QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NỀN VĂN MINH
Trong hai Thế kỷ V-IV Tr. CN, công cụ sản xuất bằng sắt trở nên thông dụng; các công trình thuỷ lại đơn giản được xây dựng, phân bón được dùng đã khiến nền kinh tế nông nghiệp ở La Mã có bước phát triển. Thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng có tiến bộ. Song, kinh tế tự nhiên vẫn chiếm ưu thế. Trong quá trình mở rộng lãnh thổ của mình, La Mã đã khai thác những thuận lại nhiều mặt để phát triển kinh tế. Từ Thế kỷ III-II Tr. CN, nông nghiệp có biến đổi về cơ cấu. Ruộng đất được tập trung vào tay chủ nô đã dẫn tới sự xuất hiện các trang viên lớn và vừa. Giữa các trang viên đều thiết lập các quan hệ kinh tế hàng hoá với việc hình thành trang viên, bọn chủ nô La Mã tổ chức bóc lột nô lệ trên quy mô rộng lớn, vượt xa các quốc gia chiếm hữu nô lệ trước đó. Thủ công nghiệp chủ yếu tập trung vào các ngành luyện kim, chế tạo công cụ sảnxuất, da, dệt, chế biến rượu nho và dầu liu. .. Ngoại thương phát triển mạnh, đặc biệt là sau khiLa Mã chiếm Địa Trung Hải. Tiền tệ lưu thông rộng rãi. Nền văn minh La Mã ngày càng phát triển và gắn liền với sự củng cố của Nhà nước và thể chế chính trị của nó.
Ban đầu, thể chế cộng hoà được thiết lập với sự hoàn chỉnh dần về cơ cấu cho tới Thế kỷ III Tr.CN. Sự xuất hiện của bộ Luật La Mã là một bước tiến lớn, đánh dấu sự ra đời của Nhà nước pháp quyền. Theo luật này, mọi công dân đều có quyền tham gia vào đời sống chính trị, tập trung qua 3 đại hội: đại hội bào tộc, đại hội Sansni (theo đơn vị quân đội), đại hội công dân (theo khu vực). Viện Nguyên Lão bao gồm các quý tộc giàu sang, có thế lực. Số lượng thành viên từ 300-600 (cuối thời cộng hoà La Mã lên tới 900). Chức quan quan trọng nhất là 2 Chấp chính. Tăng lữ cao cấp cũng có vai trò quan trọng.
Sau khi đối phó với những đợt xâm nhập của người Goles từ phía Tây Châu Âu (Thế kỷ IV Tr. CN), La Mã dồn sức chiếm vùng Trung Italia giàu có và chiếm dần các thành phố La tinh rồi sau đó tiếp tục chiếm Nam Italia. Bán đảo Italia nằm trọn trong tay La Mã (275 Tr.CN).
Từ Thế kỷ III đến Thế kỷ I Tr. CN, La Mã gây chiến tranh để bành trướng lãnh thổ. Trước tiên là gây chiến tranh Puniques (Punic) lần thứ nhất và lần thứ hai (264 - 146 Tr. CN) và chiếm vùng Tây Địa Trung Hải.
Sau đó La Mã tiếp tục chiếm vùng Đông Địa Trung Hải. Đến năm 146 Tr. CN, hầu hết đất đai Hy Lạp bị La Mã thống trị.
Đồng thời với việc chiếm Địa Trung Hải, La Mã cũng lần lượt chiếm vùng Tiểu Á, Syrie, Phénicie, Palestine và Ai Cập.
La Mã trở thành đế quốc hùng mạnh và rộng lớn.
Ách thống trị của La Mã với nô lệ và các dân tộc đã làm bùng nổ nhiều cuộc khởi nghĩa. Từ Thế kỷ II Tr. CN đến Thế kỷ I Tr. CN nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra. Tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa của nô lệ và dân nghèo do Spartacus lãnh đạo (kéo dài từ 73-71 Tr.CN).
Sau khi ổn định đế quốc, các phe phái chủ nô hình thành và bắt đầu cuộc đấu tranh giành giật quyền lợi. Cuối cùng, phe của Caesar (Xêda) đã thắng. Nền cộng hoà La Mã bị thủ tiêu. Chế độ độc tài do Caesar thiết lập tồn tại không lâu. Khi César chết, các thế lực chính trị La Mã tranh chấp gây các cuộc chiến tương tàn liên miên. Năm 30 Tr.CN, chế độ quân chủ của Octave (Ôctavơ) được thiết lập.
Trong Thế kỷ I và II, đế quốc La Mã mở rộng lãnh thổ và phát triển mạnh. Nền văn minh La Mã đạt tới mức cực thịnh.
Các thành thị trong Đế quốc La Mã phát triển sầm uất và thêm nhiều thành thị mới ra đời. Những thành thị này trở thành trung tâm kinh tế, chính trị và văn hoá của Châu Âu sau này. Nhiều thành phố mới ra đời tập trung ở vùng Sông Rhin, Danube, Xứ Gaule,… ở Londinium (London), Lucdunum (Lion), Colonia Agripa (Cologne), Aryantoratum (Strasburg), Vindobona (Vienna). . .
Nhưng từ Thế kỷ I, sự khủng hoảng của Đế quốc La Mã bắt đầu. Cho tới Thế kỷ IV, nhiều bộ lạc bên ngoài tới xâm nhập. Đế quốc La Mã chia hai, năm 476, Đế quốc Tây La Mã diệt vong, Đế quốc Đông La Mã (gọi là đế quốc Byzance) bị phong kiến hoá và mãi tới 1453 mới bị diệt vong.