn thiện nhất, trong đó lưu huỳnh và thủy ngân kết hợp theo tỷ lệ tốt nhất. Quá trình tạo thành vàng và kim loại ở dưới đất xảy ra từ từ và chậm chạp, nhưng nếu ta thêm một chất ''thuốc'' nào đó vào hỗn hợp lưu huỳnh và thủy ngân thì quả trình sẽ xảy ra nhanh hơn (khoảng 40 giờ) và nếu lại thêm thuốc vạn năng (''êlixia'') thì chỉ khoảng một giờ là vàng đã được hình thành. Nếu ta thêm thuốc vạn năng đó vào các kim loại không quý theo tỷ lệ 1:100 hay 1: 1000 thì nó sẽ làm thay đổi tỷ lệ lưu huỳnh và thủy ngân trong các kim loại này và biển chúng thành vàng và bạc. Dễ biến đổi nhất là chì. Các thứ ''thuốc" này phải có khả năng cho màu các kim loại, hoặc biến đổi màu của các kim loại. Có khả năng biến đổi kim loại mạnh nhất là bốn chất: lưu huỳnh, Sen, thủy ngân và Nasatưa mà quan trọng nhất là thủy ngân - căn bản của mọi chất.

Trong tác phẩm của mình, Giabia đã nhắc đến nhiều chất, đặc biệt là “Anunsađia” (NH4Cl), ''Borắc'', (Kiềm), Cupơrôzơ, phèn, Ôripicmen (AS2S3), ''Alcôhôn'' hay ''Alkôphôn'' (Sb2S3), antimon kim loại. Giabia cũng nhắc đến các phép biến đổi hóa học như điều chế và tinh chế kim loại, điều chế và thăng hoa dầu thực vật, kết tinh, thăng hoa. . .

Một nhà giả kim thuật Ả Rập khác có tên tuổi là Ar - razi (hay Al - Rasi) có tên La tinh là Razes (865 - 925). Ông đã viết nhiều tác phẩm về y học và giả kim thuật. Trong số những tác phẩm kim thuật của ông, nổi tiếng nhất là 2 cuốn Sách về những bí mật Sách về bí mật của những bí mật.

Ar - Razi coi cơ sở của mọi vật thể là 5 nguyên lý vĩnh viễn sau đây: sáng tạo, linh hồn, vật chất, thời gian và không gian. Theo ý kiến ông thì mọi vật thể đều cấu tạo từ các nguyên tố (nguyên tử) không bị phân chia và khoảng không gian trống rỗng giữa chúng. Tính chất của các chất cấu tạo từ 4 nguyên tố của Aristotle được xác định bởi kích thước các nguyên tử hợp thành và không gian giữa các nguyên tử. Độ lớn của khoảng không gian giữa các nguyên tử của 4 nguyên tố xác định chuyển động tự nhiên của chúng. Chẳng hạn nước và đất chuyển động hướng xuống dưới, trong khi lửa và không khí chuyển động hướng lên trên.

Ar - Razi cũng hoàn toàn tin rằng, có thể biến đổi các kim loại ra nhau và đó là mục đích của giả kim thuật. Ngoài ra giả kim thuật còn nghiên cứu cách điều chế đá quý từ các loại đá thường (như thạch anh và thủy tinh). Ông coi các nguyên tố hợp thành kim loại là thủy ngân, lưu huỳnh và một thành phần thứ ba có bản chất muối. Quan niệm này về sau được phổ biến rộng rãi trong các tài liệu giả kim thuật Tây Âu.

Trong các tác phẩm, Ar : Razi đã nhắc đến nhiều chất hóa học khác nhau, mô tả những dụng cụ (như bình cổ cong, bình kết tinh, lò nung), và nhiều phép biến đổi hóa học (như quá trình nóng chảy, kết tinh, gạn, lọc, chưng cất, . . .). Ông chia các chất ra làm 3 loại lớn:

1- Các chất đất (khoáng vật).

2- Các chất thực vật.

3- Các chất động vật

Mỗi loại gồm nhiều nhóm. Ví dụ các chất động vật gồm: tóc, xương, gan, não, mật . . . Ngoài các nhóm chính còn có các dẫn xuất. Tác phẩm của Ar - Razi được truyền sang nước Tây Ban Nha thuộc Ả Rập rồi sau này được dịch ra tiếng La tinh và được nhiều nhà giả kim thuật Tây Âu rất tôn trọng.

Hoạt động của các nhà giả kim thuật vào những thế hệ sau ít có gì mới mẻ so với những điều đã nói trong các tác phẩm của Giabia và Ar - Razi.

Do sự phức tạp về mặt chủng tộc và do trình độ phát triển kinh tế ở các vùng không đều nhau, đế quốc Ả Rập rộng lớn dần dần bị rạn nứt và đến Thế kỷ XI nó bắt đầu bị suy sụp, một số vương quốc Hồi giáo tự tách riêng ra. Đế quốc Ả Rập bị suy yếu không thể chống đỡ nổi những cuộc xâm lấn của người Tuyêcki có trình độ văn minh thấp hơn. Đến năm 1258, người Tuyêcki chiếm được Baghdad, Thủ đô của vương quốc Ả Rập mạnh nhất.

Nền khoa học kém sút đi, các nhà giả kim thuật Ả Rập trở thành những người tìm kiếm “thuốc vạn năng'' để chế vàng một cách mù quáng, họ không còn viết được tác phẩm nào có giá trị mà chỉ làm công việc sao chép lại và bình luận các tài liệu cũ. Giả kim thuật lâm vào tình trạng bế tắc và bị thần bí hóa giống như thời kỳ suy đồi của Viện Hàn lâm Alexandria.

Tuy vậy, vào khoảng Thế kỷ XI - XII ở các lãnh thổ cũ của đế quốc Ả Rập (như Batư, Trung á, Tây Ban Nha . . . ) cũng còn xuất hiện một số nhà bác học xuất sắc trong đó có Abu - Ali – Ali - an- Huxây – lpn - Xin (980 - 1037).

Các tác phẩm Quy tắc của khoa y học và Sách thuộc trị bệnh có tính chất là những tập Bách khoa toàn thư trong đó có nhắc đến nhiều chất vô cơ và hữu cơ, có trình bày cơ sở của học thuyết Aristotle về nguồn gốc kim loại và khoáng vật. Ông tán thành quan điểm của Giabia coi thủy ngân và lưu huỳnh là các nguyên tố hợp thành kim loại, nhưng khác với Giabia, ông phủ nhận khả năng biến đổi ra nhau của các kim loại và lên án hoạt động của các nhà giả kim thuật tìm cách chế vàng. Ông viết: “nhà giả kim thuật đinh rằng họ đã thực hiện được những biên đổi thực sự các chất, nhưng thực ra họ chí cỏ thể sản xuất ra những đồ giả mà thôi, bằng cách nhuộm kim loại thành màu trắng cho giống như bạc, hoặc thành màu vàng cho giống như vàng . . . '' và ''Tôi cho rằng không thể có phương pháp nào biến đổi được kim loại này thành kim loại khác”.

Tác phẩm của Ipn - Xin nổi tiếng ở Tây Ban Nha thuộc Ả Rập và đã được dịch ra tiếng La tinh. Tác phẩm này rất được phổ biến ở Tây Âu và trở thành tài liệu hướng dẫn chính của các thầy thuốc cho đến Thế kỷ XVIII.

Trong khoảng các Thế kỷ XI - XIV xuất hiện nhiều tác phẩm giả kim thuật bằng tiếng Ả Rập và được dịch sang tiếng La tinh, nhưng hầu như chúng không có gì mới cả về mặt lý thuyết lẫn thực hành.

Như vậy, các nhà giả kim thuật Ả Rập đã mang lại gì mới cho kho tàng kiến thức hóa học chung của loài người? Trước hết họ đã góp phần mở rộng phạm vi hiểu biết về các chất, về các dụng cụ thực hành và các phép biến đổi hóa học. Các thầy thuốc Ả Rập đã chú ý đến việc dùng các chất chiết từ thực vật để chế thuốc chữa bệnh như đường mía, ta nanh. Họ cũng điều chế nhiều hợp chất vô cơ như ''ephiốp thủy ngân'' (HgS đen), thần sa (HgS), Clorua thủy ngân (HgCl2) để trị bệnh ngoài da, sun phát đồng để chữa đau mắt, xôđa tự nhiên hay natrum, và xô đa lấy từ tro thực vật mà họ gọi là qualje, họ biết cách thu kiềm bằng cách chế hóa natri cácbonát với vôi, dùng phèn làm chất cầm máu và thuộc da, borắc tự nhiên, Nasatưa (NH4Cl), oxyt kẽm và sunfat kẽm (để chữa đau mắt) . . .

Về mặt lý thuyết, người Ả Rập đã nêu ra quan niệm coi kim loại cấu tạo từ lưu huỳnh và thủy ngân, và lần đầu tiên đã tiến hành phân loại các chất. Bằng cách kết hợp quan sát, thí nghiệm với các nhiệm vụ thực tế các nhà giả kim thuật Ả Rập đã tiến đến gần các thành tựu của “khoa học bí mật” ở  Ai Cập thuộc Hy Lạp và xua tan đám sương mù bao phủ các kiến thức hóa học từ thời Viện Hàn lâm khoa học Alexandria.

Đồng thời nền giả kim thuật Ả Rập giữ vai trò mắt xích nối nền khoa học của Thế giới Cổ đại với nền giả kim thuật Châu Âu sau này. Chính nhờ các tác phẩm giả kim thuật Ả Rập dịch sang tiếng La tinh và hoạt động của các nhà giả kim thuật Ả Rập ở Tây Ban Nha mà các kiến thức hóa học được truyền bá rộng rãi ở Nam và Tây Nam Châu Âu. Thực tế sự phát triển hóa học và giả kim thuật Châu Âu bắt đầu bằng sự tiếp xúc của người Châu Âu với nền văn hóa Ả Rập.

Cuối cùng, cũng nên nhắc đến quan niệm về nguyên tử của người Ả Rập mà nhờ có nó các dân tộc Tây Âu sau này mới có điều kiện tìm hiểu học thuyết nguyên tử của các nhà Bác học Hy Lạp. Người ta cho rằng, người Ả Rập biết được thuyết nguyên tử của Hy Lạp Cổ qua người Ai Cập (tại Ai Cập đầu CN có trường phái triết học Apđen).

Thuyết nguyên tử được một số giáo phái Hồi giáo ủng hộ, các giáo phái này giải thích Kinh Koran và tìm cách bảo vệ kinh này trước sức tấn công của các ''di giáo''. Học thuyết nguyên tử Ả Rập dựa trên quan niệm cho rằng, mọi vật thể đều cấu tạo từ những nguyên tử - những hạt giống như các điểm nhỏ không có kích thước. Mọi nguyên tử đều giống nhau về kích thước, khối lượng, bề ngoài. . . Như vậy nguyên tử của người Ả Rập không còn giống như nguyên tử của Démocrite, nghĩa là nó không còn là những hạt vật chất cụ thể nữa. Dần dần với sự phổ biến môn giả kim thuật ở Tây Âu, thuyết nguyên tử Ả Rập được giải thích theo một quan điểm siêu hình khó hiểu.

TS. ĐẶNG NHẤT HANH

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/148-02-633385838532343750/Nen-van-minh-Tay-A/Gia-Kim-Thuat-cua-nguoi...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận