HÓA HỌC THỰC HÀNH Ở AI CẬP CỔ
Khoảng 2800 năm Tr.CN, trị vì đất nước Ai Cập là Hoàng đế Khuphu theo lời khuyên các giáo sĩ nói rằng: ''Cuộc sống trần gian ngắn ngủi tạm thời, cung đình chẳng qua là quán trọ còn lăng mộ mới chính là ngôi nhà vĩnh cửu của bậc Đế vương''. Thế là các Pharaon quyết định dốc mọi của cải Quốc gia vào việc xây dựng phần mộ của mình sao cho thật vĩ đại vượt hẳn lăng mộ của các vị Hoàng đế khác. Họ đã xây dựng các khu Kim Tự Tháp để đặt xác Pharaon cùng với những thứ đồ dùng cho Hoàng đế sau khi chết. Người Ai Cập tin rằng, khi chết linh hồn sẽ rồi khỏi thể xác; nhưng nếu giữ lại được thể xác thì linh hồn lại trở về và người chết sẽ sống lại. Vì vậy, các Pharaon khi chết đều được ướp xác, một tục lệ phức tạp và tốn nhiều công sức.
Thoạt tiên, người ta vùi xác vào ''narton'' (xút thiên nhiên, vốn có sẵn ở Ai Cập) trong vài tuần rồi người thợ mổ xác lấy hết gan, ruột, mỡ và moi hết não ra. Sau khi rửa kỹ xác bằng nước thơm, người ta cho các thứ hương liệu, nhét vỏ quế, vỏ hồi vào bụng để sát trùng và khâu lại. Xác được gói trong tấm vải dài hàng trăm mét, mặt được trang trí bằng gelenit (khoáng chất chì), pyrôluzit, oxyt đồng, các chất màu khoáng vật và thực vật. . . Trên mặt Pharaon phủ một chiếc mặt nạ bằng đồng, còn trên nắp quan tài thì khắc hình Pharaon để sau này linh hồn Hoàng để trở lại dễ dàng, nhận ra xác của mình . . .
Nghệ thuật ướp xác là một bằng chứng nói lên trình độ cao của nghề thủ công hoá học tại Ai Cập Cổ xưa. Ngày nay ở viện Bảo tàng Cairo, người ta còn giữ lại được xác ướp của hơn 30 vị Pharaon.
Cùng với nghệ thuật ướp xác, người Ai Cập đã nắm vững cách chế biến những hương liệu từ thảo mộc, phương pháp ép dầu, cách sử dụng các hoá chất tự nhiên như Na2CO3, các chất màu khoáng vật như son , ôxyt sắt minium (PB3O4) cancôzit . . .
Người Ai Cập Cổ cũng đã có nhiều tiến bộ trong ngành được học. Họ đã biết dùng các loại thảo mộc để làm để làm thuốc, biết chế thuốc cao, dầu thơm trang sức, nhiều hương liệu từ thảo mộc, phương pháp ép dầu, cách sử dụng các hoá chất tự nhiên, khảo cổ cho thấy người Ai Cập Cổ đã biết đến các phương pháp lọc, bay hơi, lên men . . .
Các Kim Tự Tháp ở Ai Cập được xây dựng với trình độ kỹ thuật tuyệt vời: chỉ cần ghép các tảng đá khổng lồ có mộng ăn khít với nhau mà không cần đến chất kết dính. Tuy nhiên như vậy không có nghĩa là người Ai Cập không biết đến các chất kết dính, ngược lại họ đã rất quen thuộc với thạch cao, bitum . . .
Các kim loại đã được biết đến ở Ai Cập từ rất sớm. Sau thời đại đồ đá là thời đại các công cụ kim loại bằng đồng, đồng thau, sắt. . . Một trong những kim loại được biết đến đầu tiên là vàng. Người ta đã tìm thấy nhiều vũ khí và đồ trang sức bằng vàng trong các lăng mộ thuộc cuối thiên niên kỷ thứ V, đầu thiên niên kỷ thứ IV Tr. CN. Vào thời kỳ Trung Vương quốc (2160-1788 Tr.CN), người Ai Cập cổ phát triển khai thác các mỏ vàng ở Nubia phía Nam Ai Cập. Các phép phân tích hoá học cho thấy, vàng ở Ai Cập thời kỳ này có chứa một lượng khá lớn bạc (tới 18%) và các loại kim loại khác. Đến Thế kỷ VI Tr.CN mới có những vật bằng vàng gần như nguyên chất (99,8%).
Một chuyện lý thú là các nhà khảo cổ học đã tìm thấy một tấm đất sét có khắc chữ hình nêm, đó là bức thư của Hoàng đế Babylone Buanaburiasa (sống vào năm 1385- 1361 Tr.CN) gửi cho Pharaon Ai Cập Ekhơnatôn phàn nàn về chất lượng vàng mà Hoàng đế Ai Cập gửi đến: ''khoảng 20 min vàng đưa vào lò lấy ra chưa được 5 min vàng nguyên chất”. Điều này chứng tỏ người Ai Cập đã thạo cách làm vàng giả bằng những hợp kim giống vàng.
Bạc được biết muộn hơn vàng, ở Ai Cập cổ, bạc được gọi là ''vàng trắng”. Các đồ vật bằng bạc phát hiện được thuộc thời kỳ Cổ vương quốc (2980 - 2475 Tr. CN) và đến thời kỳ Tân Vương quốc, người ta đã sử dụng bạc khá nguyên chất.
Đồng được biết đến vào thời đại đồ đá mới. Thời kỳ Tân Vương quốc (3400 - 2980 Tr.CN) người Ai Cập đã khai quặng Biruza (hay calait) để nấu đồng. Sau này người ta dùng cả các loại quặng Cácbonát, malachite để nấu đồng. Đồng thau xuất hiện ở Ai Cập vào thời kỳ Cổ Vương quốc với thành phần thiếc nằm trong khoảng 2-16%, ngoài ra còn có kẽm và các tạp chất khác.
Sắt có lẽ là một trong những kim loại đầu tiên mà con người tiền sử biết đến, nhưng lúc đầu người ta chỉ mới biết đến sắt thiên thạch (ở Ai Cập sắt được biết đến vào khoảng thiên niên kỷ thứ IV Tr. CN) và được gia công bằng phương pháp mài dũa. Còn cách nấu sắt từ quặng và rèn sắt (gia công nóng) thì sau này mới được biết đến. Thực ra, sở dĩ thuật chế luyện đồng không phải là do hợp chất sắt khó khử hơn hợp chất đồng; mà là do việc gia công sắt nguội khó hơn gia công đồng rất nhiều vì sắt cứng hơn. Mãi sau này khi biết cách gia công sắt nóng đỏ thì kỹ thuật đồ sắt mới được phát triển mạnh. Khoảng 1000 năm Tr.CN, Ai Cập đã bước vào thời đại đồ sắt (biết chế sắt từ quặng), và đến khoảng 600 năm Tr.CN thì dụng cụ sắt đã được gặp nhiều hơn dụng cụ đồng thau.
Thuỷ ngân được tìm thấy trong những lọ nhỏ có niên đại vào khoảng các Thế kỷ XV - XVI Tr.CN.
Đồ gốm và thuỷ tinh xuất hiện ở Ai Cập từ rất sớm. Những di vật gốm thuộc loại di vật có niên đại cổ nhất. Đồ sành xuất hiện vào thiên niên kỷ thứ II Tr. CN. Đồ sành ở Ai Cập Cổ cấu tạo từ đất sét, sa thạch, thạch anh và có thành phần khác với đồ sành thông thường ngày nay. Người Ai Cập Cổ đã biết cách tráng men lên sành, trong thành phần của men có chứa xút, pôtát hay silicát canxi với một số chất phụ gia để tạo màu. Muốn có màu xanh, người ta thêm hợp chất đồng, muốn có màu xanh lam người ta thêm khoáng chất có chứa bạc gọi là lapit, một chất màu chở từ Châu Á sang.
Lịch sử thuỷ tinh bắt đầu ở Ai Cập rất sớm, một trong những vật thuỷ tinh cổ nhất đã được tìm thấy là chuỗi hạt trên cổ xác ướp của Hoàng hậu Khátsepxút sống cách đây 3500 năm. Trên mỗi hạt thuỷ tinh màu xanh đó đều có khắc tên Hoàng hậu bằng chữ tượng hình. Ở một ngôi mộ khác gần Thành phố Phiva, người ta tìm được một hạt thuỷ tinh còn cổ hơn nhiều; đó là hạt thuỷ tinh không trong suốt, màu xanh lá cây, có niên đại cách đây 5500 năm.
Thời Thượng Cổ, người Ai Cập chưa biết đến giấy viết. Muốn ghi chép điều gì, người ta khắc chữ tượng hình lên các phiến đá vôi hoặc vạch chữ lên các tấm đất sét rồi phơi khô hoặc nung; hoặc vạch lên các lớp sáp phủ trên mặt tấm gỗ. Sau đó có cải tiến hơn, họ đã dùng mực để viết lên da bò rồi tiến lên bước nữa, chế tạo một loại giấy độc đáo, sau này nổi tiếng trong lịch sử gọi là “papyrus”. Thứ giấy này đặc biệt phổ biến vào thời kỳ Trung vương quốc. Để chế tạo giấy papyrus người ta dùng cây papyrus, một loại cây họ cỏ, thân ba cạnh mọc nhiều ở lưu vực Sông Nil. Người ta cắt cây papyrus thành từng đoạn, xếp thành các lớp chéo lên nhau, dùi lỗ buộc lại rồi phủ vải lên. Sau đó sấy khô, cán cho phẳng và miết nhẵn. Bằng cách như vậy, người ta chế tạo thành những tấm rộng 30-40 -cm, dài tới 40m. Khi viết, người ta dùng que nhọn là các chất mực màu đen hay màu đỏ. Ngày nay, một số viện bảo tàng còn giữ lại được một số cuộn giấy papyrus có giá trị như ở Lâyđen (Hà Lan), Stockholm (Thụy Điển)...
Nghề thủ công hoá học cùng với nhiều ngành khoa học khác (toán học, thiên văn. . . ) của Ai Cập đã phát triển rất rực rỡ góp phần tạo ra nền văn minh nổi tiếng của đất nước này và còn tiếp tục phát triển cho đến những Thế kỷ đầu công nguyên trong thời kỳ Ai Cập thuộc Hy Lạp.
Đặc biệt là cũng chính ở khu vực Châu thổ Sông Nil này đã xuất hiện mầm mống đầu tiên của thứ “nghệ thuật bí mật thiêng liêng” nhằm biến đổi các kim loại không quý thành vàng, chế tạo ngọc giả, chế thuốc trường sinh. . . Những con đường lát đá thênh thang với những bức tượng nhân sư hùng dũng hai bên dẫn thẳng vào cửa các nhà thờ lớn Osiris và Isis, sau khi đi qua vòm cửa lớn, qua sân rộng thênh thang, tiến vào lâu đài đầy những cột hình cuống sen cao ngất là thâm cung linh thiêng thờ tượng Thần đúc bằng hợp kim electrum (hợp kim và vàng bạc). Đây là nơi chỉ có các vị giáo chủ, những người được phép biết các ''bí mật của trời đất và kiếp sau'' mới có quyền bước vào; và chính trong không khí huyền ảo của căn phòng này, các giáo sĩ miệt mài thực hiện những thí nghiệm nhằm tìm kiếm các phép thần diệu biến đổi các kim loại thành vàng, chế thuốc trường sinh . . . Những ghi chép của họ dưới hình thức Thần bí đôi khi lọt ra ngoài và đã có tác dụng kích thích các thế hệ Bác học của nước Hy Lạp Cổ sau này tiếp tục tìm kiếm vô ích với một quy mô rộng lớn hơn nhiều.
Những thành tựu của các nghề thủ công hoá học cũng như ''nghệ thuật bí mật thiêng liêng'' của Ai Cập đã có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển khoa học- kỹ thuật của các dân tộc ở khu vực Địa Trung Hải sau này qua các nhà bác học và thợ thủ công cổ Hy Lạp.
HOÀNG ĐIỆP
(Khảo cứu, sưu tầm, biên soạn)
