Văn hóa – Xã hội
1. Tình hình xã hội
Những sự kiện lớn về chính trị, kinh tế của thế kỉ XV đã làm thay đổi ít nhiều cấu tạo giai cấp trong xã hội. Hai giai cấp chính: địa chủ phong kiến và nông dân, ngày càng xác lập. Giai cấp địa chủ phong kiến được chia thành hai tầng lớp chính: quý tộc, quan chức trung cao cấp và địa chủ thường. Bộ phận quý tộc dòng họ vua, tuy được ban cấp nhiều ruộng đất thế nghiệp vẫn không cấu thành một lực lượng có điền trang và thế lực chính trị ở địa phương. Một số lớn công thần khai quốc được ban họ vua (quốc tính) song không hình thành một lớp quý tộc. Sang thời Thánh Tông, họ dần dần trở lại với họ gốc của mình. Các quan lại trung, cao cấp do được ban nhiều ruộng lộc mà trở thành địa chủ, song không cách biệt với các địa chủ thường hoặc nhân dân và phần lớn xuất thân khoa cử. Trong lúc đó, tầng lớp địa chủ thường hầu như rải ra ở các làng, xã, dần dần trở thành những người chủ về mọi mặt.
Giai cấp nông dân chiếm tuyệt đại đa số cư dân, sống chủ yếu ở các làng xã bao gồm nông dân tư hữu, tá điền và một ít nông nô. Phần lớn nông dân được chia ruộng công, cày cấy sinh sống, làm nghĩa vụ cho nhà nước và ít nhiều được học hành.
Bấy giờ ruộng thượng đẳng nộp thuế cho nhà nước 60 thăng thóc và 6 tiền/mẫu.
Ruộng trung đẳng nộp thuế cho nhà nước 40 thăng thóc và 4 tiền/mẫu
Ruộng hạ đẳng nộp thuế cho nhà nước 20 thăng thóc và 3 tiền/mẫu
(1 thăng = 1,2 - 1,4 kg)
Thuế nhân đinh: 8 tiền - 1 quan 2 tiền/năm.
Được sự cho phép của nhà nước, những nông dân nghèo, không ruộng đất có thể họp nhau đi khai hoang xây dựng làng xóm, đồng ruộng mới. Đất đai khai phá được, họ chia nhau làm ruộng tư (bấy giờ nhà nước chưa đánh thuế ruộng tư), dành một phần làm ruộng công nộp thuế.
Tầng lớp thợ thủ công và thương nhân ngày càng đông hơn, nhưng chưa trở thành một lực lượng lớn mạnh. Họ bị xem là những kẻ “bỏ gốc, theo ngọn”, ngoại trừ dân các làng thủ công chuyên nghiệp hoặc dân phường ở Thăng Long. Trong Thập giới cô hồn quốc ngữ văn của Lê Thánh Tông có câu nói về thương nhân:
Lừa đảo lọ xem nào có khác
Người ta lại bán được người ta.
Nô tì vẫn còn là một tầng lớp đáng kể trong xã hội. Số đông trong họ là người Hoa hoặc các dân tộc ít người. Pháp luật nhà Lê hạn chế nghiêm ngặt việc bán mình làm nô hoặc bức dân đinh tự do làm nô tì.
Điều 168 của “Lê triều hình luật” quy định: “vương công, thế gia tự tiện thích chữ vào dân đinh làm gia nô (sung công, thu danh tịch cũng vậy) một người thì xử biếm 3 tư, nếu là quan nhất, nhị phẩm trở lên thì phạt tiền 100 quan, cứ 3 người tăng 1 bậc, tội chỉ đến biếm 5 tư, phạt tiền 500 quan”.
Cuộc đấu tranh của nô tì (bỏ trốn) và các lệnh cấm bắt, mua bán người thiểu số làm nô đã làm giảm dần số lượng nô tì và cuối cùng xóa bỏ nó. Nhờ sự nỗ lực của nhân dân và nhà nước, nền kinh tế nhanh chóng được phục hồi rồi phát triển. Dân số ngày càng tăng, nhà nước đã cho phép các làng có trên 500 hộ có thể tách ra, thành lập thêm làng mới. Tất nhiên, gió bão, hạn hán, mất mùa đói kém là những tai họa tự nhiên không tránh khỏi, nhưng theo ghi chép của sử cũ, số lượng không nhiều. Cuộc sống của nhân dân nói chung ổn định, thanh bình. Nền độc lập và thống nhất của nước Đại Việt được củng cố và có thể nói, bấy giờ Đại Việt là nước cường thịnh nhất của cả khu vực nam Trung Quốc.
2. Tình hình văn hóa
a. Giáo dục, khoa cử
Ngay từ năm 1428, lên ngôi Hoàng đế, Lê Lợi đã hạ lệnh dựng lại Quốc tử giám ở kinh đô, mở trường ở các lộ, ban chiếu “cầu hiền”. Giáo dục được mở rộng cho con em mọi tầng lớp nhân dân. Các giáo quan được chọn lựa cẩn thận. Năm 1435, dưới triều Thái Tông, các giáo quan ở kinh đô và các lộ được tập hợp về kinh để khảo hạch, ai yếu kém thì bị sa thải.
Tiến thêm một bước, năm 1467, Thánh Tông đặt chứa bác sĩ dạy 5 kinh, mỗi người nghiên cứu một kinh để giảng dạy. Hàng năm, nhà nước cho in và ban cho các trường ở phủ các sách Ngũ kinh, Tứ thư, Đăng khoa lục, Ngọc đường văn phạm, Văn kiến thông khảo, Văn tuyển v.v.. Thánh Tông cũng cho xây dựng lại Văn miếu, mở rộng Thái học viện, mở thêm Tú Lâm cục và Sùng văn quán để bồi dưỡng con em quý tộc, quan lại cao cấp... Nội dung học tập được quy định đầy đủ, rõ ràng, các học quan được tuyển chọn cẩn thận.
Năm 1429, Thái Tổ mở khoa thi minh kinh ở kinh đô, cho phép mọi người có học đều được tham dự, Thái Tông cho các quan bàn định thể lệ thi cử, dự kiến đến năm 1438 mở khoa thi Hương ở địa phương, năm sau đó mở khoa thi Hội ở kinh đô. Từ đó cứ 3 năm mở một kì thi, ai đỗ thi Hội đều được phong là Tiến sĩ xuất thân. Lại định rõ nội dung của 4 kì thi. Tuy nhiên, phải đến năm 1442, nhà nước mới mở được khoa thi Hội đầu tiên, lấy 33 người đỗ (trong đó Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên, Nguyễn Như Đỗ đỗ Bảng nhãn, Lương Như Hộc đỗ Thám hoa). Bên cạnh các kì thi Đại khoa này, nhà Lê cũng mở các khoa thi Lại viên với các môn toán và viết chữ.
Năm 1462, Thánh Tông đặt lệ “Bảo kết thi Hương”, quy định rõ thủ tục giấy tờ của những người ứng thí. Sau đó, cứ 3 năm, nhà nước mở 1 kì thi.
Lời kí trên bia tiến sĩ ghi: “Việc chính trị lớn của đế vương không gì cần bằng nhân tài”. Lời dụ của vua Hiến Tông có đoạn: “Nhân tài là nguyên khí của nhà nước, nguyên khí mạnh thì trị đạo mới thịnh. Khoa mục là đường thẳng của quan trường, đường thẳng mở thì chân nho mới có”.
Nhà Lê cũng khuyến khích việc học tập thi cử bằng cách đặt lệ xướng danh, treo bảng, ban mũ áo, phẩm tước, dựng bia tiến sĩ và lệ vinh quy bái tổ Những biện pháp nói trên đã góp phần quan trọng phát triển giáo dục trong nước. Theo sử cũ, khoa thi Hội năm 1463 có 1.400 thí sinh, năm 1514, số ứng thí lên đến 5700 người.
Tính riêng trong 38 năm dưới triều vua Lê Thánh Tông, nhà nước đã mở 12 khoa thi Hội, lấy đỗ 501 tiến sĩ, trong đó có 9 trạng nguyên. Có thể xem thời Lê sơ, đặc biệt là triều vua Lê Thánh Tông là thời phát triển cực thịnh của giáo dục thi cử phong kiến.
Nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét: “khoa cử các đời, thịnh nhất là đời Hồng Đức (1470 - 1497). Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau càng không thể theo kịp... Trong nước không để sót nhân tài, triều đình không dùng lầm người kém”.
Nội dung giáo dục chủ yếu là Nho giáo qua các sách Tứ thư, Ngũ kinh, Bắc sử, Thơ phú... nhưng qua các kì thi Văn sách hay thi Đình, người học trình bày được năng lực chính trị và sự hiểu biết thực tiễn của mình. Từ giáo dục, khoa cử đã xuất hiện nhiều nhà nho, nhà chính trị, ngoại giao, nhà sử học nổi tiếng làm rạng danh đất nước một thời.
b) Tôn giáo, tín ngưỡng
Từ cuối thời Trần, Nho giáo đã lấn át Phật giáo. Ở thời Lê sơ, Nho giáo chiếm địa vị độc tôn. Sự phát triển của giáo dục góp phần quan trọng vào việc phổ cập Nho giáo. Thêm vào đó, nhà nước thường xuyên ban hành các điều lệnh về lễ giáo trong nhân dân (như về hôn nhân, quan hệ vợ chồng, tang lễ...) buộc các quan chức địa phương phải giảng giải và theo dõi việc thực hiện. Giáo lí nhà nho cũng được đưa vào các huấn điều (24 huấn điều của Lê Thánh Tông) và các xã trưởng có nhiệm vụ hàng năm đọc và giảng cho xã dân. Nhiều quy định khắt khe của Nho giáo cũng được đưa vào luật Hồng Đức.
Tuy nhiên, nhân dân không dễ dàng chấp nhận các giáo điều phong kiến Nho giáo. Năm 1485, Thánh Tông vẫn dụ các quan: “Trẫm từ khi lên ngôi đến giờ, phàm những phép dạy dân nên phong tục tốt... không cái gì là không nói ra trong lời huấn dụ... thế mà... tục dân vẫn chưa được tốt”. Trong hàng ngũ quan lại, nho sĩ, những truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc vẫn chi phối cuộc sống tinh thần của nhiều người, điển hình là Nguyễn Trãi.
Trước đây, bọn phong kiến nhà Minh trong thời gian đô hộ nước ta đã lợi dụng Phật giáo và Đạo giáo để mê hoặc nhân dân. Chúng truyền bá các hình thức mê tín, tà thuật, phù phép, đào tạo hàng loạt thuật sĩ, đạo sĩ, tăng nhân chuyên sống bằng nghề ma chay, bói toán. Các chùa chiền mất dần ý nghĩa trang nghiêm, ruộng đất nhà chùa cũng tản mát, hoang hóa. Lên ngôi hoàng đế, Lê Lợi đặt lệ thi tăng nhân, buộc các nhà sư phải trên 50 tuổi, thông hiểu kinh phật và qua một kì khảo hạch mới được nhà nước công nhận, ngoài ra đều phải hoàn tục.
Lê Thánh Tông, hạn chế Phật giáo và Đạo giáo chặt chẽ hơn. Năm 1461, nhà nước cấm quan lại, nhân dân không được xây thêm chùa quán mới, tự tiện đúc chuông, tô tượng. Hoạt động của bọn thầy cúng, thầy bói, đạo sĩ bị ngăn cấm. Các nhà sư uống rượu, ăn thịt đều bị bắt hoàn tục, phạm tội dâm ô thì bị lưu đày. Năm 1471, Thánh Tông đặt ti Tăng lục và Đạo lục chuyên trách Phật giáo và Đạo giáo. Một số chùa quán được tu bổ.
Năm 1449, nhà Lê bắt đầu lập đền thờ Đô đại thành hoàng ở kinh sư cùng đền thờ thần gió, mây, mưa, sấm để hàng năm cúng tế. Năm đó, Nhân Tông cũng cho tổ chức ngày hội chiến thắng, ban yến cho các quan, làm khúc nhạc “Bình Ngô phá trận” vừa tấu vừa múa “công thần có người cảm xúc đến phát khóc”. Ngày hội được tiếp tục trong nhiều năm sau.
Điện Lam Sơn được xây dựng và hàng năm, các vua Lê ngự về cúng tế tổ tiên. Lam Kinh cũng là nơi dựng lăng của các vua thời Lê sơ. Trong nhân dân, tục thờ cúng các anh hùng có công với nước được phổ cập. Những người có công trong khởi nghĩa Lam Sơn đều được nhân dân thờ phụng. Tục thờ tổ tiên phổ biến khắp nơi: Các dòng họ có công với làng, với nước đều xây đền thờ, ghi chép gia phả, cúng tế hàng năm.
c) Văn học, sử học
Văn học chữ Hán tiếp tục chiếm ưu thế, xuất hiện hàng loạt tập văn thơ nổi tiếng. Tập “Quân trung từ mệnh “gồm trên 50 bức thư do Nguyễn Trãi thay lời Lê Lợi viết gửi bọn quan tướng nhà Minh với nội dung đấu tranh ngoại giao quan trọng, Bản Đại cáo bình Ngô là một áng anh hùng ca tổng kết một cách tài tình cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, đồng thời toát lên niềm tự hào dân tộc cao quý, chủ nghĩa yêu nước sáng ngời với tinh thần nhân nghĩa “lấy chí nhân thay cường bạo, đem đại nghĩa thắng hung tàn” của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Bên cạnh đó là hàng loạt thơ văn như Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Lam sơn thực lục của Nguyễn Trãi, Phú Xương Giang của Lý Tử Tấn, Phú Lam Sơn của Vũ Mộng Nguyên v.v... Quỳnh uyển cửu ca của hội Tao Đàn (Tao Đàn nhị thập bát tú do Lê Thánh Tông thành lập và làm nguyên soái), Hồng đức quốc âm thi tập, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, Xuân vân thi tập của Lê Thánh Tông, Trừ liêu tập của Nguyễn Trực, Lã đường di tập của Thái Thuận, Cửu đài tập của Nguyễn Húc v.v... Một thể loại mới được nhiều người biên soạn là các sưu tập thơ văn như Quần hiền phú tập của Hoàng Sần Phu, Thi gia tinh tuyển của Dương Đức Nhan và Lương Như Hộc, Trích diễm thi tập của Hoàng Đức Lương, Quốc triều chương biểu của Trần Văn Mô v.v...
Như vậy, bên cạnh thơ văn chữ Hán ít nhiều nối tiếp tinh thần dân tộc của thời Lý - Trần, văn học chữ Nôm đã giữ một vị trí quan trọng, không chỉ các nho sĩ, quan lại sáng tác thơ Nôm mà nhà vua cũng xem chữ Nôm là một phương tiện quan trọng thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình. Tinh thần dân tộc đó cũng biểu hiện cả trong việc sưu tập thơ văn xưa, một mong muốn khẳng định “Duy ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang”.
Về sử học, từ sớm nhà sử học Phan Phu Tiên đã soạn Đại Việt sử kí tục biên gồm 10 quyển, nối tiếp Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu, mở đầu với sự thành lập nhà Trần và kết thúc với việc quân Minh rút về nước (1427). Hiện nay bộ sử này đã mất.
Trên cơ sở các bộ sử cũ, “tham khảo thêm Bắc sử, dã sử, các bản truyện, chí cùng những điều đã được nghe truyền, tra xét, so sánh”, năm 1479 sử quan Ngô Sĩ Liên soạn Đại Việt sử kí toàn thư gồm 15 tập, chia thành 2 phần: Ngoại kí chép từ họ Hồng Bàng đến 12 sứ quân (5 tập), Bản kí chép từ nhà Đinh đến Lê Lợi lên ngôi hoàng đế (10 quyển). Cùng với hai bộ sử chính thống này, có bộ Lam Sơn thục lục” của Nguyễn Trãi ghi lại toàn bộ quá trình chiến đấu giải phóng Tổ quốc của nghĩa quân Lam Sơn, Việt giám thông khảo của Vũ Quỳnh, Việt giám thông khảo tổng luận của Lê Tung, Đại Việt lịch đại sử kí” và tập thơ Việt giám vịnh sử của Đặng Minh Khiêm.
Ngoài các công trình văn học, sử học còn có nhiều công trình khoa học khác rất có giá trị như: Thiên nam dư hạ tập (100 quyển) ghi lại toàn bộ chế độ, luật lệ, văn thư, điển lễ của nhà Lê (nay chỉ còn 4-5 quyển), Hoàng triều quan chế, Dư địa chí, một tập sách địa lí lịch sử do Nguyễn Trãi soạn, An nam hình thắng đồ của Đàm Văn Lễ viết về địa lí Đại Việt, Hồng Đức bản đồ. Về y học có Bản thảo thực vật toản yếu của Phan Phu Tiên nghiên cứu về thuốc nam và cách phòng bệnh, Bảo anh lương phượng của Nguyễn Trực, dạy cách giữ gìn sức khỏe cho trẻ em.
Về toán học có Đại thành toán pháp của Lương Thế Vinh và Lập thành toán pháp của Vũ Hựu.
Một công trình lịch sử nghệ thuật sân khấu đáng quý là Hí phương phả lục của Lương Thế Vinh cũng được lưu truyền.
d) Nghệ thuật
Thời Lê sơ, âm nhạc tương đối phát triển. Năm 1487, triều đình cử Nguyễn Trãi và Lương Đăng chế định nhã nhạc (dùng trong các nghi lễ của nhà nước). Nhưng do bất đồng ý kiến, Nguyễn Trãi xin từ. Lương Đăng dựa theo nhạc xưa và nhạc nước ngoài, chia nhã nhạc thành 8 loại (nhạc tế, nhạc lễ, nhạc yến tiệc, nhạc trong cung...) với các nhạc cụ như: trống, khánh, chuông, đàn, sinh, tiêu, quản, thược v.v... Thời Thánh Tông, Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Lương Thế Vinh được giao việc nghiên cứu nhạc nước ngoài đế chế định lại lễ nhạc trong triều gồm 2 bộ Đồng văn, chuyên về luyện tập nhạc khí và bộ Nhã nhạc chuyên về ca hát. Âm nhạc dân gian bị đưa ra ngoài triều, gọi là tục nhạc, do ti Giáo phường trông coi. Bấy giờ nổi lên bản nhạc “Bình Ngô phá trận”, được tấu và múa vào những ngày hội mừng chiến thắng.
Trong nhân dân, các điệu múa thời xưa vẫn tiếp tục phát triển. Bên cạnh đó, nghệ thuật tuồng, chèo ngày càng phổ biến, thường được tổ chức vào các ngày hội, lễ, vui đầu năm v.v... Tuy nhiên, giai cấp thống trị xem thường nghề hát xướng, cho họ thuộc loại “xướng ca vô loài”, khuyên răn mọi người “không nên tập nghề hát xướng, hại đến phong tục” - Âm nhạc, ca múa không có điều kiện đúc kết, phát triển.
Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc ở thời Lê sơ không phát triển. Các công trình Phật giáo như chùa chiền, chuông tượng bị tàn phá nhiều ở những năm cuối Trần và đô hộ Minh, không có điều kiện phục hồi do sự hạn chế của nhà nước. Các vua Lê không chủ trương xây dựng thêm nhiều công trình mới. Kinh thành được xây dựng lại đàng hoàng hơn, Văn miếu được mở rộng. Cung điện nhà vua và dinh thự các cơ quan được sửa chữa, xây dựng thêm nhưng dấu vết hiện nay không còn. Tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc đương thời là những di tích của điện Lam Kinh.
Hiện nay chỉ còn lại một vài bức tường, nền cột, bậc thêm và một số con vật bằng đá. Cung điện được xây dựng trên một khu đất hình chữ nhật dài 314m, rộng 254m, có tường thành bao bọc dày 1m. Trong các bia đá nổi lên bia Vĩnh Lăng (về Lê Lợi) cao 2m79, rộng 1m92 dựng trên lưng một con rùa đá dài 3m46, rộng 1m94. Hình rồng chạy 2 bên bia theo môtip hoa văn rồng giun.
Điêu khắc ở các công trình cuối thế kỉ XV - đầu thế kỉ XVI chuyển dần sang phong cách mới, hình khối đồ sộ, kĩ thuật điêu luyện.
Cùng với tư tưởng độc tôn Nho giáo của giai cấp thống trị, nền văn hóa Đại Việt đương thời cũng giảm bớt tính dân gian.

Đền thờ Lê Lợi

Nguyễn Trãi