NA UY (NOWAY) - CON ĐƯỜNG THÔNG ĐẾN PHÍA BẮC
1. Nguồn gốc tên gọi
Na uy có tên đầy đủ là “Vương quốc Na Uy”, nằm ở Bắc Âu phía tây bán đảo Scandinavian. Tên Na Uy xuất hiện từ thế kỷ IX, do từ Norreweg chuyển thành, mang nghĩa “con đường thông đến phía bắc” hay “đường thủy phương bắc”.
Bấy giờ đường thủy đến bán đảo Seandinavian gồm ba đường: phía đông thông qua biển Baltic, phía tây thông qua Bắc Hải, từ phía bắc xuống men theo bán đảo. Con đường phía bắc theo một dải ven biển gọi là “vùng Norreweg”, do lấy từ tiếng German, “Norre” mang nghĩa “phương bắc” và “weg” là “con đường hợp thành”. Trong tiếng Anh, con đường là “way”, từ đó đọc thành “Norway”. Người Na Uy gọi là “Norge” mang tên nước chính thức của mình. “Na Uy” là dịch âm Hán Việt.
Năm 900, vua Hulfage thống nhất Na Uy. Năm 1379, Na Uy, Đan Mạch, Thụy Điển, ba nước thành lập Liên minh Kalmar do Đan Mạch đứng đầu. Ngày 17 tháng 5 năm 1814, thông qua Hiến pháp qui định Na Uy là nước quân chủ lập hiến, định ngày này là Quốc khánh. Năm 1905 độc lập, thành lập “Vương quốc Na Uy”.
2. Quốc kỳ - quốc huy
· Quốc kỳ
Hình chữ nhật. Nền cờ màu đỏ, trên mặt lá cờ có chữ thập màu lam và trắng. Na Uy là nước quân chủ lập hiến cha truyền con nối. Năm 1397, Na Uy cùng với Đan Mạch, Thụy Điển trở thành liên minh Kalmar và bị Đan Mạch thống trị. Lai lịch của chữ thập trên quốc kỳ giống với lai lịch chữ thập trên quốc kỳ Đan Mạch. Năm 1821, Na Uy chế định lá cờ thương thuyền, giống với quốc kỳ ngày nay. Năm 1905, giành độc lập, quy định lá cờ thương thuyền là quốc kỳ.
· Quốc huy
Hình tấm lá chắn. Trên nền đỏ có một con sư tử vàng đứng thẳng, chân trước của sư tử cầm rìu bạc cán vàng, đầu đội mũ vàng. Phía trên tấm lá chắn là một chiếc mũ miện hay màu đỏ và vàng, trên vương miện có nạm hạt màu vàng, phía trên hạt đó là một chữ thập. Hình quốc huy có thể truy nguyên về năm 1200, khi đó trên mặt tấm lá chắn của quốc huy chỉ là một con sư tử vàng. Khoảng năm 1280, thêm vào chiếc rìu mà Olaf dùng để chiến đấu, đồng thời trên đầu sư tử đứng thẳng có vẽ một chiếc mũ vàng. Con sư tử vàng tượng trưng cho sức mạnh trên quốc huy Na Uy đã có lịch sử hơn 700 năm.
3. Quốc ca
· Đúng, chúng ta yêu Tổ quốc, yêu ngôi nhà của ngàn vạn con người, núi xanh cao vút tầng mây, dưới chân biển Bắc tràn hoa sóng; nồng nàn yêu Tổ quốc, nghĩ đến tiền nhân cho ta cuộc sống, nghĩ đến những truyền thuyết xa xưa, đêm đến làm ra giấc mơ. Nghĩ đến tiền nhân cho ta cuộc sống, nghĩ đến những truyền thuyết xa xưa, đêm đêm đến làm ra giấc mơ.
· Người Scandinavia dù bạn ở đâu, trong đen tối, nhờ vào thần lực, hóa dữ thành lành, người mẹ đẫm nước mắt đi tìm, bậc cha chú đi đánh trận. Thần linh đã sắp đặt, sẽ có ngày chủ quyền trở lại. Thần linh đã sắp đặt, sẽ có ngày chủ quyền trở lại.
· Đúng, chúng ta yêu Tổ quốc, yêu ngôi nhà của ngàn vạn con người đó, núi xanh cao vút tầng mây, dưới chân ta biển Bắc tràn hoa sóng, tiền nhân đã tạo ra của cải cho Tổ quốc, mang lại vinh quang cho Tổ quốc, chúng ta nghe tiếng kêu gọi của Tổ quốc, lập tức ra chiến trường. Chúng ta nghe tiếng kêu gọi của Tổ quốc, lập tức ra chiến trường.
Con cháu của Na Uy cổ xưa quang vinh, hãy gảy đàn hạc, hát lên bài ca ngày lễ. Nào, hãy cùng nhiệt tình ngợi ca đất nước, tiếng ca vui say bay vút trời xanh. Ánh sáng lịch sử chiếu rọi chúng ta, công tích và sự nghiệp của người đi trước phải ghi lòng tạc dạ. Tiếng ca trang nghiêm mà lảnh lót khơi dậy trong lòng, mây hồng tỏa rạng mặt người.
· Dù cuồng phong thổi tắt ngọn lửa thiêng liêng, nhưng nhiệt huyết của người Na Uy vẫn tràn đầy lồng ngực. Khích lệ tinh thần, lòng đầy kiên định, mãi mãi tự do, mãi mãi giữ gìn niềm vinh dự. Khúc hát quang vinh vút tận trời xanh, tiếng ca lảnh lót khơi dậy niềm tự hào. Tiếng cười sướng vui làm say đắm lòng người, ngân vang khắp Tổ quốc tuyết trắng như bông.
· Giương cao lá cờ tự do, để nó phất phới bay trên bầu trời phương Bắc. Tự do nói và tự do nghĩ, tự do cống hiến cho Tổ quốc. Biển rộng trời cao, cá chim mặc sức vẫy vùng. Người Na Uy tự do ai sánh được? Tôn trọng công cộng, tuân thủ pháp luật, giữ mình trong sạch, người người trung với nước, với vua.