Tài liệu: Thế thứ thời Bắc thuộc

Tài liệu
Thế thứ thời Bắc thuộc

Nội dung

THẾ THỨ THỜI BẮC THUỘC

(179 trước công nguyên đến 905)

I. TIỂU DẪN

1. Trước hết, chúng tôi coi năm 179 trước công nguyên là năm mở đầu và năm 905 là năm kết thúc của thời kì Bắc thuộc. Trong khoảng thời gian hơn một ngàn năm đó cũng có lúc nhân dân ta đã giành được độc lập, nhưng đó chỉ là nền độc lập rất yếu ớt và tạm thời, cho nên, toàn bộ khung thời gian từ năm 179 trước công nguyên  đến năm 905 đều thuộc về thời Bắc thuộc.

2. Xét chính quyền đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Quốc, chúng tôi thấy có sự khác biệt giữa danh nghĩa và thực chất. Về danh nghĩa, mỗi quan đô hộ đều nhận phẩm tước của một triều đại cụ thể nào đấy, nhưng về thực chất, có những quan đô hộ làm việc cho hai triều đại khác nhau, lại cũng có những quan đô hộ âm thầm xây dựng cho mình cả một hệ thống chính quyền cát cứ riêng. Nhiều nhà nghiên cứu gọi đó là lực li tâm chính trị. Bởi thực tế đó, bảng thế thứ thời Bắc thuộc chỉ có một ý nghĩ rất tương đối mà thôi.

3. Về danh mục các quan đô hộ của các triều, sử cũ chép không rõ ràng, đó là chưa nói có sự sai biệt lẫn nhau. Có những quan tiếng là đô hộ toàn cõi nước ta nhưng thực thì  họ chưa từng tới nước ta. Có những quan, tiếng là đô hộ trong một phạm vi một quận, nhưng thực thì quyền hành của họ gần như toả rộng khắp toàn cõi. Trước tình hình đó, chúng tôi chép ra đây tất cả những quan đô hộ nào được sử cũ nhắc tới, không phân biệt đó là thứ sử hay là thái thú. 

4. Sách này trình bày thế thứ các triều vua Việt Nam, do vậy, phần thế thứ thời Bắc thuộc, chúng tôi trình bày lướt qua, cốt để cung cấp một ý niệm ban đầu hơn là cung cấp những tư liêu lịch sử đầy đủ về thời Bắc thuộc.

II. THẾ THỨ CHÍNH QUYỀN ĐÔ HỘ CỦA NAM VIỆT

Năm 208 trước công nguyên, nhân nhà Tần sụp đổ, một tên tướng trong đạo quân nam chinh của nhà Tần là Triệu Đà đã chiếm cứ vùng Lĩnh Nam (Trung Quốc) và lập ra nước Nam Việt. Ngay khi vừa mới lên ngôi, Triệu Đà đã nhiều lần xua quân sang tấn công xâm lược Âu Lạc. Nhưng, tất cả những cuộc tấn công đó đều bị quân đội của An Dương Vương đẩy lùi. Sau Triệu Đà dùng kế hôn nhân, cho con trai là Trọng Thuỷ lấy con gái của An Dương Vương là Mị Châu và cho Trọng Thuỷ ở rể tại Âu Lạc. Từ đó, An Dương Vương mất cảnh giác rốt cuộc, bị Triệu Đà bất ngờ đánh bại và cướp nước kể từ năm 179 trước công nguyên.

1 - Triệu Vũ Đế (208 đến 137 trước công nguyên)

- Họ, tên: Triệu Đà 

- Nguyên quán: Chân Định (Hà Bắc, Trung Quốc)

- Thống trị nước ta 42 năm (từ năm 179 đến năm 137 trước công nguyên)

- Mất năm Giáp Thìn (137 trước công nguyên), thọ 120 tuổi (Tuổi thọ của Triệu Đà đáng nghi ngờ, nhưng hiện tại chúng ta còn chưa có tài liệu đáng tin cậy nào để kiểm tra lại).

- Không thấy sử chép việc Triệu Đà đặt niên hiệu  

2 - Triệu Văn Vương (136 đến 125 trước công nguyên)

- Họ, tên: Triệu Hồ (con của Trọng Thuỷ, cháu nội của Triệu Đà)

-Lên ngôi năm Ất Tị (136 đến 125 trước công nguyên)

- Ở ngôi (và thống trị nước ta) 11 năm, từ năm 136 đến năm 125 trước công nguyên

Mất năm Bính Thìn (125 trước công nguyên), thọ 51 tuổi.

- Không thấy sử chép việc Triệu Hồ đặt niên hiệu.

3. Triệu Minh Vương (124 đến 133 trước công nguyên)

- Họ, tên: Triệu Anh Tề (con trai trưởng của Triệu Hồ).

- Ở ngôi (và thống trị nước ta) 11 năm, từ năm 124 đèn 113 trước công nguyên.

- Mất năm Mậu Thìn (113 trước công nguyên  )

- Không thấy sử chép việc Triệu Anh Tề đặt niên hiệu

4. Triệu Ai Vương (112 trước công nguyên)

- Họ, tên: Triệu Hưng (con thứ của Triệu Anh Tề)

- Ở ngôi (và thống trị nước ta) năm Kỉ Tị (112 trước công nguyên)

- Chết vì bị quan tể tướng là Lữ Gia giết.

5. Triệu Dương Vương (111 trước công nguyên)

- Họ, tên: Triệu Kiến Đức (con trưởng của Triệu Anh Tề, anh của Triệu Hưng, mẹ là người Việt nhưng không rõ họ tên).

- Ở ngôi, (và thống trị nước ta) năm Canh Ngọ ( 111 trước công nguyên).

- Bị nhà Hán đánh đổ năm 111 trước công nguyên, sau sống chết thế nào không rõ.

- Không thấy sử chép việc Triệu Kiến Đức đặt niên hiệu.

III. THẾ THỨ CHÍNH QUYỀN ĐÔ HỘ THỜI LƯỠNG HÁN

1 - Vài nét về lãnh thổ và dân cư của nước nhà thời bị nhà Hán đô hộ.

Thời cổ đại, Trung Quốc có đến hai triều Hán khác nhau. Một là Tiền Hán (hay Tây Hán), khởi đầu là Lưu Bang (Hán Cao Tổ) tồn tại từ năm 206 trước công nguyên đến năm thừ 8 sau công nguyên. Hai là Hậu Hán (hay Đông Hán), Khởi đầu là Lưu Tú (Hán Quang Võ) tồn tại từ năm thứ 25 đến năm 220 sau công nguyên. Giữa hai triều Tây và Đông Hán là triều Tân (từ năm thứ 8 đến năm thứ 25 sau công nguyên). Do dấu ấn của nhà Tân rất mờ nhạt, các nhà nghiên cứu thường gọi chung toàn bộ khoảng thời gian lịch sử từ năm 208 trước công nguyên đến  năm 220 sau công nguyên là thời lưỡng Hán.

Nội thân lịch sử Trung Quốc thời lưỡng Hán có rất nhiều biến cố lớn nhỏ khác nhau, nhưng đối với nước ta, mưu đồ chung của chủ nghĩa bành trướng đại Hán vẫn không hề thay đổi.

Tây Hán cũng như Đông Hán đều coi nước ta tà một bộ phận lãnh thổ của Trung Quốc và chia nước ta làm ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Sau đây là vài con số về dân cư của nước ta theo thống kê của sử sách Trung Quốc.

Dân số nước ta thời Tây Hán (theo Tiền Hán thư) và thời Đông Hán (theo Hậu Hán thư) cũng đã được thống kê nhưng tất nhiên là không đầy đủ, bởi lẽ chính quyền đô hộ phải tiến hành điều tra dân số trong điều kiện nhân dân ta liên tục nổi dậy đấu tranh dưới nhiều hình thức và qui mô  khác nhau.

Có lẽ vào đầu công nguyên, dân số nước ta áng chừng hơn một triệu người.

2. Danh sách quan đô hộ của Trung Quốc ở nước ta thời lưỡng Hán

Ba bộ sử cổ nhất của nước ta có chép danh sách quan đô hộ của Trung Quốc ở nước ta là An Nam chí lược (quyển 7), Đại Việt sử lược (quyển 1) và Đại Việt sử kí toàn thư (ngoại kí, quyển 3, 4 và 5). Trong ba bộ sử nói trên, An Nam chí lược là bộ ghi chép nhiều hơn cả. Dưới đây là danh sách tổng  hợp từ ba bộ sử nói trên:

01 - Thạch Đới

02 - Chu Chương

03 - Ngụy Lãng 24

04 - Đặng Huân

05 - Ích Cư Xương

06 - Đặng Nhượng      

07 - Tích Quang

08 - Nhân Diên           

09 - Tô Định

10 - Mã Viện  

11 - Lý Thiện

12 - Trương Khôi

13 - Hộ Cống

14 - Phàn Diễn

15 - Trương Kiều

16 - Chúc Lương

17- Chu Xưởng

18 - Hạ Phương

19 - Dương Phò

20 - Ngô Thức

21 - Ngụy Lãng (?)      

22- Chúc Điềm

23 - Cát Kỳ

24- Đinh Cung

25 - Ngu Thiều

26 - Lưu Tháo

27- Chu Ngang

28 - Chu Tuấn

29- Giả Tông

30- Chu Thặng

31 - Kiến Lan

32 - Lại Tiên

33 - Hoàng Cái

34 - Đam Mành

35 - Chu Phủ

36- Trương Tấn

37 - Lại Cung

38 - Ky Vô Lạp

39 - Chu Trị

40 - Sỹ Nhiếp

41 - Sỹ H uy

42 - Trần Thời

 

Trong danh sách 42 quan đô hộ nói trên, có Ngụy Lãng thấy chép hai lần, trước sau cách nhau gần hai trăm năm, có thể là do tình cờ trùng tên chăng? Rất tiếc là sử Trung Quốc chép việc này cũng rất tản mạn, khó kiểm chứng một cách chính xác. Cũng cần nói thêm rằng, danh sách trên vừa có cả thứ sử lẫn thái thú. Thứ sử là chức trông coi cả ba quận danh tuy lớn mà quyền lực thực tế lại không bao nhiêu. Ngược lại, thái thú là quan coi một quận nhưng quyền hành rất lớn, đôi khi còn vượt ra khỏi phạm vi của quận. Ngoài ra, cũng có quan đô hộ tiếng là được sang cai trị nước ta, nhưng ít nhiều lý do khác nhau, chúng chưa hề đặt chân lên đất nước ta. Một tần nữa, chúng tôi xin được lưu ý rằng, danh sách này chỉ có ý nghĩa hết sức tương đối mà thôi.

IV. THẾ THỨ CHÍNH QUYỀN ĐÔ HỘ CỦA PHONG KIẾN TRUNG QUỐC THỜI THUỘC NGÔ

1 - Nhà Ngô thay nhà Hán thống trị nước ta. Cuối thế kỷ thứ II, nhà Đông Hán sụp đổ, Trung Quốc bước vào thời kì hỗn chiến rất tương tàn, sử gọi đó là thời Tam Quốc. Trong thời hỗn chiến Tam Quốc (Ngô, Thục và Ngụy nhà Ngô thống trị nước ta. Nhà Ngô đổi gọi nước ta là Giao Châu và trên danh nghĩa, chính quyền đô hộ của nhà Ngô kéo dài từ năm 220 đến năm 280.

Theo quy luật tăng trưởng tự nhiên, dân số của nước ta thời thuộc Ngô đông hơn thời thuộc Hán, nhưng đó chỉ là suy luận. Tài liệu quan trọng nhất viết về thời thuộc Ngô là Tam Quốc Chí, phần Ngô Chí của Trần Thọ (Trung Quốc). Tiếc thay, ghi chép của Trần Thọ về vấn đề này rất tản mạn và không rõ ràng, nên chúng tôi chưa thể nắm được dân số cụ thể của nước ta thời thuộc Ngô.

2 - Danh sách quan đô hộ thời thuộc Ngô.

01 - Đới Lương

02 - Bộ Chất

03 - Lữ Đại

04 - Tiết Tông

05 - Lục Dận (tức Lục Doãn)

06 - Đặng Tuân

07 - Lữ Hưng

08 - Ngô Hưng

09 - Hoắc Dặc

10 - Mã Dung

11 - Tôn Tư

12 - Trần Tập

13 - Ngu Phiếm

14 - Cốc Lãng

15 - Ky Vô Hậu

16 - Tu Tắc (tức Dương Tắc)

 

17 - Lưu Tuấn

18- Hấn Tông

19 - Mao Quýnh

20 - Đồng Nguyên

21 - Soán Cốc

22 - Mạnh Cán

23 - Đào Hoàng

24 - Ngô Ngạn

25 - Cổ Bí

26 - Cố Sâm

27 - Cố Thọ

28 - Đào Oai

29 - Đào Thục

30 - Đào Tuy

31 - Đào Khản

 

 

Trong danh sách 31 người nói trên có hai dòng họ nối nhau làm quan đô hộ, đó là họ Cố và họ Đào. Danh nghĩa, họ là quan của nhà Ngô, nhưng thực chất, họ là những người đã âm thầm xây dựng cơ đồ cát cứ riêng.

V. THẾ THỨ CHÍNH QUYỀN ĐÔ HỘ CỦA PHONG KIẾN TRUNG QUỐC THỜI THUỘC TẤN.

1 - Nhà Tấn thay nhà Ngô thống trị nước ta

Cuối thế kỷ thứ III, nhà Tấn thống nhất được Trung Quốc và thay nhà Ngô thống trị nước. Cũng giống như nhà Ngô, nhà Tấn gọi nước ta là Giao Châu.

Theo Tấn thư, đặt Giao Châu thời thuộc Tấn có tất cả 25.600 hộ. Tấn thư chỉ ghi số hộ chứ không ghi số người, và theo chúng tôi con số nói trên có lẽ còn nhỏ hơn nhiều so với số hộ thực tế.

Trên danh nghĩa, nhà Tấn thống trị nước ta từ năm 280 đến năm 420.

2 - Danh sách quan đô hộ của phong kiến Trung Quốc thời thuộc Tấn

01 - Vương Đôn

02 - Vương Cơ

03 - Lương Thạc

04 - Vương Lượng

05 - Biện Triền

06 - Chử Đào.

07 - Trương Liễn

08 - Nguyễn Phóng

09 - Hạ Hầu Lãm

10 - Chu Phiên

11 - Dương Bình

 

12 - Nguyễn Phu

13 - Ôn Phóng Chi

14 - Đỗ Bảo

15 - Đằng Hàm

16 - Cát Hồng

17 - Lý Tốn

18 - Phó Vĩnh

19 - Đỗ Viện

20 - Đỗ Tuệ Độ

21 - Đỗ Hoành Văn

22 - Đằng Tốn

 

 

VI. THẾ THỨ CHÍNH QUYỀN ĐÔ HỘ CỦA PHONG KIẾN TRUNG QUỐC THỜI THUỘC NAM TRIỀU

1. Nam Triều thay thế nhà Tấn thống trị nước ta.

Đầu thế kỉ thứ V, Trung Quốc lại bị loạn lạc. Một cục diện cát cứ nguy hiểm mới đã xuất hiện, sử gọi đó là thời Nam Bắc Triều. Thời này, Nam Triều thống trị nước ta. Trên danh nghĩa, Nam Triều (gồm Tống Tề, Lương và Trần) tồn tại từ năm 420 đến năm 589. Tuy nhiên, đó chỉ là danh nghĩa, và ở nước ta, quyền thống trị của Nam Triều đã bị xoá bỏ kể từ năm 542 bởi thắng lợi của cuộc khởi nghĩa do Lý Bôn lãnh đạo. Các sách của Trung Quốc như Tống thư Nam Tề thư... đều có chép về dân số nước ta thời thuộc Nam Triều, nhưng tài liệu tản mạn và không đầy đủ, bởi vậy, chúng tôi không giới thiệu ở đây.

2. Danh sách quan đô hộ của Trung Quốc thời thuộc Nam Triều

01 - Vương Huy Chi

02 - Lưu Nghĩa Khang

03 - Nguyễn Di Chi

04 - Lưu Mục

05 - Lưu Bột

06 - Lý Trường Nhân

07 - Lý Thúc Hiến

08 - Thẩm Hoán

09 - Nguyễn Phiên

10 -Trương Mục Chi

11 - Đàm Hoà Chi

12 - Hoàn Hoằng

13 - Phòng Pháp Thừa

 

14 - Phục Đăng Chi

15 - Lưu Khảo

16 - Lý Nguyên Khải

17 - Lý Tắc

18 - Vương Nhiếp

19 - Tiên Tư

20 - Dương Phiêu

21 - Trần Bá Tiên

22 - Lưu Phương

23 - Âu Dương Bột

24 - Dương Tấu

25 - Dương Hưu Phố

 

VII. THẾ THỨ CHÍNH QUYỀN ĐÔ HỘ CỦA PHONG KIẾN TRUNG QUỐC THỜI THUỘC TUỲ VÀ ĐƯỜNG

1 - Vài nét về đất nước thời thuộc Tuỳ và Đường.

Năm 589 nhà Tuỳ thống nhất được Trung Quốc, chấm dứt thời kỳ hỗn chiến Nam Bắc Triều. Mười ba năm sau (năm 602), nhà Tuỳ cho quân sang xâm lược Nước ta. Cuộc kháng chiến chống quân Tuỳ do Lý Phật Tử lãnh đạo nhanh chóng bị thất bại. Nhà Tuỳ thống trị nước ta kể từ đó. Theo thống kê của Tuỳ thư, dân số nước ta thời thuộc Tuỳ (từ năm  602 đến năm 618) như sau:

- Quận Giao Chỉ: 30.056 hộ

- Quận Cửu Chân: 16.135 hộ

- Quận Nhật Nam: 9.915 hộ

Cộng:                      56. 106 hộ

Từ con số trên, chúng ta có thể ước tính rằng dân số nước ta thời thuộc Tuỳ khoảng gần hai triệu rưỡi. Cũng có thể, đó là con số còn ít hơn thực tế.

Năm 618, nhà Đường lật đổ nhà Tuỳ, thay nhà Tùy thống trị cả Trung Quốc và nước ta. Năm 678, nhà Đường lập ra An Nam đô hộ phủ. Sử Trung Quốc quen gọi ta là An Nam kể từ đó. Thời Đường nước ta 12 châu ở vùng đồng bằng và trung  du, 41 châu ki mi (châu ràng buộc lỏng lẻo) ở vùng rừng núi. Đường thư có nói đến dân số nước ta nhưng tư liệu vừa tản mạn, vừa không nhất quán nên chúng tôi không giới thiệu ở đây.

Nhà Đường thống trị nước ta từ năm 618 đến năm 905

2. Danh sách quan lại đô hộ của Trung Quốc thời thuộc Tuỳ và Đường.

01 - Lý (không rõ tên)

02 - Khâu Hoà

03 - Lý Đại Lượng

04 - Lý Thọ

05 - Lư Tổ Thượng

06 - Lý Đạo Hưng

07 - Lý Đạo Ngạn

08 - Lý Giám

09 - Liễu Sở Hiền

10 - Đỗ Chính Luận

11 - Đậu Đức Minh

12 - Ninh Đạt

13 - Chử Toại Lương

14 - Sài Triết Uy

15 - Lang Dư Khánh

16 - Lưu Diên Hựu

17 - Khúc Lãm

18 - Trương Thuận

19 - Trương Bá Nghi

20 - Lưu Hựu

21 - Quang Sở Khách

22- Tống Chi Đễ

23 - Đỗ Minh Cử

24 - Hà Lý Quang

25 - Trương Khiêm

26 - Khang Khiêm

27 - Triều Hoành

28 - Phụ Lương Giao

29 - Cao Chính Bình

30 - Trương Ứng

31 - Triệu Xương

32 - Bùi Thái

 

33 - Trương Châu

34 - Mã Tổng

35 - Triệu Quân

36 - Lý Tượng Cổ

37 - Lý Nguyên Hỷ

38 - Lý Nguyên Gia

39 - Quế Trọng Vũ 

40 - Bùi Hành Lập

41 - Lý Nguyên Thiện

42 - Hàn Ước

43 - Mã Thực

44 - Vũ Hồn

45 - Bùi Nguyên Hựu

46 - Điền Tảo

47 - Vương Thức

48 - Thôi Cảnh

49 - Điền Tài Hựu

50 - Chu Nhai

51 - Lý Trác

52 - Lý Hộ

53 - Vương Khoan

54 - Sái Tập

55 - Sái Kinh

56 - Tống Nhung

57 - Cao Biền

58 - Cao Tầm

59 - Tầng Cổn

60 - Trương Nhẫn

61 - Kính Ngạn Tông

62 - Thôi Lập Tín

63 - Chu Toàn Dục

            64 - Độc Cô Tổn

Trong danh sách kê trên có Triều Hoành là người Nhật Bản

VIII. THẾ THỨ CÁC CHÍNH QUYỀN TỰ CHỦ ĐƯỢC THÀNH LẬP TRONG CÁC CUỘC KHỞI NGHĨA CHỐNG BẮC THUỘC

Từ năm 179 trước công nguyên đến năm 905 sau công nguyên, trong số những dòng phát triển khác nhau của lịch sử, có hai dòng đó là Bắc thuộc và chống Bắc thuộc. Dòng Bắc thuộc được thể hiện rõ nét nhất qua việc thiết lập và không ngừng củng cố hệ thống chính quyền đô hộ ngoại bang. Ngược lại, dòng chống Bắc thuộc được thể hiện tập trung nhất qua hàng loạt những cuộc công phá chính quyền đô hộ ngoại bang, nhằm thiết lập hệ thống chính quyền độc lập và tự chủ. Sau hơn một ngàn năm đối đầu không khoan nhượng, cuối cùng, dòng thứ hai - dòng chống Bắc thuộc - đã thắng.

Thắng lợi của dòng thứ hai là thắng lợi của cả một quá trình lâu dài và gian khổ. Trong suốt quá trình đó, không ít các hệ thống chính quyền với những quy mô và tính chất khác nhau đã được lập ra. Gọi đó là Triều vua (gồm nhà vua và những thiết chế chính trị do vua lập ra) theo đúng nghĩa của từ này, thì hẳn nhiên là còn có những điều cần thiết phải cân nhắc, nhưng rõ ràng tất cả những hệ thống chính quyền ấy đều là thành tựu tuyệt vời của cuộc chiến đấu một mất một còn, đều thực  sự là tinh hoa của ý chí độc lập và tự chủ của dân tộc ta. Xuất phát từ nhận thức ấy, chúng tôi trân trọng giới thiệu một số chính quyền tiêu biểu nhất (dẫu người đứng đầu chưa xưng tước hiệu gì rõ ràng) được thành lập trong hoặc sau những cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc.

1. Chính quyền Trưng Nữ Vương (40- 43)

- Huý là Trưng Trắc, con gái của Lạc tướng Mê Linh (Đất Mê Linh nay thuộc vùng giáp giới giữa Hà Tây với Vĩnh Phúc và ngoại thành Hà Nội).

- Thân sinh mất sớm, Trưng Trắc và em gái là Trưng Nhị được thân mẫu là bà Man Thiện (cũng có truyền thuyết nói là bà Trần Thị Đoan) nuôi dưỡng.

- Hiện chưa rõ Trưng Trắc sinh năm nào, chỉ biết khi Tô Định được nhà Đông Hán sai sang làm Thái Thú ở Giao Chỉ (năm 34), thì Trưng Trắc đã trưởng thành và kết hôn với con trai của Lạc tướng Chu Diên là Thi Sách. (Đất Chu Diên nay là vùng giáp giới giữa Hà Tây với Hà Nam).

- Bấy giờ, nhân lòng căm phẫn của nhân dân ta đối với chính sách thống trị tàn bạo của nhà Đông Hán, lại cũng nhân vì Thi Sách bị Thái Thú Tô Định giết hại, Trưng Trắc đã cùng em là Trưng Nhị và nhiều bậc hào kiệt khác, phát động và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa có quy mô rất lớn.

- Khởi nghĩa bùng nổ vào cuối năm 39 đầu năm 40 và nhanh chóng được nhân dân cả nước nhất tề hưởng ứng. Tô Định phải hốt hoảng bỏ chạy về nước.

- Khi quân đô hộ đã bị quét sạch khỏi bờ cõi Hai Bà Trưng đã thành lập một hệ thống chính quyền độc lập và tự chủ, sử gọi đó là chính quyền Trưng Nữ Vương.

- Chính quyền Trưng Nữ Vương tồn tại được trong khoảng gần ba năm (từ đầu năm 40 đến cuối năm 42 đầu năm 43). Sử gia Lê Văn Hưu (1230 - 1322) viết: ''Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà mà hô một tiếng cũng có thể khiến các quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay. Xem thế cũng đủ biết hình thế đất Việt ta có thể dựng được nghiệp bá vương''.

- Nhà Đông Hán đã phải cử tên lão tướng khét tiếng tàn bạo và dày dạn kinh nghiệm trận mạc là Mã Viện sang đàn áp mới tiêu diệt được lực lượng và chính quyền của Hai Bà Trưng.

2 - Chính quyền của Bà Triệu (248)

- Bà Triệu (Triệu Thị Trinh) người đất Quân Yên (nay thuộc huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hoá), sinh năm nào chưa rõ, chỉ biết khi cùng anh là Triệu Quốc Đạt khởi xướng và lãnh đạo cuộc chiến đấu chống ách đô hộ của quân Đông Ngô (năm 248). Bà đã là một cô gái ở độ tuổi khoảng trên dưới hai mươi. Bấy giờ, nhiều ngước khuyên Bà nên lập gia đình, xây dựng hạnh phúc riêng, nhưng bà đã khẳng khái trả lời: ''Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp ngọn sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, cởi ách nô lệ cho nhân dân chớ không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta''. Sau câu nói bừng bừng khẩu khí anh hùng đó, Bà đã quả cảm phát động khởi nghĩa.

- Quân Ngô sau nhiều phen thất bại, đã tìm đủ mọi thủ đoạn xảo quyệt, thậm chí đã dùng cả tước hiệu Lệ Hải Bà Vương để chiêu dụ Bà, nhưng ý chí của Bà trước sau vẫn không hề bị lung lạc.

- Cuối cùng, nhà Ngô đã phải sai viên tướng lừng danh là Lục Dận đem đại bính sang đàn áp. Bà Triệu cùng hàng loạt nghĩa binh đã anh dũng hy sinh vào năm 248.

- Về thực chất, bộ chỉ huy khởi nghĩa do Bà Triệu cầm đầu cũng là một guồng máy chính quyền. Bà Triệu chưa xưng đế hay xưng vương, cũng chưa đặt quốc hiệu hay niên hiệu, nhưng rõ ràng, guồng máy chính quyền sơ khai do Bà Triệu lập ra, hoàn toàn biệt lập và đối nghịch sâu sắc với chính quyền đô hộ của quân Ngô.

3. Thế thứ chính quyền nhà Tiền Lý (542 - 602)

- Năm Nhâm Tuất (542), Lý Bí (còn có tên gọi khác là Lý Bôn) đã lãnh đạo nhân dân vùng dậy lật nhào ách đô hộ của nhà Lương (một triều đại của Nam Triều ở Trung Quốc thời Nam - Bắc triều). Chỉ trong một thời gian rất ngắn, Lý Bí đã giành được thắng lợi và thiết lập một hệ thống chính quyền độc lập, tự chủ riêng.

- Nhiều bộ sử cũ vẫn gọi khoảng thời gian từ năm 542 đến năm 602 là thời Tiền Lý, dẫu thực tế không hoàn toàn như vậy. Xét rằng, các chính quyền khác xuất hiện trong khoảng thời gian này, tuy không đúng là của nhà Tiền Lý nhưng lại được xây dựng trên cơ sở thắng lợi của nhà Tiền Lý, cho nên chúng tôi cũng gộp chung mà gọi là thời Tiền Lý.

- Thời Tiền Lý có mấy hệ thống chính quyền sau đây:

a, Lý Nam Đế (542-548)

- Họ và tên: Lý Bí (còn có tên khác là Lý Bôn).

- Nguyên quán là đất Thái Bình (đất này nay thuộc vùng tiếp giáp giữa huyện Thạch Thất và thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây).

- Hiện chưa rõ năm sinh

- Năm 542, Lý Bí phát động khởi nghĩa và chỉ trong vòng ba tháng đã quét sạch quân Lương ra khỏi bờ cõi. Năm Giáp Tý (544), Lý Bí lên ngôi hoàng đế, xưng là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, niên hiệu là Đại Đức (cũng có thư tịch cổ chép là Thiên Đức).

- Liên tục trong hai năm (545 và 546), nhà Lương cho quân sang đàn áp. Sau trận thất bại ở hồ Điển Triệt (thuộc Vĩnh Phú ngày nay), Lý Nam Đế giao quyền binh lại cho Triệu Quang Phục rồi tạm lánh vào động Khuất Lão (thuộc Vĩnh Phú ngày nay) và mất ở đấy vào năm 548.

- Do chưa rõ năm sinh nên chưa rõ Lý Nam Đế thọ bao nhiêu tuổi

b. Triệu Việt Vương (546-571)

- Họ và tên: Triệu Quang Phục

- Nguyên quán: phủ Vĩnh Tường. Phủ này, nay là vùng  giáp giới Hà Tây với Vĩnh Phú.

- Khi Lý Bí phát động khởi nghĩa, Triệu Quang Phục và cha là Triệu Túc cùng hưởng ứng. Khi Lý Bí xưng là Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục được phong tới chức Tả Tướng.

- Năm 546, sau thất bại trong trận đánh ở Điển Triệt, Triệu Quang Phục được Lý Nam Đế uỷ thác quyền trông coi nghĩa binh. Triệu Quang Phục đã đưa lực lượng về đầm Dạ Trạch (đầm này nay thuộc Châu Giang, Hưng Yên) và tổ chức chiến đấu tại đây.

- Năm 548, sau khi nghe tin Lý Bí đã qua đời, Triệu Quang Phục xưng là Triệu Việt Vương. Năm 557, Triệu Việt Vương  đã đánh tan lực lượng đi càn quét của nhà Lương, giành lại quyền tự chủ cho đất nước, đồng thời, thành lập một guồng máy chính quyền độc lập do ông đứng đầu.

- Năm 571, do bị Lý Phật Tử tấn công bất ngờ, Triệu Việt Vương thua trận và bị giết.

- Do chưa rõ năm sinh nên chưa rõ Triệu Việt Vương thọ bao nhiêu tuổi.

c. Lý Phật Tử (555-602)

- Năm 546, khi thua trận ở Điển Triệt, lực lượng của Lý Nam Đế bị chia làm hai. Bộ phận thứ nhất do Triệu Quang Phục (người về sau xưng là Triệu Việt Vương) cầm đầu, Triệu Quang Phục là vị tướng được Lý Nam Đế tin cậy mà uỷ thác mọi quyền binh. Bộ phận thứ hai do lương Lý Phục Man cầm đầu. Lý Phục Man họ tên gì chưa rõ, ông vì có công chinh phục người man, được Lý Nam Đế yêu quý mà đặt tên là Phục Man, lại cho được lấy họ Lý, sử nhân đó gọi là Lý Phục Man. Ông người làng Yên Sở. Làng này nay thuộc huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây.

- Cũng năm 546, nếu Triệu Quang Phục bám trụ ở đầm Dạ Trạch và chiến đấu ngoan cường với quân nhà Lương, thì Lý Phục Man đã đem lực lượng chạy vào vùng phía tây Thanh Hoá ngày nay.

- Năm 555, Lý Phục Man mất, một vị tướng người cùng họ với Lý Nam Đế là Lý Phật Tử lên thay.

- Năm 557, khi Triệu Việt Vương đánh tan quân nhà Lương thì Lý Phật Tử cũng lập tức đem quân đánh Triệu Việt Vương để giành quyền binh.

- Sau nhiều trận không phân thắng bại, hai bên tạm lấy vùng đất tương tứng với huyện Từ Liêm (Hà Nội) ngày nay làm ranh giới. Từ đất này trở về Nam thì do Lý Phật Tử cai quản, trở ra Bắc thì do Triệu Việt Vương cai quản.

- Lý Phật Tử cho con trai là Nhã Lang kết hôn với con gái của Triệu Việt Vương là Cảo Nương, mượn danh nghĩa thông gia để làm cho Triệu Việt Vương mất cảnh giác.

- Năm 571, Lý Phật Tử bất ngờ cho quân đánh úp, khiến Triệu Việt Vương bị đại bại và bị giết. Lý Phật Tử thâu tóm mọi quyền hành. Sử cũ gọi đó là nhà Hậu Lý Nam Đế.

- Năm 581, nhà Tùy được dựng lên. Sau một thời gian lo củng cố quyền thống trị ở Trung Quốc, năm 602, nhà Tùy liền dùng áp lực quân sự, khiến Lý Phật Tử phải đầu hàng. Không thấy sử cũ ghi chép gì về số phận của Lý Phật Tử sau khi đầu hàng.

- Chưa rõ năm sinh và năm mất nên chưa rõ Lý Phật Tử thọ bao nhiêu tuổi.

 4. Chính quyền Đinh Kiến (687).

- Từ năm 618 đến năm 905 đất nước ta bị nhà Đường đô hộ. Năm 679, nhà Đường lập ra An Nam Đô Hộ Phủ. Sử Trung Quốc bắt đầu gọi ta là An Nam kể từ đó.

- Năm 687, quan cai quản An Nam Hộ Phủ của Nhà Đường là Lưu Diên Hựu thu thuế rất tham tàn, khiến cho nhân dân ta rất căm phẫn. Nhân cơ hội đó, một vị hào trưởng là Lý Tự Tiên (nay vẫn chưa rõ quê quán) đã bí mật tổ chức một cuộc khởi nghĩa lớn. Nhưng, cơ mưu bị bại lộ, Lý Tự Tiên bị Lưu Diên Hựu giết chết.

- Tiếp nối sự nghiệp của Lý Tự Tiên, một vị hào trưởng cũng là một thuộc tướng của Lý Tự Tiên đã lãnh đạo nhân dân vùng dậy. Vị hào trưởng ấy là Đinh Kiến.

- Ngay trong năm 687, Đinh Kiến đã giết chết được Lưu Diên Hựu và chiếm được phủ đô hộ là thành Tống Bình (tức Hà Nội ngày nay), đồng thời nhanh chóng thiết lập một hệ thống chính quyền do ông đứng đầu.

- Đinh Kiến chưa xưng đế hay vương, cũng chưa đặt quốc hiệu hay nội hiệu, nhưng chính quyền do ông đứng đầu thực sự là chính quyền độc lập và tự chủ.

- Hiện vẫn chưa rõ quê quán cũng như năm sinh và năm mất của Đinh Kiến.

5 - Chính quyền Mai Hắc Đế (722)

- Họ và tên: Mai Thúc Loan (còn có tên khác là Mai Huyền Thành).

- Sinh quán: huyện Thiên Lộc (nay đất sinh quán của ông thuộc Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Sau gia đình ông di cư về vùng Ngọc Trường (vùng này, nay thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).

- Mai Thúc Loan sinh trưởng trong một gia đình nghèo, bản thân ông luôn bị quan lại nhà Đường bắt phạt đi phu, phục dịch rất vất vả.

- Năm 722, ông phát động và lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa lớn. Cũng ngay năm này, Mai Thúc Loan đã cho xây dựng đại bản doanh tại Hùng Sơn (tục danh là Núi Đụn) và lập căn cứ dọc theo bờ sông Lam (Nghệ An). Đồng thời, để quy tụ lòng người ông đã lên ngôi hoàng đế, xưng là Mai Hắc Đế (ông vua người họ Mai, da đen). Mai Hắc Đế đã lãnh đạo nghĩa quân, đánh cho quan đô hộ của nhà Đường lúc ấy là Quang Sở Khách phải hốt hoảng tháo chạy về nước.

- Nhà Đường đã phải huy động một lực lượng lớn mới đàn áp được Mai Hắc Đế và nghĩa sĩ của ông.

- Mai Hắc Đế mất năm 722, do chưa rõ năm sinh nên chưa rõ thọ bao nhiêu tuổi.

6 - Chính quyền họ Phùng (?-791)

a. Bố Cái Đại, Vương (?-789).

- Họ và tên:  Phùng Hưng, tự là Công Phấn.

- Nguyên quán: Đường Lâm, Phong Châu (đất này nay thuộc huyện Ba Vì - Hà Tây).

- Phùng Hưng sinh trưởng trong một gia đình đời đời làm quan lang của vùng Phong Châu.

- Bấy giờ, nhà Đường đô hộ nước ta. Quan đô hộ là Cao Chính Bình khét tiếng tham lam và tàn bạo, khiến cho nhân dân ta căm phẫn, đồng thời, binh lính của Cao Chính Bình cũng chống đối quyết liệt. Nhân cơ hội đó, Phùng Hưng phát động khởi nghĩa. Hiện chưa rõ khởi nghĩa bùng nổ vào năm nào. Các nhà nghiên cứu cho rằng Phùng Hưng phát động khởi nghĩa trong khoảng từ năm 766 đến năm 779.

- Chỉ trong vòng một thời gian ngắn, Phùng Hưng đã chiếm được thành Tống Bình. Sau đó, ông tiến đánh các lực lượng còn lại của nhà Đường ở trên đất nước ta, đồng thời thiết lập một bộ máy chính quyền do ông đứng đầu.

- Khoảng 7 năm sau khi cầm đầu guồng máy chính quyền này, Phùng Hưng qua đời năm 789).

- Sau khi mất, ông được truy tôn là Bố Cái Đại Vương. Do chưa rõ năm sinh nên chưa rõ ông thọ bao nhiêu tuổi.

b. Phùng An (789 - 791)

- Con của Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng, không rõ sinh năm nào.

- Nối nghiệp cha, cầm đầu guồng máy chính quyền độc lập và tự chủ kể từ năm 789.

- Năm 791, nhà Đường cử viên tướng nổi tiếng xảo quyệt là Triệu Xương sang đàn áp. Phùng An đầu hàng. Sau, không rõ số phận của Phùng An ra sao.

7. Chính quyền Dương Thanh (819 - 820).

- Dương Thanh là một vị hào trưởng của đất Hoan Châu (đất này nay thuộc Nghệ An) và cũng là người được nhà Đường cho làm Thứ Sử của châu này.

- Biết Dương Thanh là người giàu lòng yêu nước, quan đô hộ của nhà Đường là Lý Tượng Cổ đã dùng mưu kế để làm giảm uy tín của ông, đồng thời, tách ông ra khỏi dân châu Hoan.

- Năm 819, Dương Thanh đã phát động cuộc khởi nghĩa lớn, giết được Lý Tượng Cổ, đồng thời thiết lập được hệ thống chính quyền tự chủ do ông đứng đầu.

- Sau nhiều phen đàn áp nhưng bị thất bại, nhà Đường đã dùng kế li gián để chia rẽ lực lượng của Dương Thanh. Ông bị cô lập dần, để rối cuối cùng, bị tru di tam tộc vào năm 820. Hiện chưa rõ năm sinh nên chưa rõ ông thọ bao nhiêu tuổi.

- Cũng như nhiều vị thủ lĩnh kiệt xuất khác, Dương Thanh không xưng đế hay xưng vương, chưa đặt quốc hiệu và niên hiệu, nhưng chính quyền do ông thiết lập ra thực sự là chính quyền độc lập và tự chủ.

Trên đây là những hệ thống chính quyền tiêu biểu nhất, được thành lập trong hoặc sau thắng lợi của các cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc, gồm nhiều quy mô và tính chất khác nhau. Hẳn nhiên, đó chưa phải là tất cả nhưng, dẫu nhìn từ bất cứ góc độ nào thì đó cũng thực sự là tinh hoa của lịch sử chống xâm lăng thời Bắc thuộc.




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/271-26-633349560712266250/The-thu-cac-trieu-vua-Viet-Nam/The-thu-tho...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận