Tài liệu: Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử

Tài liệu
Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử

Nội dung

QUỐC HIỆU VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ

 

Việt Nam, tên gọi Tổ quốc ta hiện nay là kết quả của hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Trước khi trở về Thủ đô Hà Nội năm 1954, sau cuộc kháng chiến trường kỳ chóng thực dân Pháp, Bác Hồ đã nói một câu nổi tiếng và đầy xúc động ở Đền Hùng:

Các vua Hùng đã có công dựng nước,

Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.

Thời kỳ Hùng Vương dựng nước diễn ra như thế nào, đó là vấn đề mà ngành lịch sử và khảo cổ còn đang tiếp tục nghiên cứu. Sử chép rằng, Tổ quốc ta lúc này có tên là Văn Lang.

Văn có nghĩa là học vấn, được dùng trong các từ kép văn hoá, văn minh, văn hiến, . . . còn Lang là tên chỉ người thủ lĩnh, người đứng đầu một bộ tộc miền núi, nơi xuất phát của nước Việt Nam ta ngày xưa. Các tài liệu cho rằng thời kỳ Hùng Vương, gắn với truyền thuyết Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, Bánh chưng bánh dày, Sự tích trầu cau, đã tồn tại cách đây ba, bốn nghìn năm.

An Dương Vương thể Hùng Vương

Quốc danh Âu Lạc cầm quyền trị dân

(Bác Hồ, Diễn ca lịch sử)

Nguồn gốc dân tộc Việt Nam vẫn còn là một vấn đề nghiên cứu, nhưng chắc chắn có liên quan đến nguồn gốc về các bộ tộc Bách Việt, trong số này có hai bộ tộc Việt ở phương Nam là Ưu Việt và Lạc Việt đã hợp nhất thành Âu Lạc. Nước Âu Lạc gắn với An Dương Vương xây Loa Thành mà ngày nay vẫn còn di tích ở Huyện Đông Anh, ngoại Thành Hà Nội.

Nước Âu Lạc chấm dứt với chuyện Mỵ Châu - Trọng Thuỷ. Đất nước bị sáp nhập vào nước Nam Việt của Triệu Đà. Đây là một thời kỳ đã có sử liệu chắc chắn. Đó là vào Thế kỷ II Tr.CN.

Tiếp đó, đất nước ta ở vào thời kỳ Bắc thuộc gần 1000 năm.

Trong thời kỳ này đã có những cuộc khởi nghĩa nổi tiếng của Hai Bà Trưng và Bà Triệu.

Thời kỳ Bắc thuộc đó kéo dài đến năm 542 khi có cuộc khởi nghĩa của Lý Bí, đánh đuổi quân nhà Lương, dựng nền độc lập. Năm 544, đặt tên nước là Vạn Xuân xưng Vương là Lý Nam Đế.

Nhưng Nhà nước Vạn Xuân tồn tại không lâu lắm, sau đó lại bị phương Bắc xâm lấn. Trong gần năm trăm năm tiếp theo, có các cuộc khởi nghĩa của Mai Hắc Đế (722) và Bố Cái Đại Vương tức Phùng Hưng (761 - 802). Sự đô hộ của phương Bắc chấm dứt với chiến thắng Sông Bạch Đằng nổi tiếng của Ngô Quyền (938). Từ đó, đất nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập sau gần 1000 năm bị xâm lược, đô hộ. Lúc này, đất nước ta vẫn giữ quốc hiệu Vạn Xuân.

Sau khi Ngô Quyền mất, nước ta có loạn 12 sứ quân. Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước, lên ngôi Hoàng đế là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt (năm 968) và đóng đô ở Hoa Lư, Ninh Bình.

Tiếp đó là thời kỳ Tiền Lê với chiến thắng quân xâm lược nhà Tống lần thứ nhất năm 981 của Lê Hoàn.

Năm 1010, Lý Công Uẩn thay nhà Lê, lập ra nhà Lý và dời đô về Thăng Long, tức Thủ đô Hà Nội ngày nay. Năm 2010, chúng ta sẽ kỷ niệm 1000 năm lịch sử Thủ đô Hà Nội.

Năm 1054, nước ta đổi tên là Đại Việt.

Vào năm này, có một hiện tượng thiên văn khá đặc biệt, trên trời xuất hiện một ngôi sao sáng chói nhiều ngày mới tắt. Đó là lần đầu tiên một ngôi sao siêu mới (Supernovae) được thiên văn học ghi  nhận.

Quốc hiệu Đại Việt được giữ qua các triều Trần, hậu Lê về sau này. Thời Trần bị gián đoạn 7 năm bởi nhà Hồ (1400 - 1407) với quốc hiệu Đại Ngu[1] (sự yên vui lớn) rồi lại trở về với tên gọi Đại Việt.

Bắt đầu từ năm 1804, nước ta có quốc hiệu chính thức là Việt Nam.

Mặc dù vậy, hai chữ Việt Nam, tên gọi đất nước ta hiện nay có nguồn gốc xuất hiện rất đặc biệt. Như đã nói, dân tộc ta bắt nguồn lừ một bộ tộc Việt Trong toàn bộ lịch sử, ta luôn dùng từ Việt để chỉ dân tộc ta và đất nước ta.

Song ông cha ta cũng dùng từ Nam để chỉ đất nước ta và dân tộc ta. Bài thơ nổi tiếng gắn liền với sự kiện lịch sử vang dội của vị Thái úy Lý Thường Kiệt dọc trên phòng tuyến Sông Như Nguyệt vào thời điểm chống quân nhà Tống, viết:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

(sông núi nước Nam, Vua Nam ở)

(Từ Nam ở đây được dùng với nghĩa phương Nam, để đối lại với Bắc. Nhà y học nổi tiếng của nước ta là Tuệ Tĩnh[2] (Thế kỷ XVIII), viết bộ sách thuốc về cây cỏ nước ta lấy tên là Nam dược thần hiệu). Ngày nay, ta vẫn nói thuốc Nam, thuốc Bắc.

Thế nhưng, bắt đầu từ bao giờ thì hai tiếng Việt Nam mới đi chung với nhau để chỉ tên gọi đất nước ta?

Theo L.ịch triều hiên chương loại chí của Phan Huy Chú (Thế kỷ XIX) thì ngay từ thời nhà Trần đã có một bộ sách mang tên Vệt Nam thế chí do Hồ Tông Thốc biên soạn (Hồ Tông Thốc là Trạng nguyên đời Trần, về hưu vào thời Hồ khi đã 80 tuổi).

Cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trái (Thế kỷ XV), cũng nhiều lần nhắc đến hai chữ Việt Nam.

Rất tiếc rằng sách Vệt Nam thế chí hiện không còn, chỉ còn bài tựa được dẫn trong Lịch triều hiến chương loại chí và cuốn sách này cũng như cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi chỉ được khắc ván đem in vào Thế kỷ XIX khi đã có quốc hiệu Việt Nam rồi, do vậy đây mới chỉ là những tài liệu tham khảo.

Hai chữ Việt Nam được coi là xuất hiện chắc chắn trong các tác phẩm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585). Ngay trang mở đầu của tập Sấm Ký mang tên Trình Tiên sinh quốc ngữ đã có câu:

Việt Nam khởi tổ xây nền

Hai chữ Việt Nam còn được Nguyễn Bỉnh Khiêm nhắc tới trong tập thơ mang tên Việt Nam sơn hà hải cương thưởng vịnh (Vịnh về non sông đất nước Việt Nam), và trong hai bài thơ chữ Hán gửi hai ông Trạng đương thời tà Trạng Nguyễn Thuyến và Giáp Hải.

Điều quan trọng hơn cả là hai chữ Việt Nam đã có mặt trong hàng loạt các tấm bia cổ từ thời Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dưới đây tà một số tấm bia cổ có liên quan đến hai chữ Việt Nam (do tác giả bài viết này - Nguyễn Phúc Giác Hải tập hợp và phát hiện):

Bia Chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Hưng

Bia Chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Tây

Bia Chùa Phước Thánh (1664) Hà Bắc

Bia Thuỷ Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn

Trong một số các bia nói trên, bia Thuỷ Môn Đình, mặc dù có niên đại muộn hơn nhưng lại là tấm bia quan trọng nhất. Tấm bia này nằm ở biên giới Đồng Đăng, mang tính hành chính do Đô Tổng Binh, Bắc quân Đô đốc xứ Lạng, Thao Quận công Nguyễn Đình Lộc soạn, với những câu mở đầu bài minh viết:

Việt Nam hầu thiệt

Trấn Bắc ải quan

(Đây là cửa ngõ, yết hầu của nước Việt Nam và là ải quan trấn giữ phương Bắc).

Sau chúng tôi, một số các nhà nghiên cứu khác đã phát hiện và bổ sung thêm các tấm bia trước 1804 có hai chữ Việt Nam, nâng tổng số bia này lên hơn một chục tấm. Đó là những bằng chứng hết sức chắc chắn cho sự có mặt của tên gọi Việt Nam trước Thế kỷ XIX.

Tên gọt Việt Nam cũng thấy xuất hiện trong hàng loạt các bia và ván khắc mới tìm thấy. Đặc biệt là học giả Ngô Thị Nhậm (cận thần của Quang Trung), trong cuốn Xuân Thu quản kiếm đã tự nhận mình là người Việt Nam khi ông ký tên ''Việt Nam hậu học Hy Doãn Ngô Thì Nhậm''.

Có thể nói, đây là lần đầu tiên chúng ta tìm thấy hai chữ Việt Nam được dùng để chỉ Quốc tịch (Nationality) chứ không phải chỉ Quốc danh (coun-try name).

Như vậy hai chữ Việt Nam đã có từ lâu đời chứ không phải đợi đến năm 1804 (dưới thời nhà Nguyễn) mới có.

Mặc dù vậy, hai chữ Việt Nam được chính thức trở thành quốc hiệu nước ta từ năm 1804, không chỉ ở quan hệ trong nước mà còn cả trong quan hệ bang giao[3].

Thế nhưng sau đó, nhà Nguyễn lại từ bỏ Quốc hiệu Việt Nam mà đổi thành Đại Nam, với các bộ sách Đại Nam thực lục chính biên, Đại Nam nhất thống chí...Chỉ mãi tới sau Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn độc lập 2-9-1945, hai chữ Việt Nam mới chính thức và mãi mãi trở thành tên gọi đất nước ta như hiện nay. Từ ấy, hai chữ Việt Nam trở thành niềm tự hào thiêng liêng của mỗi chúng ta và đến với các dân tộc toàn Thế giới như một biểu tượng của tinh thần đấu tranh anh dũng và bất khuất. Tất cả những người Việt, dù có đi đến bất cứ nơi nào, cũng sẽ không bao giờ quên hai tiếng Việt Nam[4] mà lịch sử đã lựa chọn để dành cho Tổ quốc ta hiện nay.

Ở đây chúng tôi xin phân biệt thêm hai khái niệm Quốc danh Quốc hiệu, tức tên gọi đất nước về mặt hành chính (official name hay national name).

Các tài liệu lịch sử (Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục...) khi nói về các tên gọi Văn Lang, Âu Lạc, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt,... đều dùng từ Quốc hiệu. Đó là tên gọi chính thức của đất nước. Còn bình thường, các học giả ngày xưa vẫn thường viết ''Ngã Việt quốc, ngã Nam nhân''(nước Việt ta, người Nam ta). Tên gọi Việt Nam với tư cách là một Quốc hiệu chỉ chính thức bắt đầu từ năm 1804, trong chiếu đổi tên nước năm Giáp Tý nhà Nguyễn (Gia Long): ''Phàm công việc của nước ta việc gì quan hệ đến Quốc  hiệu và thư từ báo cáo với nức ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quên xưng tên hiệu cũ An Nam nữ''. (Đại Nam thực lục chính biên, Đệ nhất kỷ). Tuy nhiên, như đã chứng minh qua các tấm bia cổ và các thư tịch cổ, hai chữ Việt Nam cũng đã được ông cha ta sử dụng làm tên gọi đất nước từ lâu đời. Mặc dù vậy, hai chữ Việt Nam ở đây mới chỉ là Quốc danh , mà chưa phải là Quốc hiệu, và cũng mới chỉ được dùng có giới hạn.

Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, tên gọi Việt Nam được chính thức dùng để chỉ tên gọi đất nước, với nghĩa Quốc danh (Country name). Hiến pháp 1946 viết: ''Nước Việt Nam là một nước theo chế độ Dân chủ Cộng hoà''. Như vậy, đến lúc này cụm từ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới chính thức là Quốc hiệu (national name)[5], tức Quốc danh cộng Với thể chế.

Năm 1976, để thể hiện sự thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, Quốc hội nước ta đã đổi Quốc hiệu là Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam(The Republi Socialist of Vietnam). Thể chế của Nhà nước sẽ có thể còn thay đổi tiếp tục về quốc hiệu, nhưng một chân lý đặc biệt là ''Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó quyết không có gì thay đổi được, (Lời Bác Hồ).

NHÀ NGHIÊN CÚU NGUYỄN PHÚC GIÁC HẢI

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/138-02-633384305636747500/Quoc-hieu-Viet-Nam-qua-cac-thoi-ky-lich-su...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận