Tài liệu: Nền văn minh Ai Cập và thế giới Địa Trung Hải

Tài liệu
Nền văn minh Ai Cập và thế giới Địa Trung Hải

Nội dung

NỀN VĂN MINH AI CẬP VÀ THẾ GIỚI ĐỊA TRUNG HẢI

 

Nước Ai Cập thống nhất và có một hệ thống độc đáo chữ viết bước vào lịch sử khoảng cuối thiên niên kỷ thứ IV Tr. CN. Ai Cập nhanh chóng trở thành trung tâm của một nền văn minh xuất sắc; trong đó đã phát triển một cách rực rỡ về triết học và văn học, kiến trúc và nghệ thuật, khoa học và y học, chính quyền và tổ chức xã hội. Từ thời xa xưa, nhờ ở vị trí của nước này trên bờ biển Địa Trung Hải, người Ai Cập đã có những cuộc tiếp xúc ngày một nhiều với Châu Âu. Sự đóng góp của Ai Cập đối với văn hoá phương Tây đã làm giàu nền văn minh nói chung.

Hầu như vào cùng thời gian nói trên, có một nền văn hoá khác ra đời xung quanh Biển Egée và đặc biệt tại Đảo Crete, đó là văn minh Minos, gọi theo tên một nhà Vua huyền thoại.

Tuy Địa Trung Hải không phải là một trở ngại giữa Ai Cập và Biển Egée, song các cuộc tiếp xúc giữa các thương nhân và sứ giả của Ai Cập với vùng Egée trước hết diễn ra trên các hải cảng vùng Phénicie, nhất là Byblos. Có lẽ sau đấy, các thuyền buôn Ai Cập đã đi từ các cảng đó đến Crete và ghé vào Síp Rhodes, Karpathos và Kassos trước khi thẳng đường trở về Ai Cập (cách Crete khoảng 270 hải lý) nhờ gió bắc thổi vào mùa Hè. Chuyến đi mất ba ngày hai đêm.

Có nhiều bằng chứng khảo cổ học cho thấy có mối quan hệ giữa hai dân tộc này. Tại Crète đã tìm được nhiều bình đá Ai Cập hình trụ. Người Crète cuối cùng đã học kỹ thuật làm bình của người Ai Cập. Trên Đảo Cythère đã tìm được một bình bằng thạch cao tuyết mang tên một vị Vua Ai Cập thuộc triều đại thứ V (khoảng 2465 - 2323 Tr. CN). Kể từ Thế kỷ XXII Tr. CN, các văn bản Ai Cập bắt đầu nói đến Kaftiou (chuyển ngữ sang tiếng Ai Cập từ Kaphtor, tên gọi Crete trong tiếng Sethitic) mà người ta cũng gặp trong cả Kinh Thánh.

Vào đầu thiên niên kỷ thứ II Tr.CN, quan hệ buôn bán diễn ra tấp nập giữa người Ai Cập thời Trung đế chế (khoảng 2040 -- 1640 Tr.CN) với người Crète ở thời kỳ gọi là thời Trung Minos. Nhiều đồ vật của Ai Cập thuộc thời kỳ này, như những đồ dùng hằng ngày, con dấu hình con bọ hung và một tượng nhỏ bằng điorít, đã được tìm thấy tại Crète, trong khi đồ gốm Minos kiểu Kamares và những bình bằng bạc chịu ảnh hường của vùng Egée cũng đã được tìm thấy tại một ngôi đền gần Louxor.

Khoảng 1500 Tr. CN, Ai Cập thoát khỏi ách thống trị của người Hykos[1] và vượt ra khỏi tình trạng biệt lập xưa nay để trở thành một cường quốc nhờ những cuộc chinh phục quân sự nối tiếp nhau. Ai Cập chinh phục Phénicie và Syrie. Hạm đội của Ai Cập kiểm soát các hải cảng của Phénicie và có lẽ đã mở rộng ảnh hưởng của mình đến tận Đảo Síp. Sự có mặt của Ai Cập tạo ra một tình hình mới tại Địa Trung Hải. Người Egée thuộc thời kỳ Minos cuối cùng và người Mycénic ở vùng Hellade từ đó trở đi phải giao dịch trực tiếp với người Ai Cập để các tàu buôn của họ được vào các thị trường cổ truyền ở Paletstin và Syrie. Rất có thể là, người Crete và người Mycenie đã ký kết một thoả ước với vị Pharaon hùng mạnh Thoutmosis II (khoảng 1479 - 1125 Tr. CN). Trong ngôi mộ Tể tướng dưới thời Thoutmosis III là Rekhmiré tại khu mộ địa Thèbes có miêu tả các sứ giả Crète mang cống vật từ hòn đảo của họ đến. Văn bản Ai Cập miêu tả cảnh đó như sau: ''Các vương công từ Kaftiou và các hòn đảo ở giữa biển khơi tới nơi, dáng điệu quy phục và đầu cúi thấp trước uy quyền của Hoàng thượng Thoutmosis III”. Có mọi lý do để tin rằng ''những hòn đảo giữa biển'' đó là các đảo ở Đông bộ Địa Trung Hải và Thành phố Mycènes trong Quần đảo Péloponnèse.

Người Egée da nâu, đóng khố màu sắc sặc sỡ, tóc dài xoã xuống vai hoặc tết lại quấn quanh trán,  trở thành một hình ảnh quen thuộc đối với người Ai Cập. Người Ai Cập thường thấy họ qua các phố phường Thèbes đem đến cho Pharaon các tặng phẩm (mà người Ai Cập gọi là cống vật): những chiếc bình lớn trang trí và có hai quai hình súc vật hoặc những chiếc bình cao quai nhỏ, trang trí những môtíp hoa hoặc nường nét ngang nhiều màu sắc đến khoảng giữa thế kỷ XV Tr.CN, văn minh Crète suy tàn, có lẽ do những cuộc tranh chấp nội bộ. Do vậy, ta không lấy làm lạ là tên Kaffiou biến mất khỏi các nguồn Ai Cập từ cuối Thế kỷ đó trở đi. Ngược lại, ta vẫn thường gặp cách gọi ''các đảo giữa biển'' cho đến khi cách gọi này biến mất vào Thế kỷ XII Tr. CN. Thực vậy, các đợt người mọi rợ kế tiếp mà người Ai Cập gọi là ''dân biển'' tràn lên Bán đảo Péloponnèse và cướp phá đảo này. Đám quân đó vượt qua Anatohe (tại đó họ tiêu diệt đế chế Hittite) và Hy Lạp, tiến về Ai Cập qua đường bộ bằng cách vượt qua Syrie và qua đường biển tới các đảo ở Địa Trung Hải. Nhưng họ bị các Pharaon hùng mạnh như Ramèses II, Merenptah và Ra III đẩy lùi khiến cho Ai Cập tránh được một cuộc tàn phá ào ạt.

Vào đầu Thế kỷ VII Tr. CN, sự có mặt của người Hy Lạp tại Ai Cập trở nên rõ rệt do có những người lính đánh thuê phục vụ trong các đạo quân Ai Cập và những thương nhân lập ra các trạm buôn bán tại nhiều thành phố ở vùng Châu thổ. Các nhà triết học, sử học và địa lý Hy Lạp đi theo bước chân những người lính đánh thuê đó, choáng ngợp trước nền văn minh Ai Cập với các đền đài khổng lồ, những tín ngưỡng và tri thức của người Ai Cập. Nhà thiên văn học, triết học và toán học Hy Lạp Thalès de Milet có lẽ đã mang Ai Cập về vào cuối Thế kỷ VII Tr.CN, niên lịch theo hệ Mặt trời chia làm 365 ngày. Theo nhà sử học Herodore, Solon, người Athèrles (khoảng 640 - 560 Tr. CN), đã đến thăm Ai Cập vào thời Vua Amasis II thuộc triều đại thứ XVI ban hành một sắc lệnh quy đánh mọi người dân Ai Cập phải khai thu nhập của mình và nộp bản khai cho tỉnh trưởng của mình. Ai có những thu nhập bất chính sẽ bị xử tử hình. Solon đã cho áp dụng tại Athènes một đạo luật y hệt như vậy. Theo một nhà viết sử Hy Lạp khác là Diodore de Sicile thì Lycurgue vị Vua huyền thoại của Sparte, cũng như Platon đều dựa vào các đạo luật của Ai Cập.

Ảnh hưởng của Ai Cập cũng rõ rệt đối với nghệ thuật Hy Lạp thời mới ra đời. Hình tượng thanh niên Kouros độc đáo của nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp Cổ xưa, cũng bắt nguồn từ Ai Cập, chàng trai thân thẳng, cao dong dỏng, ở tư thế đứng, chân trái đưa lên trước, hai cánh tay áp sát vào thân, bàn tay nắm lại. Những pho thượng kiểu này không những mô tả phỏng dáng điệu của các nhân vật Ai Cập mà còn tôn trọng các quy tắc cổ truyền của nghệ thuật Ai Cập nhất là ''nguyên lý tỷ lệ” mà những người sáng tạo đã áp dụng từ hơn 2000 năm Tr. CN. Họ chia cơ thể làm 8 hình vuông bằng nhau, rồi từ thời kỳ Sai (Thủ đô Ai Cập ở Châu thổ Sông Nil dưới triều đại XXVI 664 - 525 Tr. CN) trở đi thì được chia làm 21 hình vuông khi mà đơn vị đo chiều dài là cubit được thay đổi. Diodore de Sicile kể lại rằng, ở Thế kỷ VI Tr. CN, Téléklès và Théodocus, hai nhà điêu khắc Hy Lạp nổi tiếng, đã xuất phát từ truyền thống đó để tạc pho tượng Appollon, chia cơ thể làm 21 1/4 hình vuông.

Qua nhiều Thế kỷ, người Hy Lạp ngày càng có nhiều mối liên quan với lịch sử Ai Cập. Năm 332 Tr. CN, Alexandros Đại đế chinh phục Ai Cập. Một triều đại Mecedoine là triều đại Lagiđe được thiết lập và cai trị đất nước này khoảng ba Thế kỷ. Từ đó, Ai Cập nằm trong thế giới Hy Lạp bao trùm cả Đông bộ Địa Trung Hải và Alexanđria. Thủ đô mới do người Hy Lạp lập ra, đã làm cho văn minh Hy Lạp lại được rạng rỡ hơn với các nhà văn, nhà địa lý, nhà viết sử, nhà kiến trúc và nhà thiên văn của nó.

Khi viên tướng La Mã Mare Antoine, đồng minh của Cléopâtre VII thua trận tại Actium vào năm 31 Tr.CN, Ai Cập trở thành một tỉnh của đế quốc La Mã. Nó được coi là vựa thóc của La Mã, Ai Cập góp phần vào việc tiếp tế cho quân đội La Mã trong các cuộc chinh phạt lớn.

Về mặt tôn giáo, việc thờ cúng Isis và Osiris (tức Serapis vị Thần mà Plolémée đã đưa vào Ai Cập) và con trai họ là Horus Harpocrates được thực hành rộng rãi trong thế giới Hy Lạp La Mã. Truyền thuyết Osiris nơi linh hồn con người sống tiếp đời sau trong một thế giới tốt đẹp hơn là rất gần gũi với mong mỏi của dân chúng, vì nó hứa hẹn sự cứu rỗi cho tất cả mọi người - đó là một quan niệm không có trong việc thờ cúng chính thức các vị Thần Hy Lạp và La Mã.

Đối với người Hy Lạp, Isis là hiện thân của số phận, bởi vì nữ Thần này có thể thoát khỏi sự khống chế của các Thần khiến nữ Thần có một quyền lực tuyệt đối Việc thờ cúng nữ Thần này tại La Mã đã cạnh tranh với tôn giáo La Mã và việc cúng Hoàng đế Hơn nữa, Thần tam vị Sinh báo trước sự tồn tại của Chúa ba ngôi trong Thiên chúa giáo. Trước khi Thiên chúa giáo ra đời, việc thờ cúng Thần Isis đã có một tầm quan trọng, không kém gì việc thờ Đức mẹ đồng trinh sau này.

Thế giới còn chịu ơn những người Ai Cập Cổ đại về hai phát minh là niên lich và chữ cái.

Cũng như các dân tộc khác, ban đầu người Ai Cập đặt ra một niên lịch chia thời gian thành năm Âm lịch, mỗi năm có 354 ngày. Nhưng ít lâu sau, họ thấy rằng lịch đó không đủ chính xác và không thích hợp với tổ chức của bộ máy hành chính rất phức tạp của họ, vì vậy họ chỉ dùng Âm lịch để kỷ niệm một số sự kiện tôn giáo. Đến khoảng thiên niên kỷ thứ III Tr. CN, họ phát minh ra Dương lịch gồm 365 ngày, chia làm 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, đến cuối năm bổ sung thêm 5 ngày gọi là ngày epagomène. Người Ai Cập biết rằng, năm của họ ngắn hơn sáu giờ so với năm tính theo Mặt trời (365 ngày 114); nhưng trong một thời gian dài, họ không làm gì để sửa chữa sự chênh lệch đó. Mãi đến dưới triều Lagede thì bốn năm một lần cộng thêm một ngày vào năm chính thức để phù hợp với năm Mặt trời. Lịch đó được Jules César dùng và áp dụng tại La Mã bắt đầu từ năm 45 Tr. CN. Lịch này của César được sử dụng tại Châu Âu và phương Tây cho đến cuối Thế kỷ XVI thì Giáo hoàng Gregoire XIII bổ sung một sửa đổi nhỏ và nó trở thành lịch Gregoire, phổ biến khắp thế giới.

Ngay từ cuối thiên niên kỷ thứ IV Tr. CN, người Ai Cập đã phát minh ra một hệ thống chữ viết dùng những ký hiệu tượng hình, tức là dùng những hình ảnh chứ không phải chữ. Những hình ảnh được chọn dùng không phải vì ý nghĩa của chúng mà chỉ vì những âm thanh mà chúng biểu tượng. Cố nhiên các chữ cái của Châu Âu ngày nay bắt nguồn từ các chữ cái Hy Lạp - La Mã mà các chữ cái này lại trực tiếp sinh ra từ chữ cái Phénicie. Nhưng hệ chữ viết nào đã ảnh hưởng đến người Phénicie? Những văn bản Sémitique cổ xưa nhất mà ta được biết đến ngày nay, có từ Thế kỷ XV Tr. CN. Những văn bản này được phát hiện tại vùng Sinai và chứa những từ ngữ Sémitique ghi bằng những ký hiệu giống loại chữ tượng hình. Có nhiều khả năng là loạt chữ viết Sémitique này dựa trên chữ tượng hình, dùng một hệ thống âm thanh ghi thành hình; rồi qua nhiều Thế kỷ, nó đã phát triển thành chữ cái Phénicie trong đó mỗi âm thanh được ghi lại bằng một chữ duy nhất. Như vậy chữ cái, một trong những thành tựu lớn nhất của trí tuệ loài người, bắt nguồn từ Ai Cập.

GIÁO SƯ GABALLA ALY GABALLA[2]




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/145-02-633385815967968750/Nguoc-dong-lich-su-nen-van-minh-song-Nil/N...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận