Tài liệu: Các ngành thủ công hóa học ở vùng Lưỡng Hà

Tài liệu
Các ngành thủ công hóa học ở vùng Lưỡng Hà

Nội dung

CÁC NGÀNH THỦ CÔNG

HÓA HỌC Ở VÙNG LƯỠNG HÀ

 

Gần như cùng thời với nền văn minh Cổ Ai Cập ở vùng Lưỡng Hà lưu vực của hai con sông Tigre và Euphrate (Trung Đông), cũng có những dân tộc đạt tới một trình độ văn minh rực rỡ còn để nhiều di tích lớn tới ngày nay.

Vào giữa Thế kỷ XIX, nhà du lịch Anh Leyard (Lây a) khi đào bới những gò đất ở gần một làng nhỏ trên tả ngạn Sông Tigre (Tigrơ) đã phát hiện ra những đống tro tàn vùi sâu trong lòng đất, đó là tàn lích lâu đài của Vua Assoubanibal, một vị Hoàng đế của quốc gia chiếm hữu nô lệ Assyrie trị vì trong tháng năm 669 - 633 Tr.CN. Trong lâu đài này, người ta đã tìm thấy 30 nghìn tấm bảng đất sét thỏ trên mặt có khắc ký hiệu hình nêm tức là thứ văn tự cổ của người Assyrie. Đó là kho sách trong thư viện của vị Hoàng đế thông thái và trọng hiểu biết. Ông đã ra lệnh thu thập mọi loại tài liệu ở các nơi về tập trung vào lâu đài của mình. Nội dung kho sách rất phong phú: đó là các sách về ngữ pháp, những biên niên sử, hiệp ước, các báo cáo xét xử tại tòa án, tình hình các lân bang, sách y học, văn học, danh mục thực vật, động vật, khoáng vật . . .

Trong số những tấm bảng đất sét này, có nhiều tấm mô tả cách chế tạo các chất khác nhau và có, 3 tấm nót về cách sản xuất thủy tinh.

Cũng như ở Ai Cập cổ, ở vùng Lưỡng Hà do chuyên môn hóa sản xuất đã có tác dụng đẩy mạnh sự phát triển các nghề thủ công như luyện kim, dệt, nhuộm, thủy tinh, gốm, y dược,…

Ở vùng Lưỡng Hà, ngành luyện kim phát triển rất sớm và đạt tới trình độ cao. Người ta đã phát hiện thấy những đồ vật bằng vàng thuộc thời kỳ văn hóa Sumer (Thế kỷ IV - IIITr.CN). Trong mộ của các vị Hoàng đế ở Ur (miền Nam Mesopotamie), người ta đã tìm thấy một lượng lớn các đồ trang sức bằng vàng, trong đó có nhiều sợi chỉ vàng mỏng manh dệt thành tấm. Việc khai thác và chế luyện vang ở Mesopotamle đạt tới trình độ cao vào Thiên niên kỷ thứ II Tr.CN. Ở vùng Ur, người ta cũng đã phát hiện thấy nhiều đồ vật bằng bạc.

Đồng thau được dùng phổ biến ở Lưỡng Hà (vùng Ur) vào đầu Thiên niên kỷ thứ II Tr.CN. Loại đồng thau này chứa Cu, Sn, Pb, Sb, Fe. Vào giai đoạn đế quốc Assrie (cuối Thiên niên kỷ thứ II, đầu Thiên niên kỷ thứ I Tr.CN) đồng thau có chứa 1 – 14 % thiếc. Đồng thau ở Babylone[1]có chứa 20% thiếc. Thời đại sắt ở Mesopotamie xuất hiện sớm hơn ở Ai Cập một chút: vào khoảng năm 1200 Tr.CN. Ngoài sắt mềm, người ta đã chế tạo cả sắt xêmentit hóa và thép.

Chì và thiếc đã được biết từ sớm, vào Thiên niên kỷ thứ III Tr.CN, ở vùng Ur người ta đã dùng chì để đúc tượng. Thủy ngân cũng xuất hiện sớm ở đây, các thiếu nữ Babylone từ thuở xưa đã được trang điểm trước những tấm gương làm bằng đồng mài nhẵn có phủ một lớp thủy ngân. Antimoan kim loại và đồng thau chứa Antimoan được biết ở Mesopolamie từ thời văn hóa Sumer và văn hóa Akkad (khoảng Thiên niên kỷ thứ III Tr.CN).

Đồ gốm Lưỡng Hà sớm đạt tới trình độ cao. Những công trình xây dựng tại Babylone và Ninive thường được trang hoàng bằng gạch men trang trí bọc ngoài; gạch men được làm như sau: viên gạch thường sau khi nung nóng nhẹ thì đem vẽ hình bằng sợi thủy tinh màu đen, sau đó phủ một lớp men rồi nung lần thứ hai. Khi đó men nóng chảy biến thành một chất như thủy tinh bám chặt vào mặt viên gạch.

Đồ sành xuất hiện ở Lưỡng Hà vào khoảng Thiên niên kỷ thứ II Tr.CN. Thủy tinh cũng được sớm sản xuất ở đây. Một câu chuyện do Plini ghi lại trong bộ Bách khoa toàn thư cho biết, người phát minh ra cách nấu thủy tinh là những lái buôn và thủy thủ Phénicie trong một lần vô tình dùng những tảng xút (Na2CO3) làm bếp đun. Câu chuyện không có đủ cơ sở khoa học, nhưng có thể nó chứa đựng một sự thực nào đó về vai trò của những người lái buôn Phénicie trong việc truyền bá kỹ thuật nấu thủy tinh.

Quanh những tuyến công sự, ở bên phải là dòng Sông Euphrate chậm rãi uốn khúc quanh co, theo dòng sông là những chiếc thuyền tròn làm bằng da thuộc lao nhanh như những quả bóng khổng lồ. Một vài thuyền cập bến, các thủy thủ Arménia cao lớn vác từng vò đất sét nung đựng đầy rượu nho chở từ  xứ Arménia xa xôi đến.

Cổng thành với 2 tấm cánh cửa bằng đồng lấp lánh dưới vòm cổng uốn cong dựa vào những tháp hình chữ nhật có lát gạch tráng men nhiều màu sắc. Trên mặt tháp màu xanh thẫm, đắp những bức phù điêu vẽ bò và các con vật thần thoại.

Từ xa đi đến, du khách nhìn thấy khu vườn tươi tốt như treo lơ lửng trong không gian, đó là những ''vườn treo'' nổi tiếng, một trong bảy kỳ quan của Thế giới Cổ đại. Trên những vòm gạch gương như mỏm núi có phủ một lớp đất màu mỡ, trồng cây và hoa. Suốt ngày này sang ngày khác, những người nô lệ nặng nhọc quay bánh xe kéo nước lên tưới cho cây.

Lâu đài của Hoàng đế được xây dựng trên quảng trường gạch rộng lớn, cao hơn hẳn vùng chung quanh. Năm chiếc sân lớn nối liền từ Đông sang Tây. Mặt trước phòng chính của lâu đài được trang trí hết sức lộng lẫy, lát gạch men, trên nền xanh là hình những cây cọ, cây sen. Mặt trước là hàng cột trang trí màu vàng với những nếp cuốn màu xanh da trời ở đỉnh.

Lâu đài không có cửa sổ, ánh sáng lọt qua 3 cửa lớn vào phòng. Từ lâu đài nhìn thấy sừng sững chiếc tháp 7 tầng cao tới 90 mét. Đó là một trong những ngôi nhà cao nhất thời đó. Nhìn từ xa tưởng như một chiếc thang khổng lồ dẫn thẳng lên trời, càng lên cao càng hẹp lại, màu sắc trang hoàng rực rỡ: trắng xám, đen , đỏ, xanh, nâu, bạc và tầng cao nhất là mạ vàng. Trên mái thấp lấp lánh những chiếc sừng bằng vàng. Bên cạnh tháp là nhà thờ thần Mardouk, vị thần chính của Babylone, nơi Hoàng đế thường tế lễ và dâng chiến lợi phẩm sau mỗi cuộc chiến chinh thắng lợi; và xa hơn là chợ, nơi mua bán, trao đổi các thứ hàng hóa. Người Babylone chưa biết dùng tiền mà lấy bạc làm vật trung gian trao đổi. Một chiếc áo màu sặc sở đáng giá một xíc (tương đương với 8 gam) bạc, 1 con lạc đà - 10 xíc, một nữ tù binh trẻ đẹp - 5 xíc.




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/148-02-633385838252968750/Nen-van-minh-Tay-A/Cac-nganh-thu-cong-hoa-...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận