NHỮNG THÀNH TỰU CỦA VĂN HÓA HY LẠP
Trong sự ra đời và phát triển của văn minh Hy Lạp, văn hóa đã từng bước nảy sinh và ngày càng đa dạng với những thành tựu rực rỡ. Những di sản văn hóa được coi là đỉnh cao của văn minh Hy Lạp chiếm một vị trí quan trọng trong kho tàng văn hóa thế giới.
1. Văn học:
Thần thoại chiếm vị trí quan. trọng trong kho tàng văn học Hy Lạp Cổ đại. Thần thoại Hy Lạp khá phong phú và thể hiện trong đó cách giải thích của người Hy Lạp về tự nhiên nguồn gốc loài người; đồng thời nêu lên những kinh nghiệm của cuộc sống lao động và ước vọng của mình. Xuất hiện ở giai đoạn đầu của nền văn minh, thần thoại được các ngành nghệ thuật sử dụng để xây dựng nên những tác phẩm và thể hiện tư tưởng của tác giả ''Vật liệu của nghệ thuật Hy Lạp là Thần thoại Hy Lạp'' (Karl Marx). Các nhân vật trong Thần thoại từ Vũ trụ, Thần Thánh tới các bậc anh hùng dũng sĩ. Từ khối hỗn máng gọi là Caos, xuất hiện nữ Thần Đất Gaia rồi thần Ái tình Eros nhờ đó, Caos và Gaia lấy nhau, sinh ra đêm tối, ánh sáng, sao, trời, biển cả, núi non, sông ngòi, sấm chớp,. . . bàn tay khéo léo của Prométér nặn ra người từ đất sét và lấy trộm lửa mang đến cho loài người. Dưới sự điểu khiển của Zeus(Zớt), vị Thần tối cao của các Thần ngự ở đỉnh núi Olympie quanh năm tuyết phủ đã can thiệp vào mọi lĩnh vực của đời sống con người. Thần, Thánh vừa thể hiện sức mạnh của trần gian vừa thể hiện sự lao động sáng tạo của con người như: Thần trồng nho Dionichos, nữ Thần nghề nông Démete, Thần thợ rèn Hefaistos, nữ Thần anh hùng Calios, nữ Thần múa Ternexiso...
Thơ ca Hy Lạp Cổ đại
Bắt đầu từ thơ ca dân gian, hai tập sử thi Jliade và Odyssée (viết bằng thơ) là hai tác phẩm tiêu biểu về tài năng văn học của người Hy Lạp Cổ đại. Trên cơ sở truyện dân gian ''Truyền thuyết về Thành Troie'', hai tập sử thi đã ra đời qua nhiều thế hệ. Jliade mô tả năm thứ mười, năm quyết liệt nhất của cuộc chiến tương tàn giữa Hy Lạp với thành Troie ở Tiểu Á. Hai nhân vật chính trong Jliade là những dũng tướng Achilles và dũng sĩ Hektor. Trong trận đánh cuối cùng, Asin đã ra trận để trả thù cho bạn mình là Patrocle đã tử trận. Hektor, con Vua Thành Troie bị giết chết. Lễ mai táng Hektor kết thúc thiên trường ca dài 15.683 câu thơ.
Odyssée kể lại cuộc hành trình phiêu bạt của Odyssée viên tướng Hy Lạp. Do Odysseé làm mù mắt Polyfem, Thần biển Poseiđon đã nổi giận ngăn trở cuộc hành trình của Odyssée mười năm phiêu dạt đầy tai ương; nhờ Thần giúp đỡ và nhờ mưu trí, Odyssée đã trở về quê hương gặp lại người vợ thuỷ chung. Bản trường ca này dài 12.10 câu thơ.
Jliade và Odyssée không chỉ có giá trị văn học mà còn là nguồn sử liệu phong phú của lịch sử Hy Lạp Cổ đại.

Thế kỷ VIII - VII Tr.CN, nhà thơ Hesiotte nổi tiếng với hai tác phẩm lớn Gia hệ về Thần trình bày các thế hệ Thần, Thánh, truyền thuyết về các anh hùng Hy Lạp. Tác phẩm Công việc và tháng ngày nói về cuộc đời cơ cực của nông dân dưới ách thống trị của bọn quý tộc và ngợi ca lao động.
Thơ trữ tình nảy sinh và phát triển vào Thế kỷ VI Tr.CN thể hiện màu sắc cuộc sống tư tưởng, thế giới nội tâm của con người. Những nhà thơ trữ tình nổi bật là Solon, Arkiloc, Théonit, Tirter, Pinda, Anacréon.
Văn xuôi xuất hiện từ Thế kỷ VI Tr.CN trong chuyện ngụ ngôn khả thành công. Ezôv, một nô lệ tài năng, là nhà văn ngụ ngôn nổi tiếng của Hy Lạp. Tác phẩm của ông khá nhiều và đặc sắc như Con cáo và chùm nho, Sư tử,... có ảnh hưởng tới văn học Thế giới. . .
Kịch chiếm vị trí cao nhất, có tác dụng quan trọng nhất trong xã hội Hy Lạp. Kịch đặc biệt là bi kịch Hy Lạp đã đặt nền móng cho ngành kịch thế giới. Thế kỷ V - IV Tr.CN, kịch phát triển tới đỉnh cao.
Tính chất hiện thực, đa đạng, trình độ nghệ thuật điêu luyện của kịch đã thu hút đông đảo người xem. Những nhà hát lớn tới 44. 000 chỗ ngồi ở Megalopolis, 17.000 chỗ ngồi như ở Athènes chứng tỏ vai trò và ý nghĩa của kịch trong đời sống.
Bi kịch Hy Lạp phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội Hy Lạp. Nghệ thuật của nó đã đạt tới trình độ sâu sắc về cách thể hiện tâm lý nhân vật; các sự kiện riêng lẻ được nâng lên mức khái quát. Các tác giả lỗi lạc của bi kịch có thể kể đến là Echine (525 - 456Tr.CN ). Ông đã sáng tác 90 vở kịch song chỉ còn 7 vở truyền đến ngày nay. Ba vở kịch của ông là Ôresti; Prométhé bị xiềng và Quân Ba Tư.
Sophocles (497 - 406 Tr. CN), cũng là nhà bi kịch nổi tiếng. Trong số 123 vở kịch của ông, còn lại 7 vở, trong đó nổi tiếng nhất, là Edip làm Vua và Antigone, những vở kịch đã phản ánh cuộc đấu tranh giữa số mệnh với đạo đức và nghị lực của con người. Vở Edip làm Vua tóm tắt thư sau: Thần Denfoe báo cho Vua thành Thébes biết con trai Vua sẽ giết cha lấy mẹ. Tin lời tiên đoán ấy, khi Edip mới ra đời, Vua sai mang đứa con vào rừng vứt đi cho hổ ăn thịt. Nhưng Edip được một người mang về nuôi lớn lên ở một xứ khác. Rồi một sự tình cờ, một hôm trên đường đi, Edip đã giết nhầm cha đẻ của mình mà không hay biết. Thế rồi, một ngày kia Edip tới thành bang của cha mình làm Vua; nơi đây có một con Sphinx (Sư tử hình người) đã từng ăn thịt rất nhiều người vì những người này không trả lời được câu hỏi của nó. Sphinx hỏi rằng: con gì sáng đi bằng bốn chân, trưa đi bằng hai chân và chiều đi bằng ba chân. Ai trả lời được thì Sphinx cho đi qua và không ăn thịt. Nơi Thành bang cha của Edip có lời nguyền, nếu người nào trả lời được sẽ tôn làm Vua. Thế là Edip trả lời được câu hỏi của Sphinx, đó là con người. Edip được tôn lên làm Vua và lấy Hoàng hậu là mẹ đẻ của mình mà không biết. 15 năm sau, khi có 4 con với mẹ mình, Edip mới biết rõ sự thật kinh hoàng ấy. Mẹ Edip tự sát còn Edip gục trên vai mẹ, lấy kim tự đâm mù mắt, lời kết của bi kịch vang lên đau xót.
''Số phận đã vang lên từ sương mù như thế đó!''
Hai người chết, chỉ cái chết là khác nhau thôi.

Nô lệ trong gia đình, có một loại nô lệ chuyên mua vui cho chủ như vũ nữ, ca sĩ. Họ phục dịch trong cung đình hoặc trong các gia đình quyền quý.
Cùng với Echine và Sophocles, nhà bi kịch Euripides (484 - 406 Tr. CN) là người có học vấn sâu rộng, ông viết 92 vở kịch nhưng chỉ còn lại 18 bi kịch và 1 kịch trào phúng. Tác phẩm của ông dù lấy đề tài trong kho tàng Thần thoại, nhưng đã có những quan niệm mới về Thần linh; ở vở bi kịch Electre (Êlêchtơrơ), ông tỏ ra nghi ngờ Thần Zeus toàn năng. Mượn lời nhân vật trong vở Bellerophon (Benlơrôphông), tác giả cho rằng:
“Mọi người đều nói trên trời có Thần
Không! Không, tuyệt đối không có chúng!
Chỉ cần một chút thông minh
Anh sẽ không thể nào tin được
Truyền thuyết cũ rích ấy”.
Qua tác phẩm, Euripides tỏ ra là người yêu nước và có tinh thần dân chủ.
Ngoài bi kịch, hài kịch Hy Lạp cũng đạt nhiều thành tựu quan trọng khác. Hài kịch thường mang nội dung chính trị, giải quyết những vẩn đề nóng hổi của cuộc sống. Tác giả hài kịch xuất sắc nhất là Aristophane (446 - 385 Tr. CN ) với 44 vở hài kịch (nay còn lại 1 vở). Những vở kịch tiêu biểu là: Kỵ sĩ, Chim, Hòa Bình, Ech, Lizistrata.
2. Sử học
Trước khi có chữ viết, lịch sử Hy Lạp được phản ánh qua truyền thuyết và sử thi. Từ khi có chữ viết, lịch sử Hy Lạp cũng được ghi chép lại. Hérodote (Hêrôđốt, 484 - 425 Tr. CN) là nhà sử học Hy Lạp nổi tiếng thời Cổ đại. Ông đi nhiều nước (cả Châu Á) và ghi lại những tài liệu quý về lịch sử dân tộc học và khoa học tự nhiên. Tác phẩm của ông có 9 quyển viết về lịch sử Hy Lạp, Assyrie, Babylone, Ba Tư, Ai Cập. . . Nguyên tắc viết sử của ông là truyền lại những điều người ta nói, song không tin tất cả. Khi viết về chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư, ông đã cố gắng chứng minh tính chất chính nghĩa của người Hy Lạp chống quân Ba Tư xâm lược; ông dành những chương giá trị nhất cho chiến công oanh liệt của người Hy Lạp ở Marathon, Termophirle. Khi viết về chiến công ở Marathon, ông bày tỏ thái độ kính trọng, khâm phục người chiến sĩ đã chạy 42 km liên tục từ cánh đồng Marathon về Thành Athènes, trước khi tắt thở đã kịp kêu to ''Hỡi người Athènes, hãy vui mừng lên, chúng ta đã thắng!”
Tác phẩm của Hérodóte để lại cho kho tàng sử học những giá trị lớn. Ông đã được tặng danh hiệu “Người cha đẻ của sử học”.
Một nhà sử học khác là Tuchidite (Tuyxidlt, 460 - 395 Tr.CN). Sau khi tham gia chiến tranh Péloponnese, ông đã dồn sức viết cuốn Lịch sử chiến tranh Péloponnèse. Ông quan niệm rằng: “Viết lịch sử là để cho đời sau quan niệm rõ ràng về quá khứ”. Phương pháp viết sử của ông rất thận trọng, có so sánh, đối chiếu các sự kiện tư liệu . . . Tuy vậy, ông cũng không vượt khỏi khuôn khổ của quan niệm số phận ràng buộc con người.
Người học trò của Tuchidite là Sénophon (Xênôphôn 430 - 359 Tr.CN ) tỏ ra thua kém Tuchidite. Tác phẩm quan trọng nhất của ông là Lịch sử Hy Lạp. Ông tỏ ra tin vào các giấc mộng mị, lời tiên tri và coi lịch sử như là những sự tích của cá nhân.

3. Nghệ thuật:
Trong các loại hình nghệ thuật ở Hy Lạp Cổ đại, hội họa, âm nhạc rất mờ nhạt; nhưng điêu khắc và kiến trúc đã đạt được những thành tựu rực rỡ.
Những công trình điêu khắc từ Thế kỷ VIII – VII Tr.CN còn cứng nhắc và chịu ảnh hưởng sâu sắc của nghệ thuật phương Đông. Nhưng dần dần, nó đã vượt qua chủ nghĩa công thức, vươn tới chủ nghĩa hiện thực; tới Thế kỷ V - IV Tr.CN, nghệ thuật tạo hình đã đạt tới trình độ phát triển nhất. Những công trình sáng tạo gắn với tên tuổi các nghệ sĩ tài ba như Polignos, Miron, Phidias. Họ đã thể hiện tác phẩm sinh động và tính tư tưởng sâu sắc. Tượng Thần Athéna và Marchiatte của Miron còn diễn tả tinh tế nội tâm của nhân vật. Những nét tài hoa của kiến trúc và điêu khắc Hy Lạp thể hiện tập trung trong công trình kiến trúc tổng hợp (Acropolle). Dưới thời Périclès trị vì, Đền Parthénon được xây dựng. Đền thể hiện sự phối hợp hài hòa giữa kiểu kiến trúc Dorien khỏe khoắn với kiểu Ionien nhẹ nhàng. Dưới sự chỉ đạo của nghệ sĩ thiên tài Phidias, một tập thể nghệ sĩ đã chạm khắc các bức chạm nối theo đề tài Thần thoại trên bức tường dài 276m của Parthénon. Bên trong đền là tượng Thần Athéna do Phidias sáng tác.
Những thành tựu điêu khắc và kiến trúc của Hy Lạp đã trở thành cổ điển. Các nghệ sĩ sau đó thường mô phỏng theo mà thôi. Những thành tựu ấy là kết quả sức sáng tạo, trí tuệ của quần chúng; và theo Karl Marx, trên một phương diện nào đó được coi là tiêu chuẩn và những kiểu mẫu không thể bắt chước được”.