Tài liệu: Hoa Kỳ - Tuyên ngôn độc lập

Tài liệu

Tóm tắt nội dung

Bản Tuyên ngôn Độc lập được thông qua ở Đại hội Lục địa Lần Thứ hai, có một sự thay đổi cơ bản về quan điểm đối với chính quyền. Thomas Jefferson đã tuyên bố rằng chính
Hoa Kỳ - Tuyên ngôn độc lập

Nội dung

Tuyên ngôn độc lập

Bản Tuyên ngôn Độc lập được thông qua ở Đại hội Lục địa Lần Thứ hai, có một sự thay đổi cơ bản về quan điểm đối với chính quyền. Thomas Jefferson đã tuyên bố rằng chính quyền được lập ra là để phục vụ cho nhân dân, và chỉ có thể hành động theo ý nguyện của nhân dân. Bản tuyên ngôn này đã hình thành nên một chính quyền dân chủ.

Đại hội đã tổ chức Hội nghị Virginia vào tháng 5 năm 1776 Richard Henry Leo đã công bố giải pháp để các thuộc địa trở thành các bang tự do và độc lập. Đại hội cũng cử ra một ủy ban để soạn thảo bản tuyên ngôn độc lập chính thức. Trong ủy ban này bao gồm Thomas Jefferson, Ben Franklin, John Adams, Robert Livingston và Roger Sherman. Sau đó ủy ban đã cử Thomas Jefferson viết bản dự thảo đầu tiên.

Ngày 2 tháng 7 năm 1776, các thành viên của Đại hội đã biểu quyết ủng hộ việc giành độc lập. Ngày 4 tháng 7 Đại hội đã thông qua Bản Tuyên ngôn Độc lập. John Hancock, chủ tọa của Đại hội và Charles Thomson, thư ký, đã ký vào văn kiện này. Ngày 4 tháng 7 năm 1776 được chính thức coi như ngày khai sinh của nước Mỹ.

Bản tuyên ngôn này bao gồm hai phần. Phần đầu mô tả quyền hạn của người dân và khẳng định rằng “tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng” và có quyền mưu cầu “cuộc sống, tự do và hạnh phúc” . Phần thứ hai tuyên bố sự độc lập đối với nước Anh, và liệt kê những vấn đề đối kháng với chính quyền Anh Quốc.

NHỮNG TRẬN ĐÁNH TRONG CUỘC CÁCH MẠNG MỸ

Nước Anh có dân số gấp 3 lần nước Mỹ, và giàu hơn rất nhiều. Người Anh cũng có một quân đội mạnh với lực lượng hải quân hùng hậu. Vào đầu cuộc cách mạng, quân Mỹ được huấn luyện rất sơ sài và có rất ít kinh nghiệm chiến đấu. Hơn nữa không phải tất cả mọi người Mỹ đều ủng hộ cho cuộc nổi dậy. Thuận lợi của người Mỹ là họ chiến đấu ngay trên đất của họ và có một số kinh nghiệm chiến trận ở vùng hoang dã với những người thổ dân bản xứ. Và điều quan trọng nữa là George Washington tỏ ra là một người lãnh đạo xuất sắc.

Có nhiều trận đánh đã diễn ra khắp các thuộc địa phía Nam và phía Bắc. Để tự bảo vệ mình, những thuộc địa này biết rằng họ phải hành động như một quốc gia thống nhất để có thể sống còn. Cuộc chiến đã đem các thuộc địa đến cùng một mục tiêu chung là bảo vệ đất đai của họ và quyền tự do của họ.

ĐỒNG MINH PHÁP

Mặc dù thành công trong trận đánh ở Saratoga, tướng Washington vẫn có những khó khăn trong việc điều khiển các bang cung cấp con người và quân nhu cần thiết cho quân đội. Ông cần sự giúp đỡ.

Sau trận Saratoga, Đại hội đã quyết định tìm sự hỗ trợ của Pháp. Họ đã cử Benjamin Franklin, người biết nói tiếng Pháp, đến gặp vua Louis XVI và ngoại trưởng Pháp. Nước Pháp muốn trả thù cho sự thất bại trong cuộc chiến Pháp và Ấn Độ trước kia. Tháng 2 năm 1778, Pháp và Mỹ ký một hiệp ước đưa Pháp vào cuộc chiến với người Anh. Hiệp ước này cũng là văn kiện đầu tiên chính thức công nhận Mỹ như một quốc gia độc lập.

Một năm sau quân Tây Ban Nha cũng gia nhập vào khối đồng minh này. Nước Anh lúc này buộc phải bảo vệ chính lãnh thổ của họ trước những cuộc tấn công có thể xảy ra của người Pháp và người Tây Ban Nha.

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/2253-02-633495531456875000/Lich-su/Tuyen-ngon-doc-lap.htm


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận