UNESCO VỚI VIỆC CỨU VÃN
NHỮNG BÁU VẬT CỦA AI CẬP
Cuộc vận động cứu vãn những di tích và đền đài ở Nubia chứng minh một cách vang dội nhất sự quan tâm của UNESCO đối với di sản của Ai Cập Cổ đại; và thành công của cuộc vận động này là ví dụ hùng hồn nhất về sự đoàn kết và hợp tác Quốc tế trong lĩnh vực văn hoá để gìn giữ di sản chung.
Quyết định có suy nghĩ cân nhắc của Chính phủ Ai Cập xây dựng ở phía Nam Thành phố Aswan một đập nước khổng lồ, nhằm biến đổi và hiện đại hoá nền kinh tế đất nước đã đặt ra cho Ai Cập cũng như Soudan một vấn đề lớn về văn hoá: hàng chục ngôi đền và khu di tích khảo cổ ở Nubia có nguy cơ bị chìm ngập dưới nước hồ nhân tạo khổng lồ do đập nước tạo ra. Hồ này có chỗ rộng 25km và trải dài 300km dọc lưu vực Sông Nil tại vùng Nubia của Ai Cập và 200km tại vùng Nubia của Soudan.
Như vậy, hai ngôi đền Abu Simbel cách Aswan 270km về phía Nam bị đe dọa. Thực vậy, nền móng của ngôi đền lớn cao hơn mực nước biển 124m, còn nền móng của ngôi đền nhỏ ở độ cao 122m, tức là ngang với mực nước (không bao giờ quá 121m) của hồ chứa nước do đập Aswan cũ (xây dựng đầu Thế kỷ này) tạo ra. Nhưng khi xây xong đập mới thì mực nước trong hồ sẽ lên cao tới 182m, tức là cao hơn 62m so với mực tối đa cũ. Hai ngôi đền có nguy cơ bị nhấn chìm dưới nước.
Vỉ dụ thứ hai là các ngôi đền trên đập. Philae cao hơn mực nước biển 104m và nằm giữa hai đập mới và cũ. Các ngôi đền này đã bị chìm dưới nước của đập cũ hầu như quanh năm. Việc xây dựng đập mới (ở hạ lưu các ngôi đền này, do đó không ảnh hưởng trực tiếp đến ngôi đền) lại hạ thấp mực nước của hồ chứa nước cũ, làm cho mực nước này hàng ngày lên xuống giữa 102m và 110m tuỳ theo nhu cầu về điện. Các ngôi đền này sẽ chỉ ngập nước một phần, nhưng mức dập dềnh lên xuống có cơ làm hại các ngôi đền nhiều hơn so với khi đền bị ngập hẳn và thường xuyên.
Chính phủ hai nước Ai Cập và Soudan do vậy đứng trước trách nhiệm lớn lao đối với vùng đất Nubia từng gắn liền với lịch sử Ai Cập từ thời các Pharaon, và đó là nơi từng diễn ra một hoạt động kiến trúc sôi nổi. Vùng này có những đền đài và pháo đài nhằm bảo vệ các con đường thương mại và gìn giữ hoà bình. Lịch sử được ghi lại trong những công trình xây dựng của thành phố, trong các nghĩa trang và các ngôi mộ được xây vào nhiều thời kỳ khác nhau; cũng như trong vô số bia đá, phù điêu và chữ khắc, chưa kể đến những báu vật bị chôn vui trong cát.
Vì vậy, ngày 6-4-1959, Chính phủ Ai Cập đã yêu cầu sự viện trợ tích cực của UNESCO trên các mặt vật chất, kỹ thuật và khoa học để đề ra và thực hiện những đề án cứu vãn những ngôi đền ở Nubia. Sự vận động ấy là thích đáng do quy mô và phí tổn to lớn của công việc cũng như tầm quan trọng của các di tích cần gìn giữ. Những di tích này nằm trong di sản Thế giới và do đó thuộc về toàn thể loài người.
Ngoài ra, với trách nhiệm to lớn trong việc bảo tồn và gìn giữ di sản Thế giới, UNESCO là tổ chức Quốc tế duy nhất có khả năng động viên toàn Thế giới sự ủng hộ về tài chính cũng như động viên các nhà kỹ thuật và các nhà chuyên môn cần thiết cho công cuộc này. Vài tháng sau, Chính phủ Soudan cũng có một đề nghị tương tự với UNESCO.
UNESCO đã đáp lại các đề nghị này bằng hai lời kêu gọi. Lời kêu gọi thứ nhất mang tính chất chung, được đưa ra ngày 8-3-1960. Lời kêu gọi thứ hai đưa ra ngày 5-11-1968, nói cụ thể hơn đến việc cứu vãn các ngôi đền ở Philae. Trong cả hai lời kêu gọi ấy, Tổng Giám đốc UNESCO hô hào các chỉnh phủ, các tổ chức công và tư; tất cả những nhà hảo tâm tiềm tàng hãy có sự đóng góp về tài chính, khoa học và kỹ thuật cho việc cứu vãn các ngôi đền ở Nubia.

Cuộc vận động đề ra những mục tiêu sau đây:
1. Kiểm kê lại thật kỹ các đền đài ở Nubia. Việc này đã được thực hiện một cách hết sức tỉ mỉ bởi Trung tâm thông tin và nghiên cứu lịch sử nghệ thuật và văn minh Ai Cập Cổ đại, thành lập tại Cairo năm 1955 theo một hợp đồng hợp tác ký kết giữa UNESCO và Chính phủ Ai Cập cho việc nghiên cứu các ngôi đền ở Ai Cập cùng các bia khắc, phù điêu trong các ngôi đền đó. Trung tâm này được Chính phủ Ai Cập lập ra và tài trợ, được UNESCO cung cấp chuyên gia và thiết bị.
2. Xác định những khu di tích và đền đài có thể bị chìm ngập cũng như những vùng chưa được khai quật. Hơn 70 đoàn khảo cổ học của 25 nước đã đến khảo sát tất cả các vùng sẽ bị ngập nước tại Nubia, trên địa phận Ai Cập cũng như Soudan.
3. Cứu vãn hơn 20 ngôi đền Nubia của Ai Cập và Soudan trong đó có:
- Hai ngôi đền tạc trong đá ở Abu Simbel. Sau khi xem xét nhiều đề nghị và những khảo cứu tỉ mỉ về địa hình, cuối cùng quyết định tháo rời hai ngôi đền rồi lắp ráp lại tại chỗ nhưng nâng bệ lên cao 64m so với trước. Các ngôi đền trùng tu này đã được khánh thành năm 1967.
- Các ngôi đền Philae. Sau khi xem xét nhiều đề nghị, công cuộc cứu vãn các ngôi đền Philae được trao cho các công ty Ai Cập và Italia. Phải tháo rời hoàn toàn các ngôi đền rối lắp ráp lại tại một địa điểm đã được chuẩn bị trước ở hòn đảo Agilkia gần đó. Việc hoàn thành công trình này và thắng lợi của cuộc vận động cứu vãn di sản ở Nubia đã được cử hành trọng thể năm 1980.
- Hơn hai chục ngôi đền, nhiều nhà nguyện, bia đá và phù điêu đã được cưa rời khỏi khối đá để di chuyển và lắp ráp lại tại một nơi khác cao hơn mực nước của hồ chứa nước mới tức Hồ Na ser. Công việc này do Vụ bảo tồn cổ vật của Ai Cập đảm nhiệm, trừ các ngôi đền Kalabcha do CHLB Đức và một phần ngôi Đền Amada do Pháp cứu vãn, ngôi đền Amada được di chuyển đến địa điểm mới bằng đường ray.
Như vậy, những hiện vật cổ của một vùng gắn liền với nước Ai Cập thời các Pharaon đã được cứu vãn cho hậu thế. Là những biểu tượng tuyệt vời về thành tựu của loài người đã tồn tại qua nhiều thiên niên kỷ tại một vùng đất hoang vu, cằn cỗi, không thể sinh sống được; những công trình đó giờ đây trở thành một ví dụ vô song về những gì khoa học và kỹ thuật có thể làm được để cứu vãn di sản của cha ông.
Cuộc vận động cứu vãn các di tích và công trình ở Nubia đánh dấu một cái mốc quan trọng trong lịch sử của UNESCO, vì cuộc vận động này đã đưa UNESCO vào một hoạt động khoa học và văn hoá nhiều hy vọng thất chưa từng được tiến hành. Thắng lợi không ai có thể chối cãi của cuộc vận động là kết quả của một sự cộng tác chặt chẽ giữa tất cả các bên liên quan trong hơn 20 năm. Thành công cuối cùng nói lên quyết tâm của Soudan và Ai Cập bảo tồn di sản của mình, nói lên sự hào hiệp của các nước thành viên, nhiệt tình và tài năng của tất cả những người đã tham gia công cuộc cứu vãn, đặc biệt là các kiến trúc sư, các nhà khảo cổ, các kỹ sư và chuyên gia được tập hợp được sự bảo trợ của UNESCO.
Nhưng UNESCO cũng đã góp phần vào việc khai thác di sản của Ai Cập Cổ đại thông qua những sáng kiến khác:
* Nâng cao nội dung của các bảo tàng, nhất là bảo tàng cổ vật thời các Pharaon ở Cairo.
* Bảo tồn và trùng tu các di tích khảo cổ nổi tiếng như các kim Tự Tháp ở Giza Louxor và nhiều khu di tích Hồi giào ở Cairo.
* Ghi vào danh sách di sản Thế giới nhiều di tích của Ai Cập.
* Giúp đỡ xuất bản nhiều bản chép tay bằng tiếng Côpte của Nag' Hamthad gọi là “Bộ luật duy trí”
* Phát động một cuộc vận động Quốc tế năm 1982 cho việc thành lập Bảo tàng Nubia tại Aswan và Bảo tàng Quốc gia Văn minh Ai Cập tại Cairo; đồng thời, cung cấp mọi viện trợ tài chính, kỹ thuật và thông tin cần thiết cho việc thực hiện các mục tiêu của cuộc vận động. Bảo tàng quốc gia có nhiệm vụ giới thiệu các nền văn minh đã nối tiếp nhau tại Ai Cập, từ thời tiền sử đến ngày nay. Còn Bảo tàng Nubia sẽ cho phép khám phá mọi khía cạnh địa chất, địa lý, nhân chủng và lịch sử của vùng, cũng như những khía cạnh nghệ thuật và khảo cổ. Bảo tàng này còn có cả một trung tâm nghiên cứu để nghiên cứu mọi vấn đề liên quan đến Nubia và các mối quan hệ giữa Nubia với Châu phi, vì nó là nơi giao tiếp giữa các ảnh hưởng của Châu Âu và khu vực Địa Trung Hải.
* Giúp đỡ đề án phục hồi Thư viện Alexandria nổi tiếng, nơi tàng trữ tư tưởng triết học và khoa học của thế giới Hy Lạp thời mà Alexandria là một Trung tâm văn hoá và khoa học có sức toả sáng khắp Thế giới. UNESCO đã ra lời kêu gọi sự đóng góp cho việc xây dựng những toà nhà và mua thiết bị cơ bản, và đã nhận lời tham gia việc thực hiện công trình này, dự tính sẽ hoàn thành vào cuối Thế kỷ XX.
GAMAL MOKHTAR