Tài liệu: Thực dân Pháp phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam

Tài liệu

Tóm tắt nội dung

Từ chiều ngày 31 tháng 8 năm 1858, liên quân Pháp - Tây đã kéo tới dàn trận tại cửa biển Đà Nẵng (Quảng Nam).
Thực dân Pháp phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam

Nội dung

Thực dân Pháp phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam

1. Từ Đà Nẵng đến Gia Định

Từ chiều ngày 31 tháng 8 năm 1858, liên quân Pháp - Tây đã kéo tới dàn trận tại cửa biển Đà Nẵng (Quảng Nam). Kế hoạch của địch là đánh nhanh thắng nhanh để chiếm lấy Đà Nẵng làm căn cứ bàn đạp, từ đó đánh vào nội địa, tiêu diệt sinh lực của triều đình Huế tại đây, rồi vượt đèo Hải Vân đánh thọc sâu lên Huế bóp chết sức kháng chiến của phong kiến triều Nguyễn tại chỗ và buộc chúng phải đầu hàng. Mờ sáng hôm sau (ngày 1-9-1858), chúng đã cho người đưa tối hậu thư buộc trấn thủ Trần Hoàng phải trả lời ngay trong vòng hai giờ. Không đợi hết hạn, chúng đã ra lệnh cho tàu chiến bắn đại bác lên các đồn Điện Hải, An Hải của triều đình suốt trong ngày hôm đó. Tiếp sau, chúng cho quân đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà.

Chọn Đà Nẵng làm mục tiêu tấn công đầu tiên, tư bản Pháp nhằm đạt mấy mục đích sau: cửa biển nơi đây tương đối sâu rộng nên tàu chiến chúng có thể ra vào dễ dàng; hậu phương Quảng Nam giàu có và đông dân có thể giúp chúng thực hiện khẩu hiệu lấy chiến tranh nuôi chiến tranh; trông chờ vào sự ủng hộ của giáo dân vùng này mà bọn gián điệp đội lốt giáo sĩ hoạt động trong đất liền đã báo cáo là khá mạnh.

Được tin mất bán đảo Sơn Trà, triều đình Huế vội phái nhiều quân tướng tới tăng cường lực lượng phòng thủ. Nguyễn Tri Phương được cử làm tổng chỉ huy mặt trận Quảng Nam để lo việc chống giặc. Nhưng ông không chủ động tấn công tiêu diệt địch, mà chỉ huy động quân dân đắp lũy chạy dài từ bờ biển vào phía trong để bao vây địch ngoài mé biển, chặn không cho chúng đi sâu vào nội địa. Còn đối với nhân dân trong vùng thì ông ra lệnh thực hiện vườn không nhà trống tản cư vào bên trong để khỏi bị giặc bắt đi lính, nộp lương thực hay cung cấp tin tức. Chiến thuật này không phải không có hiệu quả. Mấy lần liên quân Pháp - Tây tìm cách đánh sâu vào đều bị quan quân triều đình đánh bật trở lại, và bị thiệt hại khá nặng. Kết quả là sau 5 tháng chiến tranh, chúng hầu như dẫm chân tại chỗ. Trong lúc đó thì khó khăn của chúng mỗi ngày một tăng thêm: do không hợp khí hậu nên binh lính địch bị ốm đau và chết khá nhiều trong khi thuốc men lại thiếu; tiếp tế thực phẩm cho quân lính rất khó khăn. Tiến lui đều khó, cuối cùng tướng giặc Giơnuiy quyết định chỉ để lại Đà Nẵng một lực lượng quân sự nhỏ bé để cầm chân quân đội triều đình, còn lại thì lợi dụng mùa gió bấc kéo vào đánh Gia Định (2-1859).

Âm mưu của địch lần này kéo vào đánh Gia Định so với lúc đánh Đà Nẵng có nhiều điểm khác. Chúng muốn cắt đứt đường tiếp tế bằng cách đánh chiếm Sài Gòn và Nam Kì mà chúng biết là kho lúa gạo của triều đình Huế; tránh sự tiếp viện của triều đình Huế mà chúng đã được biết là không phải yếu kém như bọn giáo sĩ Pháp đã báo cáo; đánh Sài Gòn xong sẽ theo đường sông Cửu Long ngược lên đánh chiếm luôn Cao Miên. Hơn nữa, lúc này tư bản Pháp cần phải hành động gấp vì tư bản Anh sau khi chiếm Xingapo và Hương Cảng cũng đang ngấp nghé chiếm Sài Gòn để nối liền lại cửa biển quan trọng trên.

Ngày mồng 9 tháng 2 năm 1859, hạm đội Pháp đã tập trung đầy đủ ở Vũng Tàu. Sáng hôm sau (mồng 10 tháng 2), chúng bắt đầu công phá các pháo đài Phúc Thắng, Lương Thiện, Phúc Mĩ, Danh Nghĩa thuộc các tỉnh Biên Hòa, Gia Định, có nhiệm vụ bảo vệ đường thủy vào Gia Định. Sau đó, tàu chiến giặc ngược sông Cần Giờ, vừa tiến vừa bắn phá các đồn hai bên bờ. Tàu Pháp tiến rất chậm, từ cửa Cần Giờ vào đến gần thành Gia Định (tức Sài Gòn) phải mất 6 ngày, vì vấp phải sức chống cự khá quyết liệt của quan quân triều đình đóng tại các đồn trên bờ và nhiều đập cản giữa lòng sông. Sáng ngày 16, địch đổ bộ chiếm được hai pháo đài bảo vệ trực tiếp thành Gia Định và cho tàu ngược sông Bến Nghé vào đậu sát ngay trước mặt thành. Sáng ngày 17, tàu chiến địch tập trung hỏa lực bắn vào thành, đến trưa thì cho quân đổ bộ đánh thành. Trước sức tấn công mạnh mẽ của địch, trấn thủ Gia Định là Vũ Duy Ninh ra lệnh rút quân, bỏ lại trong thành nhiều súng các loại và lương thực. Chiếm được thành Gia Định, nhưng Giơnuiy lượng sức không đủ giữ thành nên ngày mồng 8 tháng 3 quyết định phá thành, rồi rút quân xuống đóng dưới tàu đậu giữa sông để khỏi bị quân ta tập kích. Sau đó, chúng chỉ để lại một số ít quân ở Gia Định, còn lại thì cấp tốc kéo ra tiếp viện cho số quân Pháp đóng lại ở mặt trận Đà Nẵng, lúc đó đang có nguy cơ bị quân ta tiêu diệt.

Ra tới Đà Nẵng, để củng cố tinh thần quân lính, Giơnuiy quyết định mở cuộc tấn công lớn ngày mồng 8 tháng 5 năm 1859. Cùng lúc, quân Pháp đánh vào các đồn Điện Hải, Phúc Ninh, Thạch Giản, rồi tiến sâu vào nội địa, buộc quân triều đình phải lui về cố thủ phía sau. Nhưng chúng đã bị tổn thất nặng, nên sau đó phải rút về các vị trí cũ, không dám tiến sâu hơn. Quân Pháp ở Việt Nam lúc đó rất khốn đốn. Từ tháng 4 năm 1859, tư bản Pháp bị vướng vào cuộc chiến tranh với Áo trên đất Ý nên phải dồn lực lượng quân sự vào chiến trường châu Âu, không thể tiếp viện nhiều cho đội quân xâm lược Việt Nam. Mâu thuẫn Anh - Pháp lúc này cũng trở nên gay gắt, chiến tranh có thể bùng nổ giữa hai nước. Trong tình thế khó khăn đó, chính phủ Pháp buộc phải ra lệnh cho Giơnuiy nghị hòa với triều đình Huế.

Để có áp lực với triều đình Huế, Giơnuiy đá cho tàu chiến bắn phá các pháo đài, thuyền buôn, tàu chiến của ta dọc theo bờ biển các tỉnh Bình Định, Quảng Bình, Quảng Trị. Nhưng do thái độ không dứt khoát của triều đình, đánh không dám đánh mạnh mà hòa cũng không ra hòa, cuối cùng việc hòa nghị không thành. Giơnuiy bị gọi về Pháp và đô đốc Pagiơ (Page) được cử sang thay. Sang tới nơi, lúc đầu Pagiơ táo bạo thí nghiệm lại kế hoạch cũ của Giơnuiy trước kia là dốc lực lượng đánh mạnh vào phía bắc vịnh Đà Nẵng để làm chủ con đường đèo Hải Vân, rồi đánh thẳng vào Huế. Nhưng một lần nữa, chúng lại bị đánh bại, số quân lính bị chết và bị thương lên tới 300 người. Thất bại trong âm mưu đánh vào Huế, Pagiơ quyết định rút dần quân vào Gia Định, đến cuối tháng 3 năm 1860, toàn bộ quân Pháp sau 19 tháng chiếm đóng Đà Nẵng đã rút hết về Gia Định.

Tại Gia Định, Pagiơ một mặt chủ động đưa ra các điều khoản nghị hòa với triều đình, mặt khác vẫn ráo riết chuẩn bị để thời cơ tôi là nổ súng. Nhưng lần này cũng như lần trước, cuộc nghị hòa đã thất bại vì thái độ cố chấp của triều đình. Trong khi đó, giặc Pháp ở Gia Định ra sức mở rộng phạm vi chiếm đóng xung quanh thành, đánh chiếm Chợ Lớn, lập một phòng tuyến kéo dài từ chùa Khải Tường (gần Trường Thi) tới chùa Cây Mai (7-1860). Sau đó, phần lớn quân Pháp trên mặt trận Gia Định lại bị điều động sang mặt trận Hoa Bắc (Trung Quốc).

Sau khi đã liên minh cùng với các nước tư bản Âu - Mĩ dùng vũ lực buộc phong kiến Trung Quốc phải kí điêu ước Bắc Kinh (25 - 10 - 1860), mở thêm nhiều cửa bể, dành thêm nhiều thị trường cho thế lực tư bản nước ngoài trực tiếp xâm nhập Trung Quốc, tư bản Pháp đem toàn bộ hải quân ở Viễn Đông về Gia Định để xúc tiến việc xâm chiếm Nam Kì, để từ đó thôn tính Miên, Lào, Hoa Nam (Trung Quốc). Đạo quân xâm lược của địch tập trung trên sông Bến Nghé ngày mồng 7 tháng 2 năm 1861 đã lên tới trên 4.000 người với gần 50 chiến thuyền các loại. Đô đốc Sácne (Charner) được Chính phủ Pháp giao cho toàn quyền tuyên chiến và kí hòa ước với Việt Nam. Lực lượng của triều đình ở Gia Định do Nguyễn Trí Phương chỉ huy hầu hết tập trung trong Đại đồn Phú Thọ (Chí Hòa) được xây dựng gấp rút để chặn đường tiến của địch.

4 giờ sáng ngày 24 tháng 2 năm 1861, giặc Pháp bắt đầu nổ súng công kích Đại Đồn. Chúng tiến quân rất chậm, phần vì hỏa lực khá mạnh của quan quân triều định từ trong thành bắn ra, phấn vì vấp phải hệ thống hào lũy bảo vệ mặt ngoài thành. Cuộc chiến đấu diễn ra khá ác liệt suốt trong hai ngày liền. Cuối cùng, Nguyễn Tri Phương ra lệnh bỏ thành chạy về đồn Thuận Kiều ở sau lưng Đại Đồn để cố thủ. Nhưng ngày 28, địch tấn công chiếm luôn đồn Thuận Kiều, quan quân triều đình phải lui về Biên Hòa. Sau đó, giặc Pháp thừa thắng mở rộng phạm vi chiếm đóng, lần lượt đánh chiếm Định Tường (12 - 4 - 1861), Biên Hòa (16 - 12 - 1861), Vĩnh Long (23 - 3 - 1862).

Trước sức tấn công ồ ạt của tư bản Pháp, ngay từ đầu, giai cấp phong kiến cầm quyền có trách nhiệm bảo vệ độc lập dân tộc đã tỏ ra hèn nhát và bất lực, trong nội bộ đã sớm có sự phân hóa: phái chủ chiến và phái chủ hòa.

Cùng đứng trên lập trường giai cấp phong kiến thống trị, hai phái trên có cách giải quyết mâu thuẫn dân tộc khác nhau. Phái chủ chiến muốn dựa vào phong kiến Trung Quốc để đánh đuổi bọn cướp nước xa lạ mà họ gọi là bạch quỷ (quỷ trắng), hay dương quỷ (quỷ ngoài biển). Tiêu biểu cho phái này có phái “công thủ” gồm Tô Linh, Phan Hữu Nghi, Trần Văn Vi, Lê Hiến Hữu, Nguyễn Đăng Điều, Hồ Sĩ Tuấn chủ trương “phải giữ và đánh, thủ để công, và công để thủ, rồi quét sạch địch”. Pháp chủ hòa với các lập luận khác thường như “chiến không bằng hòa”, “thủ để hòa”, “chống giặc duy thủ là hơn” bị phái thứ nhất kịch liệt lên án: “Trăm sự giảo quyệt đều do một một chữ hòa mà ra cả”.

Tiếng súng của giặc đã nổ ầm bên tai mà triều đình còn bận bàn cãi, nghị luận lung tung, kẻ hòa, người đánh, trên dưới không nhất trí, đánh hòa không ngã ngũ. Nhưng tựu trung, ý kiến được nhiều người tán thành là chủ hòa. Điều đó khẳng định một thực tế là ngay từ đầu, đại bộ phận hàng ngũ phong kiến cầm quyền đã mang nặng tư tưởng thất bại và có tư tưởng sợ giặc. Trong thời kì đầu, vì quyền lợi giai cấp bị trực tiếp đụng chạm nên họ có phản ứng lại. Nhưng vì bất đắc dĩ phải chống cự lại quân thù nên sức chống cự rất hạn chế, để rồi đầu hàng từng bước trước kẻ thù, cuối cùng dâng toàn vẹn lãnh thổ cho chúng.

Chính tư tưởng bạc nhược này đã làm cho quan quân triều đình bỏ lở nhiều cơ hội đánh thắng quân thù. Trước sau, Pháp không hề bị tấn công mạnh nên sinh lực ít bị hao hụt, nhờ đó có thể vượt qua mọi khó khăn trở ngại để hoàn thành cuộc xâm lược. Tháng 9 năm 1858, khi liên quân Pháp - Tây đổ bộ đánh chiếm Đà Nẵng, định mở đường đèo Hải Vân lên kinh thành, hết Trần Hoàng đến Lê Đình Lý, Phạm Khắc Thận, Chu Phúc Ninh và cuối cùng cả danh tướng Nguyễn Tri Phương đều “án binh bất động”, chỉ chủ trương bao vây địch ngoài mé biển, nếu địch đánh vào mới chống lại, còn không hề chủ động tấn công địch lần nào. Pháp đánh rát ở Đà Nẵng mà trên mặt trận duy nhất sát cạnh kinh thành Huế chỉ có 3.000 quân chính quy; riêng điều đó đủ nói lên sự thiếu quyết tâm tiêu diệt địch của triều đình phong kiến.

Cần nói rằng những điều kiện phòng thủ và tấn công địch trên mặt trận Đà Nẵng không phải ít. Ngay từ năm 1857, trước sự dòm ngó ngày càng lộ liễu của tư bản Pháp, Đà Nẵng đã được tăng cường phòng thủ, số đại bác tăng gấp 3 lần, đồn lũy được củng cố lại, giữa lòng sông đắp cản để ngăn chặn tàu địch, luôn luôn có trên dưới 3.000 quân thường trực. Đó là chưa kể tới số dân quân rất đông, sẵn sàng phối hợp với quân đội triều đình tiêu diệt địch. Đã thế, lúc này địch cũng gặp rất nhiều khó khăn về quân số và tàu chiến thiếu hụt vì vướng vào cuộc chiến tranh ở Ý từ năm 1859. Chính tướng giặc Giơnuiy phải nhận rằng: “Nếu họ (triều đình Huế) đánh mạnh thì họ đã đánh bại chúng tôi lâu rồi”. Triều đình đã bỏ mất thời cơ thuần lợi để chiến thắng quân thù. Kết quả là sau 5 tháng bị sa lầy trên mặt trận Đà Nẵng, vừa bị tiêu hao trong chiến đấu, vừa bị chết về bệnh tật khá nhiều, lại thiếu thốn về lương thực và thuốc men, quân giặc vẫn có thể yên ổn đóng tại Đà Nẵng cho đến tháng 2 năm 1860 mới rút toàn bộ vào Gia Định mở mặt trận mới.

Lần này, giặc Pháp đã táo bạo cho tàu chiến ngược sông đi sâu vào nội địa bắn phá bừa bãi và tấn công chiếm thành Gia Định. Các quan lại triều đình chịu trách nhiệm ở đây đã không có những hành động cứng rắn kịp thời để bóp chết ngay từ đầu ý chí xâm lăng của địch. Mặc dù thành Gia Định lúc đó có 1.000 quân đủ khí giới và lương thực cho 1 vạn quân đóng giữ trong một năm, nhưng quân triều đình chỉ chống đỡ vài trận, rồi bỏ thành chạy dài. Sau đó, vì sợ bị triều đình trừng phạt, Vũ Duy Ninh thắt cổ chết để trốn trách nhiệm, mở đầu một chuỗi tự sát của bọn bầy tôi bất lực của một triều đình suy tàn.

Quân giặc lo sợ vì vấp phải sức chiến đấu quyết liệt của nghĩa quân. Họ tự động ngày đêm bám sát địch để tiêu diệt, nên chúng không dám đóng quân trên bộ mà phải rút xuống tàu đậu giữa sông rộng, chỉ đóng một đồn nhỏ trên bờ sông. Trong khi đó, tướng lĩnh triều đình vẫn ngồi yên không dám hành động. Lúc này, phần lớn quân Pháp đã tiếp viện cho số quân đang bị khốn đốn ở Đà Nẵng, số khác bị vướng vào chiến tranh trên đất Ý (4 - 1859), hạm đội liên minh Anh - Pháp bị Trung Quốc đánh bại trên sông Bạch Hà. Số quân địch ở Gia Định chỉ có dưới 1 .000 người, dàn mỏng trên một phòng tuyến dài hơn 10 cây số, nhưng triều đình vẫn không hay biết gì về tình hình địch, cứ một mực bao vây, vừa bao vây vừa thương thuyết, tuyệt nhiên không hề có một lần nào chủ động tấn công địch. Nguyễn Tri Phương từ lúc vào làm Tổng thống quân vụ đại thần phụ trách mặt trận Gia Định (3 - 1860) cũng chỉ biết đôn đốc quân dân hết đào hầm lại đắp lũy để bao vây địch mé ngoài, thực hiện triệt để chiến thuật “ân binh bất động” không đánh và cũng không hoà. Hậu quả là hàng ngàn quân bị tập trung trong Đại Đồn, chỉ rộng 3 cây số vuông để làm mục tiêu cho đại bác giặc.

Tai hại hơn nữa, chính tình trạng trên dưới ý kiến không thống nhất, nội bộ giai cấp phong kiến thống trị phân hóa phức tạp nên triều đình bỏ lỡ nhiều dịp nghị hòa với Pháp với những điều kiện có lợi cho ta. Đánh Đà Nẵng không xong, hết Giơnuiy (7-1859), đến Pagiơ (3-1860) đều muốn nghị hòa. Các điều khoản chúng đưa ra như hai nước Pháp Nam giao hảo lâu dài, khoan xá những người cộng tác với Pháp, không truy nã người theo đạo và thả giáo sĩ, tự do thông thương, tự do giảng đạo, lập lãnh sự và cửa hàng ở các bến cảng, và đặc biệt là điều khoản cuối cùng “kí hòa ước xong là Pháp lập tức rút chiến thuyền khỏi Gia Định” xét ra không phải là quá đáng, tình hình thực tế của chúng lúc đó không cho phép đòi hỏi nhiều.

Trong tình hình đó, thái độ đúng đắn của triều đình đúng ra là phải tranh thủ thời cơ hòa hoãn để chỉnh đốn đội ngũ, bồi dưỡng lực lượng tiếp tục kháng chiến về sau. Nhưng triều đình không thấy đâu là điều nhượng bộ tạm thời trước mắt, đâu là quyền lợi cơ bản và lâu dài về sau, nên đã không chịu kí kết vào lúc còn có điều kiện kí kết. Kết quả là cuộc điều đình thất bại, trong lúc tình trạng không đánh không hòa cứ kéo dài có lợi cho địch. Đến khi Pháp kí xong điều ước Bắc Kinh (1860), những khó khăn lúng túng đã qua, chúng liền mở rộng cuộc xâm lược.

Chiến thuật chiến lược sai lầm đó tất nhiên dẫn triều đình Huế tới một chuỗi thất bại. Cuối cùng, để cứu vãn quyền lợi của giai cấp, đứng trước nguy cơ xâm lược bên ngoài và nguy cơ khởi nghĩa nông dân bên trong, chúng đã hèn hạ phản bội quyền lợi của nhân dân, của dân tộc bằng việc vội vã kí hàng ước ngày mồng 5 tháng 6 năm 1862, nhượng đứt ba tỉnh Đông Nam Kì cho giặc Pháp, đúng vào lúc phong trào kháng chiến trong nhân dân miền Nam đang lên mạnh, buộc Pháp thấy rằng “cần phải chinh phục lại những tỉnh đã chinh phục rồi”.

Trong khi triều đình hoang mang dao động, chống cự một cách yếu ớt, đầu hàng từng bước, và cuối cùng cắt đất dâng cho giặc thì nhân dân cả nước đã ngay từ đầu sôi nổi chống giặc. Ý nghĩ của quần chúng rất đơn giản và đúng đắn: giặc đến cướp nước thì phải đánh giặc giữ nước chúng tới thì đánh, chúng chưa đến thì phải chủ động tìm chúng mà đánh. Ngay từ những ngày đầu, chúng ta đã thấy bên cạnh quân đội chính quy còn có đông đảo dân quân “gồm tất cả những ai không đau ốm và không tàn tật”. Với lực lượng đó, nếu triều đình quyết tâm kháng chiến thì dù vũ khí có kém địch, vẫn không thể mất nước. Đốc học Phạm Văn Nghị ở Nam Định chiêu mộ được 300 “thân biền binh dũng” gồm toàn nho sĩ khỏe mạnh xin đi từ ngoài Bắc vào bổ sung cho quân thứ Quảng Nam, xin mãi mới được chuẩn y; nhưng khi vào đến kinh đô Huế thì quân Pháp đã rút khỏi Đà Nẵng, họ liền xin được hành quân tiếp vào Gia Định chiến đấu, triều đình ra lệnh bắt phải trở về Bắc.

Trên mặt trận Đà Nẵng, vào tháng 5 năm 1859, đội nghĩa quân của Phạm Gia Vĩnh đã phối hợp chặt chẽ với đội quân của triều đình do Nguyễn Song Thanh và Đào Trí chỉ huy để đánh bại cuộc tấn công của giặc, buộc chúng phải chạy về bán đảo Sơn Trà.

Trên mặt trận Gia Định, quân địch không đánh lan rộng ra được, mặc dù quân đội chính quy của triều đình ở đây không quá vài ngàn và không chủ động tìm giặc để đánh. Nhân dân địa phương đã sôi sục căm thù tự động tổ chức thành đội ngũ để đánh địch ngay từ khi chúng mới đặt chân lên đất liền.

Ngay khi liên quân Pháp - Tây vừa bắn phá cửa Cần Giờ, rồi nhằm phía Gia Định tiến phát thì Trần Thiện Chính (trước là tri huyện bị triều đình cách chức) và Lê Huy (một võ quan bị thải hồi) đã cấp tốc chiêu mộ được trên 5.000 dân binh, vận động đồng bào góp tiền lương, kéo nghĩa dũng tới ngăn giặc, yểm hộ cho các cánh quân triều đình rút lui, khỏi bị tiêu diệt. Đồng thời, nhân dân Gia Định còn tự tay thiêu hủy nhà cửa, dời đi nơi khác. Chính giặc Pháp phải thừa nhận “chiều nào ở thành phố cũng có những đám cháy”. Cùng với sức chiến đấu của đồng bào Gia Định, khắp lục tỉnh, nhân dân nhiệt liệt ứng nghĩa mộ binh.

Đêm mồng 3 rạng mồng 4 tháng 7 năm 1860, một đội nghĩa dũng 6.000 người do Dương Bình Tâm cầm đầu đã xung phong đánh Chợ Rẫy là vị trí quan trọng nhất của địch trên phòng tuyến của chúng từ chùa Cây Mai đến Trường Thi. Nghĩa quân đã phục kích đâm chết tên đại úy Bácbê (Barbé) gần Trường Thi, đánh đắm tàu chiến địch Primôghê (Primauguet) đậu trên sông Đồng Nai đầu năm 1861. Quân Pháp còn chép lại rằng: dân dũng đêm đêm tìm cách vượt qua giữa các đồn địch đóng quanh thành Gia Định để lọt vào nội thành tỉa dần từng tên địch, đốt cháy cơ sở dinh trại của giặc, làm cho chúng hoang mang lo sợ.

Giặc Pháp từ Gia Định đánh chết rộng ra các tỉnh lân cận, phong trào kháng chiến của nhân dân miền Nam còn phát triển mạnh hơn nhiều, chúng càng vào sâu trong nội địa càng phải trả giá đắt hơn. Dưới sự lãnh đạo của các văn thân sĩ phu yêu nước, nhân dân miền Nam chủ yếu là nông dân đã khẳng khái nổi dậy khắp nơi chống giặc.

Điển hình có các cuộc nổi dậy của Trương Định, Đỗ Trinh Thoại, Nguyễn Thông, Phan Văn Đạt, Hồ Huân Nghiệp, Trà Quý Bình, Trịnh Quang Nghị, Lưu Tấn Thiện: Lê Cao Dõng, Nguyễn Thành Ý ở Gò Công, Gia Định, Chợ Lớn, Tân An từ năm 1860 đến năm 1864; kế đó là Võ Duy Dương ở Đồng Tháp Mười từ năm 1865 đến năm 1866; Nguyễn Trung Trực ở Tân An và Rạch Giá từ năm 1861 đến năm 1868. Ngoài ra, rất nhiều Văn thân khác cũng tự động mộ quân chống Pháp như Đỗ Quang, Âu Dương Lân, Trần Xuân Hòa, Nguyễn Hữu Huân, Phan Văn Trị..., phối hợp tác chiến với nghĩa quân Trương Định.

Cuộc nổi đậy Trương Định là phong trào lớn nhất lúc đó. Trương Định đã chiến đấu rất sớm trên mặt trận Gia Định. Ngay sau khi Pháp chiếm thành Gia Định (17 - 2 - 1859), ông đã đưa đội nghĩa quân của ông gồm toàn nông dân đồn điền dưới quyền lên đóng tại đồn Thuần Kiều, phối hợp cùng quân đội chính quy của triều đình xung phong đánh giặc. Trong các lần giao tranh với quân thù, Trương Định đã chiến đấu rất anh dũng nên được binh lính dưới quyền và nhân dân tin cậy đi theo rất đông. Giặc Pháp nhận định về ông hồi đó đã phải nói rằng nếu quan lại triều đình không tìm cách hạn chế ông mà để ông hoạt động được tự do hơn thì “chúng chỉ giặc Pháp) còn bị thiệt hại nhiều hơn nữa, và có thể đã bị thua rồi”.

Khi Nguyễn Tri Phương được điều động từ mặt trận Đà Nẵng vào phụ trách mặt trận Gia Định (8 - 1860), Trương Định đã chủ động đem quân của mình tới phối hợp tác chiến với đội quân chính quy của Nguyễn Trí Phương. Phòng tuyến Chí Hòa bị vỡ và Đại Đồn thất thủ (2 - 1861), quân đội chính quy của triều đình bỏ chạy tán loạn, ông liền điều động đội nghĩa quân của ông về hoạt động ở Gò Công thuộc huyện Tân Hòa (Gia Định), quyết tâm chiến đấu lâu dài. Trong thời gian đầu, lợi dụng địch còn lo đối phó ở nhiều nơi, Trương Định đã nhanh chóng phát triển thế lực, chiêu mộ thêm binh sĩ, dồn lương, đúc súng và đánh thắng nhiều trận. Địa bàn hoạt động không những ở Gò Công, Tân An, Mĩ Tho, mà bao gồm cả vùng Chợ Lớn, Gia Định, lan rộng ra hai bên nhánh sông Vàm Cỏ từ Biển Đông lên tới biên giới nước Cao Miên, kiêm lĩnh hay liên lạc với hầu hết những người cầm đầu các toán nghĩa quân khác hồi đó, như Đỗ Trinh Thoại, Phan Văn Đạt, Lê Cao Dõng, Trần Xuân Hòa, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương. Nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu cũng làm quân sư cho nghĩa quân. Quan Lại triều đình một số còn có tinh thần yêu nước chống Pháp cũng tìm đến nương tựa nghĩa quân, như tuần phủ Gia Định Đỗ Quang.

Phối hợp với phong trào chung các nơi, cuộc khởi nghĩa của Trương Định ngày càng thêm mạnh. Trong năm 1862, phong trào dâng cao khắp nơi, gần như “tổng khởi nghĩa”. Giặc Pháp buộc phải thừa nhận chỉ trừ vùng ngoại ô trực tiếp của Sài Gòn tương đối yên ổn, còn thì một cuộc tổng khởi nghĩa đang lan tràn khắp miên Nam, lôi cuốn tuyệt đại bộ phận nhân dân tham gia. Đến tháng 3 năm 1862, chúng đã phải rút khỏi nhiều đồn vì sợ bị nghĩa quân tập kích tiêu diệt. Phần lớn các quận huyện và thị trấn quan trọng thuộc hai tỉnh Gia Định và Định Tường như Gò Công, Tân An, Rạch Gầm, Cai Lậy, Chợ Gạo, Bến Lức đều được giải phóng. Địch chỉ còn giữ mấy tỉnh thành và một số ít đồn bị cô lập nên rất hoang mang lo sợ. Ngược lại dân tâm sĩ khí lên rất cao.

Trận đánh lớn nhất trong thời gian này là trận tấn công vào căn cứ Quy Sơn (tức Gò Rùa, cách Gò Công vài cây số) vào đêm 21 rạng 22 tháng 6 năm 1861 do Đỗ Trinh Thoại chỉ huy, có sự phối hợp tác chiến chặt chẽ của nghĩa quân Trương Định. Tuy không chiếm được cứ điểm, Đỗ Trinh Thoại và nhiều người khác bị hi sinh, nhưng nghĩa quân đã anh dũng chiến đấu buộc địch phải xác nhận: “Bây giờ phải mở mắt ra trước một sự thật hiển nhiên là người Việt có tinh thần tự chủ và quyết tâm giữ gìn độc lập dân tộc. Đồng thời cũng phải kể tới cuộc phối hợp tài tình của toán nghĩa quân do Nguyễn Trung Trực chỉ huy đã đốt cháy và đánh chìm tàu chiến Étpêrăng (Espérance) của Pháp trên sông Nhật Tảo (10-12-1861).

2. Từ hòa ước năm 1862 đến việc thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kì

Chính giữa lúc phong trào kháng chiến trong nhân dân đang dâng lên cao như vũ bão làm cho quân giặc hoảng vía kinh hồn như vậy thì bọn vua quan phong kiến đã phản bội quyền lợi nhân dân, quyền lợi Tổ quốc, kí hàng ước 5-6-1862, cắt đứt ba tỉnh miền Đông dâng cho giặc. Triều Nguyễn vội kí hòa ước ngày mồng 5 tháng 6 năm 1862, vì mang nặng tư tưởng thất bại chủ nghĩa, sợ địch ngay từ đầu, không hiểu chỗ yếu của chúng để chiến thắng chúng, mà chỉ nhìn thấy ưu thế về kĩ thuật và vũ khí. Hơn nữa, triều Nguyễn muốn bắt tay với Pháp để có thể dồn lực lượng tiêu diệt các phong trào đấu tranh rầm rộ của nông dân ngoài Bắc.

Về phía địch, mặc dù đang đánh thắng và chiếm đất, chúng nhận thấy nghị hòa sớm ngày nào là có lợi ngày ấy. Thực tế trên chiến trường Nam Kì chúng không đủ binh lực để chiếm rộng ra và bình định các nơi đã chiếm được Dư luận nước Pháp lúc đó đối với việc xâm chiếm Việt Nam cũng chưa nhất trí, một số người chủ trương nên chú ý đến các vùng Cận Đông và châu Mĩ mà họ cho là gần gũi và dễ ăn hơn. Đã thế, chính lúc này, một lực lượng quân sự lớn của Pháp lại đang bị sa lầy trên chiến trường Mêhicô và có nguy cơ bị tiêu diệt. Trong những điều kiện cụ thể như vậy, thực dân Pháp chỉ mong sớm kí kết được với Huế để vừa giữ nguyên được các đất đã chiếm, vừa có thời gian chuẩn bị mở rộng phạm vi chiếm đóng khi có điều kiện.

Cuộc nghị hòa tiến hành rất nhanh chóng. Ngày mồng 5 tháng 5 năm 1862, phái viên của tướng giặc Bôna (Bonard) mới đem thư nghị hòa ra Huế thì đến ngày mồng 5 tháng 6 năm đó (nghĩa là đúng một tháng sau), hòa ước đã được kí kết tại Sài Gòn. Hai phái viên của triều đình là Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp đều là những phần tử chủ hòa nên hoàn toàn bưng tai bịt mắt trước những khó khăn do phong trào kháng chiến của nhân dân ta cũng như của nhân dân Mêhicô đang gây cho Pháp, và đã hạ bút kí bản hòa ước ngày mồng 5 tháng 6 năm 1862 gồm 12 điều khoản, trong đó có những điều khoản sau: nhượng ba tỉnh miền Đông Nam Kì (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường) cho thực dân Pháp; mở rộng các cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho tàu bè Pháp tự do thông thương; nộp tiền bồi thường chiến phí là 20 triệu quan (ước tính đến 280 vạn lạng bạc).

Hôn ước kí kết xong, thực dân Pháp vội cho các thuyền máy hối hả truyền tin đó đi các nơi, nhất là ở các nơi đang bị nghĩa quân uy hiếp nghiêm trọng, tưởng rằng nghĩa quân các nơi sẽ nguồn nguồn thi hành lệnh của triều đình hạ khí giới, giải tán về làng làm ăn. Nhưng trái với mong muốn của chúng, nghĩa quân đã bắn vào các thuyền máy để biểu thị mối căm phẫn lớn lao của họ đối với bản hàng ước. Các toán nghĩa quân đã không chịu công nhận chính quyền mới của thực dân Pháp. Họ không chịu dời sang ba tỉnh miền Tây còn thuộc triều đình, mà cương quyết ở lại bám đất bám dân tiến hành cuộc kháng chiến ngay trong lòng địch. Đặc biệt, phong trào “tị địa” của văn thân sĩ phu miền Đông bỏ “đất bạch quỷ” mới bị Pháp chiếm, dời sang ba tỉnh miền Tây còn là đất tự do. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu tuy hai mắt bị mù vẫn tham gia phong trào này. Còn triều đình phong kiến, sau khi kí hòa ước đã vội phái Phan Thanh Giản vào phụ trách công việc các tỉnh còn lại. Theo lời yêu cầu của thực dân Pháp, Phan Thanh Giản đã ra lệnh cho nghĩa quân các nơi hạ khí giới, nạp súng đạn cho Pháp, nhưng không một ai nghe theo.

Riêng đối với nghĩa quân Trương Định, triều đình một mặt hạ lệnh bắt phải bãi binh, mặt khác hai lần hạ lệnh điều động chủ tướng đi nhậm chức lãnh binh ở An Giang, rồi Phú Yên. Phan Thanh Giản đã nhiều lần viết thư vừa mua chuộc, vừa dọa dẫm Trương Định phải bãi binh. Tướng giặc Bôna cũng đã nhiều lần nhờ người đưa thư dụ ông ra hàng.

Trương Định nhân phong soái (Ảnh VNTTX)

Được sự ủng hộ của quần chúng yêu nước, người anh hùng đã cương quyết ở lại cùng nghĩa quân sát cánh chiến đấu đến cùng. Ngọn cờ “Bình Tây đại nguyên soái” với khẩu hiệu “Phan - Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” (Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp bán nước triều đình bỏ dân) đã phấp phới tung bay khắp nơi gây thêm tin tưởng cho đồng bào bao nhiêu, lại càng làm cho bè lũ cướp nước và bán nước khiếp đảm bấy nhiêu! Trương Định cùng các chỉ huy nghĩa quân khác đã thừa lúc địch rút khỏi phần lớn các quận huyện, đồn bốt để vận động nhân dân đào hào, chặn sông, đắp chướng ngại vật trên các đường hành quân của chúng. Số nghĩa quân tăng lên rất nhanh, nhất là các đạo quân của Phạm Tuấn Phát ở Tân An, Bùi Huy Diệu ở Cần Đước, Nguyễn Văn Trung ở Tân Thành. Để rèn thêm vũ khí giết giặc, các lò rèn đã hoạt động suốt ngày đêm. Mặt khác, Trương Định còn liên lạc cả với một số nhà buôn Hoa kiều để mua súng đạn nước ngoài. Đó là chưa kể tới căn cứ Giao Loan được xây dựng sát tỉnh Bình Thuận miền Trung để dựa vào miền Trung mà tổ chức việc đúc súng ống. Quy mô của nghĩa quân lúc đó vì vậy khá lớn.

Giặc Pháp thừa biết rằng đầu não của phong trào kháng chiến là ở căn cứ Tân Hòa (Gò Công), muốn “bình định” được miền Nam không thể không chiếm lấy căn cứ đó. Cho nên, sau khi nhận được thêm viện binh vào đầu năm 1863, chúng đã mở cuộc tấn công lớn vào căn cứ Tân Hòa. Cuộc tấn công từ bốn phía bắt đầu từ sáng hôm 25 tháng 2. Nghĩa quân đã anh dũng chiến đấu suốt ba ngày liền. Nhưng sau khi hai kiện tướng Đặng Kim Chung và Lưu Bảo Đường bị trúng đạn chết, họ đã phải rút khỏi căn cứ để bảo toàn lực lượng. Địch chiếm được Tân Hòa ngày 28-2. Trương Định rút quân về lập căn cứ mới ở Phước Lộc, kiểm soát các tỉnh Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Đồng Tháp Mười và các vùng bưng giữa đường Sài Gòn – Trảng Bàng, Vàm Cỏ Đông, tức vùng bưng Tầm Lạc, tổng Cầu An Hạ.

Sau khi mất căn cứ Gò Công, Trương Định vẫn không ngừng hoạt động ở khắp mọi nơi, có khi ngay cả ở ngoại ô Sài Gòn. Nghĩa quân thường lọt vào các thành phố bị tạm chiếm để dán bố cáo có đóng dấu đồng của Bình Tây đại nguyên soái. Đồng bào các xã chuyền tay nhau đọc các bản hịch kêu gọi chống Pháp của Trương Định. Giặc Pháp và tay sai biết rõ Trương Định còn hoạt động thì chúng vẫn chưa thể ngồi yên được, nên đến ngày 25 tháng 9 năm 1863, chúng lại mở đợt tấn công mới. Lúc này, Trương Định đang đóng quân ở Lý Nhân. Khi địch kéo tới, nghĩa quân vừa chống trả lại vừa dời về căn cứ Tân Phước có địa thế hiểm yếu, căn cứ này nằm gần ven sông Soài Rạp, nơi hai con sông Vạm Cỏ gặp sông Đồng Nai và sông Bến Nghé. Lúc này, dưới quyền Trương Định còn hơn một vạn quân, ông đang ráo riết chuẩn bị đánh úp, thu phục lại Tân Hòa. Nhưng giặc Pháp có tay sai là Huỳnh Công Tấn (đội Tấn) - tên này trước theo nghĩa quân, sau bỏ về hàng Pháp - dẫn đường bí mật lọt vào căn cứ, bao vây Trương Định cùng các tùy tướng tại Tân Phước. Trong cuộc đấu súng quyết liệt vào hửng sáng ngày 20 tháng 8 năm 1864, Trương Định đã cùng các chiến sĩ của ông chiến đấu vô cùng anh dũng. Nhưng không may ông bị trúng đạn gẫy xương sống. Không muốn để giặc bắt, ông đã rút gươm tự sát.

Chủ tướng Trương Định hi sinh, phong trào kháng chiến của đồng bào miền Nam gặp khó khăn hơn nhiều. Một số nghĩa quân đã rút lên Đồng Tháp Mười lập căn cứ trong vùng rừng thưa cỏ rậm đầy nước, mộ thêm bình, trữ thêm lương, rèn thêm gươm giáo, tích thêm súng đạn, và thường lừa lúc giặc sơ hở, kéo ra đánh các vùng như Mĩ Tho, Tân An, Chợ Lớn... Một số kéo về bổ sung cho căn cứ Giao Loan giữa Bà Rịa và Bình Thuận. Một số khác họp lại dưới lá cờ của Nguyễn Hữu Huân hoạt động trong các vùng Gò Công, Tân An, Chợ Gạo, Bình Dương, hay của Võ Duy Dương hoạt động ở Đồng Tháp Mười... Con trai của Trương Định là Trương Quyền, mặc dù còn trẻ tuổi, cũng tiếp nối chí hướng của cha, kéo một toán nghĩa quân lên Tây Ninh phối hợp chặt chẽ với đồng bào Khơme và đồng bào Thượng để xây dựng cơ sở kháng chiến lâu dài trên một địa bàn rộng lớn từ Sài Gòn đến kinh đô nước Miên là Uđông.

Sau khi hòa ước nhục nhã năm 1862 được kí kết, làn sóng phản đối dâng lên rất cao trong nhân dân, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa bùng nổ. Nhưng triều đình phong kiến nhà Nguyễn vẫn ngoan ngoãn thi hành các điều khoản đã kí kết, mặc dù hòa ước đó chưa được chính phủ Pháp phê chuẩn.

Tháng 12 năm 1862, triều đình đã y hẹn trả năm đầu chiến phí. Đồng thời, cũng vào khoảng cuối năm đó, lại gửi thư vào Sài Gòn đề nghị với Pháp cho chuộc lại ba tỉnh mới mất. Nhưng thái độ của Pháp là dứt khoát phải chiếm dứt ba tỉnh để làm bàn đạp mở rộng chiếm đóng về sau. Cho nên, sau khi hòa ước được Chính phủ Pháp phê chuẩn, tháng 4 năm 1863, Bôna đã ra ngay Huế buộc Tự Đức phải kí chuẩn y hòa ước. Để xoa dịu phong trào chống Pháp lên mạnh trong nhân dân, và cũng để mua chuộc bọn vua quan triều đình, Pháp giao trả thành Vĩnh Long cho triều đình (25 - 5 -1863).

Tháng 6 năm 1863, triều đình Huế cử phái bộ do Phan Thanh Giản cầm đầu sang Pháp với nhiệm vụ xin sửa lại hòa ước 1862 và chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kì. Phái đoàn sang đến Pháp vào lúc tình hình rất thuận lợi để thương thuyết: nước Pháp đang bị thua to ở Mêhicô, dư luận nước Pháp phản đối các cuộc viễn chinh vừa tốn kém vừa nguy hiểm, và sẵn sàng điều đình với triều đình Huế với những điều khoản mới. Nhưng phần do thái độ của phái đoàn thiếu tự tin và cứng rắn, phần do sự phá hoại của cánh thực dân hiếu chiến, cuộc điều đình cuối cùng thất bại. Hòa ước (5 - 6 - 1862) vẫn được thi hành, và việc xin chuộc lại ba tỉnh không thành. Không những vậy, thực dân Pháp còn chuẩn bị ráo riết để khi có thời cơ, đánh chiếm luôn cả ba tỉnh miền Tây Nam Kì.

Thất bại thảm hại trong đường lối ngoại giao, nhưng triều đình phong kiến nhà Nguyễn vẫn chưa tỉnh; đã thế, còn ngày một đi sâu hơn vào con đường sâu mọt và phản động. Triều đình tuyệt nhiên không thấy biện pháp tích cực nhất và duy nhất đúng lúc bấy giờ là để thu hồi đất đai đã mất phải lo chỉnh đốn nội trị, bồi dưỡng sức dân, phát động chiến tranh yêu nước. Trái lại, chỉ lo dồn mọi lực lượng sẵn có trong tay vào việc đàn áp phong trào nông dân khởi nghĩa. Dân tình đói khổ, nạn đói, hạn hán xảy ra thường xuyên. Số dân lưu vong rất đông, sẵn sàng gia nhập bất cứ một phong trào nào với mong muốn đánh đổ triều đình phong kiến mục nát nhà Nguyễn để cải thiện cuộc sống bi đát của mình.

Mười hai vị sứ thần Việt Nam đi sứ tại kinh đô Pháp (Paris) năm 1863

Từ tháng 4 năm 1862, Nguyễn Thịnh (tục gọi là Cai Vàng) kéo cờ khởi nghĩa ở Bắc Ninh được nông dân nghèo theo rất đông. Tháng 9 năm đó, đồng bào Thổ dưới sự chỉ huy của Nông Hùng Thạc lại nổi dậy ở Tuyên Quang. Còn phải kể tới hoạt động của những toán phỉ từ Trung Quốc tràn sang, như Lý Đại Xương, Hoàng Nhị Vãn, Lưu Sĩ Anh hoành hành ở phía bắc Thái Nguyên; Lý Hợp Thắng ở Cao Bằng. Cuối cùng phải nói tới cuộc nối loạn của Tạ Văn Phụng do thực dân Pháp giật giây thông qua bàn tay của bọn gián điệp đội lốt thầy tu, cốt để triều đình bối rối vì phải lo đối phó với phong trào ngoài Bắc mà sơ hở và nhượng bộ chúng trong Nam. Phong trào chống triều đình phong kiến mục nát ngày một lan rộng trong cả nước. Đặc biệt, năm 1866, bùng nổ ngay tại kinh thành Huế, cuộc khởi nghĩa lớn của binh lính và thợ thuyền làm việc tại công trường xây dựng Khiêm Lăng của Tự Đức. Tham gia lãnh đạo có một nhóm sĩ phu và quan lại quý tộc như Đoàn Hữu Trưng, Trương Trọng Hòa, Tôn Thất Cúc bất bình với chính sách cắt đất đầu hàng giặc cửa Tự Đức.

Để đối phó lại, triều đình đã phải điều động nhiều danh tướng như Nguyễn Tri Phương, Trương Quốc Dụng, Vũ Trọng Bình đem quân đàn áp dữ dội, các phong trào ngoài Bắc. Riêng đối với cuộc khởi nghĩa ở Huế, triều đình càng ra tay tàn sát dữ dội. Kết quả là tất cả các cuộc khởi nghĩa trước sau đều bị thất bại, nhưng đã đánh dấu sự suy đốn cùng cực của triều Nguyễn, sự phẫn nộ cao độ của các tầng lớp nhân dân đối với giai cấp phong kiến thống trị.

3. Thực dân Pháp danh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kì

Trong lúc triều đình phong kiến chỉ lo dốc lực lượng vào việc đàn áp phong trào nông dân trong Trung ngoài Bắc và tìm cách phá hoại ngăn trở phong trào yêu nước chống Pháp của đồng bào miền Nam, thì thực dân Pháp ngày đêm ráo riết chuẩn bị âm mưu chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kì. Để đón đường cho việc thực hiện âm mưu này, năm 1868, thực dân Pháp đã thừa lúc phong kiến Miên sơ hở để chiếm đóng kinh thành Nam Vang (Phnom Penh), sau đó dùng áp lực quân sự buộc vua Nôrôđôm (Norodom) nhận quyền bảo hộ của chúng. Sau khi ba tỉnh miền Đông Nam Kì và nước Cao Miên lọt vào tay Pháp, số phận ba tỉnh miền Tây Nam Kì có thế xem là đã định đoạt.

Nhiều lần, chúng vu cáo quan lại triều đình ba tỉnh miên Tây ngấm ngầm ủng hộ hay tổ chức phong trào chống Pháp ở ba tỉnh miền Đông. Chúng còn tuyên bố duy trì các quan lại triều đình Huế ở miền Tây là nguy cơ thường trực cho “xứ Nam Kì thuộc Pháp” và láo xược báo trước cho đại diện triều đình Huế ở Vĩnh Long là Phan Thanh Giản rằng: một hành động cừu địch như vậy buộc chúng phải thôn tính các tỉnh còn lại. Nhưng triều đình Huế trước sau vẫn theo đuổi đến cùng chính sách cầu hòa chuộc đất, không những đã không tích cực đề phòng trước âm mưu địch, mà còn có nhiều hành động vô cùng có hại cho phong trào chống Pháp, như giải tán nghĩa quân miền Đông, nghiêm cấm nhân dân miền Tây ủng hộ miền Đông kháng chiến v.v...

Nắm chắc tình hình đó, Pháp càng muốn hành động gấp. Tháng 10 năm 1866, chúng cử phái viên ra Huế đưa thư thăm dò thái độ triều đình Huế, hứa hẹn nếu bằng lòng giao luôn ba tỉnh miền Tây thì chúng sẽ giúp triều đình tiễu trừ hết giặc biển và sẽ đình hết mọi khoản tiền bồi thường. Đến tháng 2 năm 1867, thực dân Pháp một lần nữa lại phái người ra Huế đòi trả tiền bồi thường chiến phí và nhượng ba tỉnh miền Tây cho chúng.

Tình hình nước Pháp lúc này cũng thuận lợi cho việc thực hiện âm mưu mở rộng xâm lược Việt Nam. Tên Giơnuiy trước kia từng cầm quân đánh Đà Nẵng và Gia Định đến nay đã giữ chức Bộ trưởng hải quân và thuộc địa rất tán đồng việc chiếm luôn ba tỉnh miền Tây để nắm được toàn bộ lưu vực sông Cửu Long từ Hạ Lào xuống. Cuộc chiến tranh ở Mêhicô (Bắc Mĩ) lúc này đã chấm dứt với sự thất bại hoàn toàn của Pháp nên bọn tư bản hiếu chiến Pháp muốn nhân cơ hội này tìm một thắng lợi dù nhỏ để đền bù vào tổn thất lớn lao vừa qua.

Sau khi chuẩn bị xong mọi mặt, sáng ngày 20 tháng 6 năm 1867, địch kéo tới dàn trận trước thành Vĩnh Long. Kinh lược sứ miền Tây Phan Thanh Giản và Trấn thủ Vĩnh Long Trương Văn Uyển vội xuống tàu địch để thương thuyết. Nhưng kẻ thù quyết tâm lấn tới, đưa thư buộc phải nộp thành không điều kiện. Trong tình thế thân cô thế cô, cuối cùng Phan Thanh Giản phải nộp thành cho chúng không một chút kháng cự. Theo ý Pháp, ông còn viết thư cho quan quân hai tỉnh An Giang, Hà Tiên bảo nộp thành để “tránh khỏi mọi sự đổ máu vô ích”!. Cho nên sau khi lấy xong thành Vĩnh Long, địch chia quân chiến tỉnh lị An Giang là Châu Đốc (21 tháng 6), rồi chiếm luôn Hà Tiên (24-6) không tốn một viên đạn. Các quan lại triều đình ở hai nơi vốn sợ Pháp nên sẵn sàng nộp thành cho giặc mặc dù quân dân ở cả hai nơi đều chống giặc đến cùng.

Lấy xong ba tỉnh miền Tây, thực dân Pháp cho người ra Huế báo sự việc đã rồi. Triều đình không hề phản ứng, mà chỉ xin đổi ba tỉnh miền Tây mới mất để lấy lại tỉnh Biên Hòa, nhưng không được Pháp chấp nhận. Còn Phan Thanh Giản thì sau khi để mất ba tỉnh đã nhịn ăn trong 17 ngày, rồi uống thuốc độc chết.

Sau khi ba tỉnh miền Tây đã lọt vào tay giặc Pháp, phong trào kháng chiến trong nhân dân lên rất mạnh. Một số văn thân sĩ phu yêu nước chống Pháp một lần nữa lại tìm cách vượt biển ra vùng Bình Thuận ở cực Nam - Trung Kì lập ra Đồng Châu xã do Nguyễn Thông cầm đầu để nương tựa vào nhau, lập căn cứ Tánh Linh để mưu cuộc kháng chiến lâu dài về sau. Một số khác đã cương quyết ở lại bám đất bám dân, tham gia phong trào chống Pháp. Con trai của Trương Định là Trương Quyền đã kéo quân lên xây dựng cơ sở kháng chiến ở vùng Tháp Mười - Tây Ninh, liên minh với nhà sư yêu nước người Miên là Pucômbô chống Pháp quyết liệt từ 1866 đến 1868. Năm 1867, Phan Tôn và Phan Liêm (hai con trai của Phan Thanh Giản) đã cầm đầu nghĩa quần nổi dậy suốt một vùng rộng lớn bao gồm các tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà Vinh. Cùng năm đó, Nguyễn Trung Trực lập căn cứ ở Hòn Chông (Rạch Giá). Nguyễn Hữu Huân được giặc Pháp thả từ hải đảo về lại tiếp tục khởi nghĩa ở Tân An và Mĩ Tho năm 1875. Ngoài ra còn có Thân Văn Nhíp ở Mĩ Tho, anh em Đỗ Thừa Long, Đỗ Thừa Tự ở Tân An và Rạch Giá trong năm 1868; Phan Tòng ở miền Ba Tri (Bến Tre) và Giồng Gạch từ năm 1869 đến năm 1870; Lê Công Thành, Phạm Văn Đồng và Âu Dương Lân, ở Vĩnh Long, Long Xuyên, Cần Thơ năm 1872; Trần Văn Thành ở Bãi Thưa giữa các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, Rạch Giá, Long Xuyên năm 1873; Nguyễn Xuân Phụng, Đoàn Công Bửu ở Trà Vinh năm 1875; Lê Tấn Kế, Trần Bình ở Ba Động (cũng thuộc Trà Vinh) năm 1875; cho đến cuối cùng là Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Bường (Đề Bường) lập căn cứ Bà Điểm, Hóc Môn năm 1885.

Như vậy, Nam Bộ bị thực dân Pháp kéo tới xâm chiếm trước tiên nên đồng bào miền Nam cũng đã trước tiên đứng lên anh dũng đánh giặc giữ nước.

Phong trào chống Pháp của Nam Bộ từ 1859 về sau kéo dài hơn hai mươi năm đã chứng minh hùng hồn tinh thần chiến đấu oanh liệt và bền bỉ của nhân dân Nam Bộ. Bắt đầu dấy lên ở miền Đông, phong trào sau lan rộng khắp Nam Bộ và đã nhanh chóng biến thành cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn, sôi nổi và mạnh mẽ lạ thường, buộc chính kẻ thù phải khâm phục. Rõ ràng đây là một phong trào bắt nguồn từ lòng căm thù vô hạn của quần chúng nhân dân đối với giặc ngoại xâm, nguyện hi sinh tất cả và chiến đấu đến cùng để cứu nước cứu dân. Động lực kháng chiến chủ yếu lúc bấy giờ là đông đảo nông dân Nam Bộ, những người “dân ấp, dân lân”:

Cui cút làm ăn,

Lo toan nghèo khó,

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung[1]

Cho biết ruộng trâu, ở theo làng họ.

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm,

Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó[2]

Khi Tổ quốc lâm nguy, những người dân bình thường giàu lòng yêu nước ghét giặc đã sẵn sàng hành động không một chút do dự, với khí thế dũng cảm phi thường:

Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi[3]

Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gỗ.[4]

Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;

Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

Chi nhọc quan quản giống trống kì, trống giục, đạp rào lưới tới, coi giặc cũng như không;

Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có!

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma – ní[5] hồn kinh!

Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”[6].

Các sĩ phu văn thân hồi đó đã sống cùng nhân dân nên có tinh thần yêu nước chống xâm lược mạnh mẽ.

Cuối cùng, vì bị triều đình cố tình bỏ rơi hay tìm cách ngăn trở phá hoại, các cuộc khởi nghĩa đều lần lượt thất bại. Nhưng phong trào đấu tranh vũ trang yêu nước chống Pháp trong nhân dân miền Nam không bao giờ bị dập tắt bất chấp muôn vàn thủ đoạn đàn áp man rợ của quân thù, đúng như câu nói của Nguyễn Trung Trực hiên ngang trả lời giặc Pháp khi chúng tìm cách dụ dỗ mua chuộc ông: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây”.

 

 

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/4640-02-633921677499841250/Viet-Nam-doi-dien-voi-nguy-co-thuc-dan-Ph...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận