Bão Cát Chương 8

Chương 8
Ngày 2 tháng 12, 8 giờ 24 phút tối Thành phố cổ, Muscat

- Safia đang ở chỗ quái nào nhỉ? -Omahavừa nhìn đồng hồ vừa hỏi.

Đã quá thời gian ấn định tới 10 phút để mọi người phải có mặt ăn tối. Người đàn bà mà anh ta từng biết trước kia rất đúng giờ, một điều nàng học được từ thời còn đi học ởOxford. Sự quan tâm của Safia đến chi tiết đó đã khiến nàng trở thành một nhà quản lý hoàn thiện.

- Lẽ ra bây giờ cô ấy phải có mặt ở đây rồi chứ. - Anh ta
lẩm bẩm.

- Tôi đã cho chuẩn bị bồn tắm cho cậu ấy. - Kara bước vào, thông báo. - Một người hầu vừa mang quần áo sạch lên.

Kara trông thật lộng lẫy trong chiếc áo dài truyền thống của Oman, tà áo lụa đỏ tung bay óng ánh chỉ thêu vàng dưới gấu.


Cô ta không mang gì trên đầu, chân đi đôi dép Prada. Như mọi khi, đối với Kara luôn có một ranh giới giữa truyền thống và thời trang.

- Đi tắm ư? -Omahalầu bầu. - Vậy có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ gặp cô ta trong buổi tối hôm nay.

Safia thích nước với đủ kiểu: vòi sen, đài phun nước, vòi nước chảy, nhúng người vào suối và hồ nhưng đặc biệt là ngâm mình trong bồn tắm. Anh thường trêu chọc nàng, cắt nghĩa điều đó vì quá khứ của nàng gắn liền với sa mạc. Bạn có thể đưa cô ta từ sa mạc ra nhưng không bao giờ tách sa mạc khỏi cô ấy.

Với suy nghĩ đó, những kỷ niệm không muốn cứ ập đến, những buổi tắm kéo dài, hai thân hình quặp vào nhau, tiếng cười, tiếng hổn hển, hơi nước và làn da.

- Khi nào xong cô ấy sẽ tới. Chúng ta sẽ ăn một bữa ăn nhẹ kiểuOmantrước khi lên đường trong vòng vài tiếng đồng hồ nữa. Xin mời ngồi.

Mọi người về ghế của mình xếp theo từng hàng. Painter và Coral ngồi cùng dãy với Clay, anh chàng sinh viên tốt nghiệp của Safia. Danny vàOmahangồi cạnh nhau. Cuối cùng, Kara ngồi ghế chủ tiệc ở đầu bàn.

Theo một hiệu lệnh không biết từ đâu, đám phục vụ tiến vào từ hành lang phía bếp qua các cửa xoay, lễ mễ bê khay đựng đồ ăn, vài người đội lên đầu một chiếc lá cọ. Còn những người khác đẩy xe đồ ăn.

Đặt những chiếc khay lên bàn, mở nắp rồi đám nhân viên khẽ khàng lui lại phía sau. Thật hoàn hảo.

Kara lần lượt giới thiệu từng món ăn khi mỗi chiếc khay được mở ra, từ thịt cừu với cơm, món lợn xông khói, tôm hùm chiên với chanh... kể cả món ca-ri. Ở giữa là vài đĩa bánh mỳ. Đối vớiOmaha, đó là cảnh tượng quen thuộc với loại bánh mỳ rất đặc trưng củaOman, được nướng trên lá cọ đốt cháy.

 

Rồi thì Kara cũng xong phần giới thiệu.

- Và cuối cùng là bánh mật ong, món ăn khoái khẩu của tôi, có thêm gia vị si-rô của một loại cây bản địa.

- Thế không có mắt cừu à? -Omahalẩm bẩm.

Kara nghe thấy.

- Chuyện đó có thể thu xếp được.

Anh ta giơ tay lên vẻ nhân nhượng.

- Lúc này thì tôi chịu rồi.

Kara vẫy tay trước bàn ăn.

- Theo phong tục của ngườiOmanlà tự phục vụ. Mời mọi người tự nhiên.

Sau khi cô ta nói xong, mọi người ai nấy đều tay cầm dao, nĩa, thìa...Omaharót cho mình một ly cà phê từ chiếc bình cao cổ. Cà phêOmanrất đặc. Người A-rập có thể từ chối rượu nhưng họ không có ý kiến gì về thói nghiền cà phê.Omahauống một ngụm rồi thở dài. Vị đắng của cà phê đã được hương quế làm dịu đi, tạo nên một mùi vị đặc biệt.

Câu chuyện chủ yếu xoay quanh chất lượng các món ăn. Hầu như mọi người đều ngạc nhiên trước độ mềm của thịt và các loại gia vị. Clay tỏ vẻ rất hài lòng khi chất đầy đĩa bánh mật ong. Kara chỉ lựa vài món, nhìn đám phục vụ, hướng dẫn họ bằng cách gật hoặc lắc đầu.

Omahavẫn quan sát cô ta trong khi nhâm nhi ly cà phê.

Trông cô gầy hơn lần anh gặp trước. Đôi mắt của Kara vẫn sáng lấp lánh nhưng lúc này trông có vẻ mệt mỏi. Anh biết cô đã bỏ biết bao công sức cho chuyến đi này. Và anh biết tại sao. Safia và anh đã cố giữ một vài điều bí mật... ít ra từ lúc trước. Anh biết hết về Reginald Kensington. Tấm chân dung của ông trên bức tường phía sau vẫn chăm chú theo dõi Kara. Liệu cô ta có nhìn thấy đôi mắt đó không?

Omahahình dung nếu như cha mình biến mất trong hoang mạc, lặn một hơi khỏi thế giới này thì chắc mình cũng chả hơn gì. Nhưng tạ ơn Chúa, điều đó đòi hỏi anh phải có óc tưởng tượng mới có thể xác định được. Ông bố anh, năm nay 82 tuổi vẫn đang làm việc ở trang trại gia đình tậnNebraska. Ông cụ ăn bốn quả trứng, một lát thịt ướp, những lát bánh mỳ kẹp bơ và hút một điếu xì gà mỗi tối. Tôi thuộc vào loại giống số 1, ông cụ vẫn vênh vang, giống như các con trai tôi.

Trong khiOmahanghĩ về gia đình, giọng nói sắc sảo của cậu em lại thu hút sự chú ý của Kara. Danny, tay cầm dĩa đang kể lại chi tiết việc thoát khỏi vụ bắt cóc lúc chiều.Omahanhận ra sự hứng khởi khi nghe anh chàng kể lại câu chuyện. Anh lắc đầu nhận ra vẻ huênh hoang từ cậu em trai. Đã có thời anh cũng như vậy. Tuổi thanh niên mà.

Không còn nữa.

Anh nhìn xuống đôi bàn tay mình. Chúng đã chai sạn giống như tay cha anh. Anh lắng nghe câu chuyện của Danny. Đó không phải là một vụ phiêu lưu như cậu em kể mà là một vụ mua bán chết người.

Một giọng nói chen vào.

- Một người phụ nữ ư? - Painter Crowe chau mày hỏi. - Một trong những người định bắt cóc các anh là phụ nữ à?

Danny gật đầu.

- Tôi không nhìn thấy cô ả, nhưng anh tôi có thấy.

Omahathấy đôi mắt của người đàn ông kia quay về phía anh, một màu xanh lơ sắc sảo. Đôi lông mày anh ta nhíu lại tập trung như một tia la-ze chiếu vào tâm điểm.

- Chuyện đó có đúng không? - Crowe hỏi.

Omahanhún vai, hơi ngạc nhiên bởi sự quá chú ý của
anh ta.

- Cô ta trông như thế nào?

 

Câu cuối cùng được hỏi quá nhanh.Omahatừ tốn trả lời, nhìn hai người kia.

- Cô ta cũng cao lớn như tôi. Theo cách cô ta vận động, tôi chắc là đã được huấn luyện về quân sự.

Painter liếc sang nhìn người đồng nghiệp. Một thông điệp ngầm hình như đã được trao đổi giữa họ. Họ biết điều gì đó nhưng không nói ra. Nhà khoa học lại hỏi thẳngOmaha.

- Thế nhận dạng cô ta ra sao?

- Tóc đen và mắt xanh. Gốc Bê-đoanh. Cô ta còn có một chấm đỏ nhỏ ở một bên mắt, mắt trái...

- Người Bê-đoanh à? - Painter nhắc lại. - Liệu anh có chắc không?

- Tôi đã làm việc ở khu vực này 15 năm qua. Tôi có thể nhận biết được bất cứ ai thuộc các bộ lạc ở đây.

- Vậy người đàn bà đó thuộc bộ tộc nào?

- Kể ra cũng khó nói. Tôi không nhìn kỹ được cô ta.

Painter tựa vào lưng ghế, rõ ràng sự căng thẳng trong anh như muốn nổ tung. Đồng nghiệp của anh vớ lấy một cái bánh mật ong, đặt lên đĩa, phớt lờ điều đó. Không ai trong họ nhìn vào người kia lúc này nhưng có cái gì đó đã được nhắc đến.

- Vậy tại sao lại quan tâm? - Kara hỏi, nói lên suy nghĩ củaOmaha.

Painter nhún vai.

- Nếu chỉ là một vụ bắt cóc tình cờ để đòi tiền chuộc thì chả có vấn đề gì. Nhưng nếu như không ... nếu liên quan đến vụ lộn xộn ở Bảo tàng theo cách nào đó, tôi nghĩ chúng ta cần biết ai đã để mắt tới.

Giọng của anh nghe thật có lý, vừa thực tiễn và khoa học, nhưngOmahacảm thấy như có điều gì đó sâu xa hơn sự quan tâm mà anh ta đã nói ra.

 

Kara bỏ qua điều đó. Cô liếc nhìn chiếc đồng hồ Rolex có gắn kim cương.

- Safia đâu nhỉ? Chắc không phải là cậu ấy vẫn đang tắm.

 

 

09 giờ 12 phút tối

 

Safia vẫn cố giữ hơi thở.

Nàng không hề ghê tởm giống rắn và đã học cách tôn trọng chúng khi đi thăm dò các phế tích bị bỏ hoang. Chúng là một phần của sa mạc giống như gió và cát. Nàng vẫn ngồi thật yên lặng trong bồn tắm. Nước đã nguội đi trong khi nàng ngồi chờ... hoặc có thể chính nỗi sợ làm nàng thấy lạnh người.

Con rắn trườn qua ngực trái nàng có vẻ như đã ngâm mình quá đủ. Safia nhận ra độ thô ráp ở làn da bên ngoài của nó. Con rắn thuộc một chủng loại cũ, dịch chuyển chậm.

Một lần nữa, chuyển động bên ngoài cửa sổ lại thu hút sự chú ý của Safia. Nhưng khi nàng nhìn ra, bóng đen lại nằm yên không nhúc nhích.

Chứng hoang tưởng thường đi trước nỗi sợ hãi, một sự băn khoăn nhìn thấy mối đe dọa và hiểm nguy không bao giờ tồn tại. Những đòn tấn công vào nàng thường khởi phát bởi căng thẳng về thần kinh hay stress, mà không phải sự đe dọa bằng vật chất. Thực ra việc tăng đột ngột lượng adrenaline từ mối nguy hiểm trước mắt là một sự ngăn cản tốt đối với dòng điện sợ hãi. Tuy nhiên, sự căng thẳng trong việc chờ đợi con rắn đã làm xói mòn sự kiên nhẫn của Safia.

Triệu chứng bị loại rắn độc Viper cắn là ngay lập tức làn da xám nghoét lại, máu như bốc lên, co giật làm vỡ xương. Không hề có loại thuốc giải độc nào được biết đến từ trước tới nay.

Taynàng bắt đầu run lên.

 

Không có loại thuốc giải độc nào...

Nàng buộc mình phải thật bình tĩnh.

Safia thở ra chầm chậm, một lần nữa chăm chú nhìn con rắn. Nàng hít vào còn chậm hơn nữa, như nuốt lấy sự ngọt ngào của không khí trong lành. Mùi hương nhài, một niềm vui trước đó giờ đây thật chán ngấy.

Có tiếng gõ cửa làm nàng giật mình.

Nàng khẽ nhấc người lên. Nước rỏ xuống quanh người.

Con rắn độc ngỏng đầu lên. Nàng như thấy sức nặng của nó đè lên cái bụng trần trụi của nàng.

- Thưa quý cô al-Maaz. - Có tiếng gọi từ bên ngoài.

Nàng không trả lời.

Con rắn hít không khí bằng cái lưỡi của nó. Thân nó ngỏng cao lên, cái đầu bạnh ra về phía cổ họng nàng.

- Cô ơi?

Đó là Henry, người quản gia. Chắc ông ta tới xem có phải nàng ngủ quên không. Những người khác đã vào phòng ăn cả rồi. Không có đồng hồ trong phòng nhưng có vẻ như cả đêm đã trôi qua.

Trong không khí im lặng chết người, tiếng khóa mở lách cách trong cái ổ khóa cũ vọng đến chỗ nàng. Tiếng kẹt cửa phòng ngoài theo sau.

- Thưa cô al-Maaz...? - Giọng nói khẽ khàng hơn. - Tôi cho Liza vào đó...

Đối với một người quản gia Anh đầy kinh nghiệm như Henry, ông ta biết không bao giờ nên bước chân vào buồng của một quý bà, đặc biệt khi có phòng tắm. Tiếng bước chân khẽ khàng vội vã đi về phía buồng tắm.

Tất cả sự náo động đã kích động con rắn. Loại rắn Viper vốn nổi tiếng hiếu chiến, có thể quăng đuổi theo một người tới hàng cây số nếu nó bị đe dọa.

 

Nhưng con rắn này, đang tận hưởng việc ngâm nước không có ý gì định lao ra cả.

- Xin chào! - Một giọng ngượng nghịu vang lên bên ngoài.

Safia không có cách nào để cảnh báo cô gái lui ra.

Một cô gái trẻ cúi đầu chào ngượng nghịu khi đi qua cửa, tóc đuôi sam che dưới mũ. Từ cách đó hai bước, cô gái lẩm nhẩm.

- Con xin lỗi làm ảnh hưởng việc cô đang tắm. Thưa cô.

Cuối cùng cô gái ngước mắt nhìn lên, bắt gặp đôi mắt của Safia rồi con rắn cũng ngóc đầu lên rít rít cuộn tròn lại như sẵn sàng.

Cô gái lấy tay che miệng, nhưng không ngăn được tiếng hét của mình. Bị lôi cuốn bởi tiếng động và chuyển động, con rắn nhao lên trên bồn tắm, ngóc đầu về phía cô ta.

Cô gái hoảng hốt không dám nhúc nhích.

Safia lại không như vậy.

Ngay lập tức, nàng tóm chặt đuôi con rắn khi nó ở đang trên không trung. Nàng giằng mạnh con rắn khỏi cô hầu gái rồi vung mạnh. Nhưng đó không phải là một sợi dây thừng bất động.

Bắp tay nàng gồng lên, ngón tay bấm thật chặt rồi đứng dậy để lấy đà nhưng sàn bồn tắm trơn đã làm hại nàng. Nước rỏ tong tỏng xuống sàn.

Con rắn đớp lấy cổ tay Safia, may nhờ nàng kịp rụt tay lại nên nó không đớp trúng. Nhưng giống như một chiến binh đầy kinh nghiệm, con rắn già quay lại, lao đến một lần nữa.

Cuối cùng thì nàng cũng đứng dậy được. Nàng xoay người trong bồn tắm, vung cánh tay rộng ra cố không cho con rắn chạm vào người mình. Linh tính mách bảo nàng cần lẳng nó ra thật xa nhưng điều đó không bảo đảm chấm dứt trận chiến. Buồng tắm thì hẹp và loại rắn Viper rất hiếu chiến.

 

Thay vì đó, nàng xòe cánh tay ra. Nàng đã từng tập trò dùng roi đánh bò trước đâyOmahatặng như một món quà Noel để trả đũa việc Kara khăng khăng gọi anh ta làIndiana. Giờ đây nàng cũng dùng kỹ thuật đó xoay cổ tay thật mạnh.

Con rắn choáng váng vì bị xoay tròn, không kịp phản ứng. Cái đầu của nó bị đập vào vách bồn tắm bằng đá, máu phun ra phè phè. Thân hình nó vặn vẹo trong tay nàng rồi rũ ra, tụt xuống chỗ nước trong bồn.

- Cô al-Maaz!

Nàng quay lại rồi nhìn thấy người quản gia. Henry đứng trên bực cửa, giật mình khi nghe tiếng hét của cô hầu gái. Ông ta đặt cánh tay lên vai cô bé đang hốt hoảng.

Safia cúi xuống nhìn thân hình trần truồng của mình. Lẽ ra nàng phải thấy xấu hổ, cố che thân hình lại nhưng thay vì đó lại để xác con rắn tuột khỏi ngón tay rồi bước ra khỏi bồn tắm.

Chỉ có những ngón tay run rẩy phản bội lại nàng.

Henry vớ lấy một cái khăn bông tắm to từ trên giá rồi xòe chiếc khăn rộng ra. Safia tiến lên phía trước rồi ông ta cuốn nàng vào bên trong.

Nước mắt bắt đầu chảy ra, nàng thở dồn dập đau đớn.

Qua cửa sổ, mặt trăng đã nhô lên cao chiếu vào bên trong bức tường lâu đài. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, có một vật gì đen đen thấp thoáng phía bên ngoài. Nàng giật mình nhưng nó đã biến mất.

Chắc chỉ là loài dơi chuyên đi ăn đêm trong sa mạc.

Tuy nhiên, nàng vẫn run rẩy khi cánh tay rắn chắc của Henry đã ôm nàng thật chặt rồi bế lên chiếc giường phòng
kề bên.

- Cô an toàn rồi. - Ông ta nói thì thào như người cha nói
với con.

Nàng biết lời nói của ông ta không thể xa hơn sự thật.


9 giờ 22 phút tối

 

Bên ngoài cửa sổ, Cassandra ngồi xổm trong bụi cây. Cô ả đã nhìn thấy cảnh Safia xử lý con rắn, di chuyển một cách uyển chuyển và giết nó thật nhẹ nhàng. Ả hy vọng người đàn bà sớm bước ra để nhanh chóng nhấc đi cái hành lý đựng quả tim bằng sắt. Con rắn đã trở thành vị khách không mời với cả hai người.

Nhưng không giống như nữ tiến sỹ kia, Cassandra biết rằng sự có mặt của con rắn là có chủ định, tính toán và được lên kế hoạch rõ ràng.

Cassandra đã nhảy xuống lui ra xa khỏi lâu đài, mỗi tay cầm một khẩu súng Glock rút ra từ ổ súng trên vai. Ả bắt gặp cảnh một cái bóng khoác áo choàng lướt trên bức tường ngoài.

Đi mất.

Một kẻ sát nhân?

Vậy là có kẻ đã chia sẻ khu vườn với ả mà ả không hề biết.

Thật ngu xuẩn...

Sự tức giận khiến ả nhẩm tính lại thật nhanh kế hoạch đêm nay. Với sự hỗn loạn diễn ra trong phòng người đàn bà kia, khả năng lấy trộm cổ vật đó trở thành xa vời.

Nhưng kẻ ăn trộm khoác áo choàng lại trở thành một vấn đề ngay lập tức. Ả đã lấy được thông tin về vụ âm mưu bắt cócOmahavà Daniel Dunn. Chưa rõ là cuộc tấn công có phải đơn thuần là một cơ hội không may mắn, sai về thời điểm và địa điểm. Hay là một cái gì có ý nghĩa hơn, một cuộc tấn công có chủ định, một cố gắng nhằm lấy tiền chuộc từ tập đoàn Kensington.

Và bây giờ lại là âm mưu giết hại người phụ trách bảo tàng.

Điều đó không hề là những sự việc đơn lẻ. Chắc phải có mối liên hệ, một điều gì đó Hiệp hội không biết, một phe phái thứ ba tham gia vào tất cả các chuyện này. Nhưng là thế nào và tại sao?

 

Tất cả những chuyện đó vừa thoáng qua đầu ả.

Cassandra nắm chặt khẩu súng lục. Câu trả lời chỉ có thể tìm được ở một nơi.

Nghĩ ngẫm một lát rồi Cassandra nhét cả hai khẩu súng lục vào bao súng treo trên người và rút khẩu súng bắn dây khỏi thắt lưng. Ả định hướng bóp cò rồi nghe tiếng dây thép vung về phía trước. Khi đầu móc bám chặt được vào tường, ả bắt đầu trèo lên. Lên tới đầu bờ tường, ả bám vào lan can rồi thu khẩu súng lại. Nhìn xuống dưới, ả đeo chiếc kính nhìn đêm vào. Lối đi phía trong biến thành màu xanh và trắng.

Phía bên kia đường, một bóng người khoác áo choàng tụt xuống từ bức tường rồi hướng về phía con phố bên cạnh.

Kẻ giết người.

Cassandra tăng tốc độ rồi lao theo hướng kẻ giết người. Bước chân của ả chắc bị phát hiện nên kẻ kia vội vã lao đi như m ột cái bóng.

Mẹ kiếp.

Cassandra đến tới chỗ bức tường giáp với một cây chà và mọc từ bên trong nhô ra. Tán lá của nó xòe sang cả hai bên tường, ngăn không cho ả chạy tiếp.

Không giảm tốc độ, Cassadra vẫn đưa mắt nhìn theo con mồi. Khi đến gần cái cây ả liền lao ra túm lấy mấy cành cây nhỏ để nhảy ra khỏi bức tường cao hơn 20 fít. Tuy nhiên, đám tán cây không đỡ nổi thân hình ả khiến ả ngã bịch xuống ngõ nhỏ, đầu gối ê ẩm.

Ả lao theo mục tiêu nhưng bóng đen đã biến mất ở
góc phố.

Cassandra nhìn vào bảng điều khiển rồi đặt lệnh. Một bản đồ thành phố hiện ra trên đôi mắt kính nhìn đêm. Phải có cặp mắt có kinh nghiệm mới đọc được.

Đây là thành phố cổ, ngoại vi xung quanh quả là một ma trận các con phố và đường lát gạch. Nếu như tên cướp tẩu thoát vào cái mê hồn trận đó... Cassandra lao nhanh hơn khi kẻ kia đã đi chậm lại. Sơ đồ điện tử chỉ dẫn ngõ bên kia dài chưa đầy 30 bộ trước khi chạy vào các hẻm khác.

Cassandra chỉ còn cơ hội duy nhất.

Ả chúi người vào góc, giật lấy khẩu súng bắn dây. Khi trườn xuống đường phố, ả nhanh chóng lần theo dấu vết con mồi, cách đó 30 bộ. Ả bóp cò. Tiếng dây rít lên phóng ra theo hình vòng cung xuống phía hẻm, qua vai của con mồi.

Ả lại điều chỉnh hướng bắn và lần này bắn trúng vào vai đối tượng làm thân hình gã đổ vật xuống.

Trên môi ả nở một nụ cười đắc thắng. Nhưng xem ra ả đã ăn mừng chiến thắng hơi sớm.

Địch thủ của ả vẫn tiếp tục chạy, giật phăng cái áo choàng ra với một động tác thật thành thạo. Ánh trăng chiếu rõ vào thân hình đó sáng rực như giữa trưa khi nhìn qua ống kính đêm.

Một người phụ nữ.

Cô ta ngả người xuống bằng một cánh tay, rồi lại chồm dậy trên ngón chân. Với cái ngoắt đầu xoã mái tóc đen nhánh, cô ta lao xuống đường.

Cassandra chửi thề rồi đuổi theo. Tuy vậy, trong thâm tâm ả không khỏi thầm khen sự tháo vát và sự thách thức của đối thủ. Nếu ở địa vị người khác chắc sẽ bắn thẳng vào lưng đối thủ tránh thêm phiền toái nhưng ở đây ả đang cần có câu trả lời.

Cassandra vẫn bướng bỉnh bám theo đối tượng trong khi cô ta chạy bằng ngón chân thật uyển chuyển. Cassandra đã từng là vô địch môn chạy ở trường trung học và sau những năm được huấn luyện trong lực lượng đặc biệt, khả năng ấy lại được nâng lên. Là một trong những phụ nữ hàng đầu trong lực lượng đặc biệt, cô ả thấy mình cần phải nhanh.

Đối tượng của ả đã lẩn vào một góc phố khác.

 

Nhưng lúc này là ban đêm, đường phố vắng tanh trừ vài chú chó đang ngồi chồm hỗm và mèo chạy loanh quanh. Sau khi mặt trời lặn, thành phố cổ khép mình lại, các cửa sổ buông rèm khiến đường phố tối om. Thảng hoạc tiếng nhạc, tiếng cười nói vọng lên từ một cái sân phía bên trong nhà. Một vài tia sáng lấp ló trên ban công tầng thượng nhưng tất cả cái đó đều là vùng cấm đối với mọi đột nhập.

Cassandra lại kiểm tra sơ đồ thành phố. Một nụ cười hiện ra trên đôi môi mỏng. Khu vực những ngõ hẻm nơi đối tượng của ả chạy vào tuy vòng vèo nhưng cũng dẫn đến một ngõ cụt, chấm dứt ở phía bức tường cao ngất của pháo đài cổ Jalai. Pháo đài không có lối vào phía bên này.

Cassandra vẫn giữ tốc độ, trong đầu đã phác thảo kế hoạch tấn công. Ả rút một khẩu Glock ra, tay kia ấn vào nút bộ đàm.

- Tôi cần di tản trong 10 phút nữa, hãy định vị chỗ tôi
hiện nay.

- Chúng tôi đã ghi. Di tản trong 10 phút nữa. - Câu trả lời thật ngắn gọn.

Như dự kiến, gã trưởng nhóm sẽ đưa đến ba xe đạp điện được nâng cấp trang bị động cơ nhỏ và bánh cao su đặc. Ô tô rất hạn chế khả năng cơ động trên các đường phố hẹp ở thành phố cổ. Xe đạp tỏ ra thích hợp hơn. Kinh nghiệm của Cassandra luôn luôn là sử dụng phương tiện đúng vào công việc thích hợp. Lần này, mục tiêu của ả đã bị dồn vào một nơi, lực lượng hỗ trợ sẽ theo chân ả. Nếu như có sự chống cự chỉ cần một phát đạn vào đầu gối sẽ làm đối thủ mất hết ý chí.

Phía trước, một bóng trắng thoáng xuất hiện trên ống kính đêm cho thấy đối tượng đang chạy chậm lại, khoảng cách hẹp dần. Cô ta chắc đã nhận ra cái bẫy đang thu hẹp lại.

Cassandra vẫn đuổi theo, giữ cô ta trong tầm quan sát.

 

Đã thấy chỗ ngoặt cuối cùng của con hẻm nhô lên pháo đài Jalai cao chót vót. Phía tường kia là khu nhà chứa đồ. Đối tượng đã trút bỏ tấm áo choàng chỉ mặc mỗi chiếc sơ mi trắng mỏng. Cô ta đứng sát chân tường đá pháo đài, mắt ngước nhìn lên trên. Chỗ gần nhất cũng cách đó gần 30 fít. Nếu cô ta có ý định leo lên, Cassandra sẽ phải dùng đến khẩu Glock .

Cassandra bước vào hẻm, chắn mọi lối thoát.

Người đàn bà chắc cảm nhận được điều đó nên quay lại từ phía bức tường để đối mặt với ả. Cassandra đeo ống kính nhìn đêm lên. Ánh trăng chiếu xuống nhìn rõ mọi vật nhưng ả lại thích chỉnh tiêu cự ở cự ly gần.

Với khẩu súng trong tay, Cassandra thu hẹp khoảng cách.

- Không được động đậy! - Ả nói bằng tiếng A-rập.

Phớt lờ ả, người đàn bà kia nhún vai. Toàn bộ quần áo bỗng bị tụt hẳn khỏi người, làm thành một đống quanh mắt cá chân, biến cô ta trần như nhộng trên đường phố. Chân dài, cái cổ cao, bộ ngực ầy đặn; xem ra cô ta chẳng tỏ ra ngượng nghịu gì, một điều thật hiếm có trong thế giới A-rập. Trên người cô ta toát lên một vẻ gì đó thật cao thượng, một bức tượng Hy Lạp của một công chúa Arập. Vật trang sức duy nhất là một miếng ngọc bích nhỏ đeo ở lỗ tai.

Lần đầu tiên, người đàn bà cất tiếng nói. Dù vậy, ngôn ngữ của cô ta lại không phải tiếng A-rập. Dù Cassandra thông thạo hơn một tá ngôn ngữ, nói được nhiều thứ tiếng khác nữa nhưng khi dỏng tai lên nghe, phát hiện được vài chỗ quen thuộc song chẳng hiểu gì cả.

Trước khi Cassandra kịp nhìn thấy điều gì, người đàn bà trần truồng đó đã bước đôi chân trần ra khỏi đám quần áo rồi đi vào bóng tối của pháo đài cao ngất. Chuyển dịch từ ánh trăng vào màn đêm, thân hình cô ta bỗng nhiên biến mất trong
giây lát.

 

Cassandra bước lên trước vẫn giữ khoảng cách giữa họ.

Ả nhìn chăm chú hơn. Không.

Ả quan sát qua kính nhìn đêm. Các bóng nhòe đi. Bức tường đá của lâu đài hiện lên rõ nét, ả tìm hết bên trái rồi bên phải. Người phụ nữ đã mất tăm. Thật không thể tin được.

Như thể cô ta biến thành cái bóng rồi tan đi.

Một bóng ma trên sa mạc.

Cassandra chỉ có thể nhìn vào đống quần áo vứt lăn lóc ở đó để cố hiểu ra. Một chiếc mô tô lượn vòng quanh chỗ rẽ đi kèm với hai chiếc nữa. Nhóm hỗ trợ cho ả.

Sau khi nhìn lại lần cuối, Cassandra bước tới chỗ họ. Ả đi quanh hai vòng nữa. Khi tới chiếc mô tô đầu tiên, ả hỏi gã lái xe.

- Lúc vào đây, cậu có thấy một người đàn bà trần truồng nào chạy ra từ trong ngõ không?

Người lái mô tô dù đeo mặt nạ, nhưng vẻ lúng túng vẫn hiện rõ trong đôi mắt anh ta.

- Trần truồng ư?

Cassandra nghe anh ta nói không.

- Không sao.

Ả trèo lên ngồi cạnh người lái mô tô. Có điều gì đó lạ lùng quanh đây, ả cần có thời gian để tìm ra.

Ả đập vào vai người đàn ông. Anh ta quay mô tô lại rồi cả ba chiếc quay về theo lối họ đã đến, hướng tới chỗ nhà kho trống rỗng họ đã thuê làm địa điểm hoạt động tạiMuscat. Đã đến lúc ả kết thúc nhiệm vụ của mình tại đây. Thực ra sẽ dễ dàng hơn nếu như trong tay ả đã có được quả tim bằng sắt kia. Nhưng lực lượng dự phòng đã tới nơi. Giữa đêm nay, họ sẽ di chuyển với nhiệm vụ tiêu diệt nhóm của Crowe.

Trong đầu ả thoáng hiện ra những chi tiết cuối cùng cần sắp xếp lại nhưng lúc này ả thấy mình khó có thể tập trung được. Điều gì đã xảy ra với người phụ nữ đó? Liệu có một cánh cửa bí mật dẫn vào pháo đài không? Một thứ mà những thông tin của ả chưa thấy nói đến và có lẽ đó là lời giải đáp duy nhất.

Trong khi mải suy nghĩ những điều đó, những lời nói của người phụ nữ bỗng vẳng lại trong đầu ả.

Tiếng động cơ vè vè của chiếc mô tô đã giúp ả trấn tĩnh lại.

Mình đã nghe thứ tiếng đó ở đâu rồi nhỉ?

Ả ngoái nhìn thành cổ Jalai một lần nữa. Ngọn tháp của nó nhô lên cao hơn hẳn so với các tòa nhà khác dưới ánh trăng. Một kiến trúc cổ đại thuộc về một thời kỳ đã mai một.

Rồi điều đó bỗng hiện ra. Sự quen thuộc của ngôn ngữ đó.

Không phải hiện đại mà là cổ xưa.

Trong đầu ả bỗng lóe lên những thứ tiếng. Mặc dù chẳng hiểu gì nhưng ả biết được những gì đang nghe. Một thứ ngôn ngữ đã chết.

Aramaic.

Ngôn ngữ của Đức Chúa Jesu.

 

 

10 giờ 28 phút tối

 

- Làm sao nó có thể vào được chỗ này nhỉ?

Painter tự hỏi. Anh đứng ở bục cửa dẫn vào buồng tắm, nhìn vào cái xác rắn dài đang bập bềnh trên bồn tắm giữa những cánh hoa nhài.

Cả đám tiệc đã nghe thấy tiếng thét của người hầu gái bèn chạy đến. Họ bị viên quản gia ngăn lại cho đến khi Kara giúp Safia mặc chiếc váy vào.

Kara ngồi trên ghế bên cạnh Safia, trả lời câu hỏi của anh.

- Những con vật chết tiệt này luôn xuất hiện ngay cả khi bơm nước. Phòng của Safia đã bị đóng cửa nhiều năm nay.
Nó có thể làm tổ bất cứ nơi nào ở đây. Khi tôi cho dọn dẹp, lau chùi căn phòng, có thể nó bị động chạm, nấp đi rồi lại bò vào bồn tắm.

- Rắn lột da. - Safia nói khản đặc cả tiếng.

Kara đưa cho nàng một viên thuốc. Tác dụng của nó đã làm nàng cứng cả lưỡi nhưng hình như khi cả nhóm tới nàng đã có vẻ trấn tĩnh hơn. Mái tóc ướt của nàng vẫn bám chặt vào trán. Nước da dần trở lại bình thường.

- Loài rắn thường đi tìm nước.

- Vậy có nhiều khả năng nó đến từ bên ngoài. -Omahagật đầu. Nhà khảo cổ đứng ở vòm cửa dẫn đến phòng học. Những người khác chờ bên ngoài sảnh.

Kara lấy tay đập đập vào đầu gối Safia rồi ngồi dậy.

- Thôi, đằng nào mọi chuyện cũng đã xong rồi. Tốt nhất là chúng ta nên sẵn sàng lên đường.

- Chúng ta cũng có thể hoãn lại một ngày. -Omahanói, liếc nhìn Safia.

- Ồ, không. - Safia nói, cố gắng thoát ra khỏi cảm giác ngây ngất của thuốc an thần. - Tôi có thể đi được.

Kara gật đầu.

- Chúng ta đã hẹn tại cảng vào nửa đêm.

Painter giơ tay lên trời.

- Cô chẳng chịu nói với chúng tôi sẽ đi như thế nào.

Kara vẩy tay như xua đi một mùi không dễ chịu.

- Đằng nào rồi các vị cũng thấy khi tới đó. Tôi phải thu xếp hàng nghìn chi tiết rồi. - Nói rồi Kara bực bội đi ngang qua chỗOmaha, bước ra khỏi phòng. Giọng cô ta vọng lại như thể ra lệnh cho mọi người.

- Có mặt tại sân trong vòng một giờ nữa.

Omahavà Painter đứng đối diện nhau, mỗi người một bên, cạnh Safia. Cả hai người không nhúc nhích, dường như cả hai đều không chắc cần phải làm gì. Chuyện đã được giải quyết khi Henry bước vào, tay cầm một lô quần áo.

 

Henry gật đầu với hai người.

- Thưa các ngài, tôi đã nhờ một cô hầu gái đến giúp cô al-Maaz mặc quần áo và thu dọn hành lý. Mong các ngài... - Ông ta gật đầu, mời họ ra ngoài.

Cả hai đều bị mời ra.

Painter bước tới gần Safia.

- Liệu cô chắc có đi được không?

Nàng cố gật đầu.

- Cảm ơn anh, tôi ổn rồi.

- Được thôi, tôi sẽ chờ cô bên ngoài phòng lớn.

Câu này mang lại cho anh một nụ cười nhỏ và anh cảm thấy mình xứng đáng với nó.

- Điều đó không cần thiết đâu.

Anh quay đi.

- Tôi biết, nhưng đằng nào tôi cũng ở đó.

Painter thấyOmahanhìn anh chăm chú, đôi mắt như thu lại hẹp hơn lúc nãy. Vẻ mặt của anh ta thật căng thẳng. Rõ ràng, anh ta cảm thấy nghi ngờ, nhưng cũng thấy có biểu hiện bực bội.

Khi Painter bước ra cửa, Omahakhông hề nhường lối,
buộc anh phải đi vòng qua. Trong khi làm như vậy, anh ta quay sang Safia.

- Em yêu, em đã làm một việc thật giỏi.

- Đó chỉ là một con rắn. - Nàng trả lời, tay nhận chỗ quần áo do viên quản gia đưa. - Em còn rất nhiều việc phải làm trước khi rời chỗ này.

Omahathở dài.

- Được thôi, anh nghe em. - Rồi anh ta theo gót Painter bước ra cửa.

Những người khác cũng đã đi cả, gian phòng vắng lặng.

Painter bước tới gần chỗ cửa. KhiOmahađịnh đi ngang qua thì Painter hắng giọng.

 

- Tiến sỹ Dunn...

Nhà khảo cổ học dừng lại, liếc nhìn anh.

- Con rắn đó, - Painter nói, vẫn lần theo dấu vết từ ban nãy. - Anh nói rằng nó đến từ bên ngoài. Tại sao vậy?

Omahanhún vai, lui lại một bước.

- Cũng không chắc lắm nhưng loại rắn độc này thích mặt trời vào buổi chiều, đặc biệt khi đi ngủ. Nhưng tôi không thể hình dung tại sao nó lại cuộn tròn ở đó cả ngày.

Painter nhìn vào chỗ cánh cửa đang khép. Phòng của Safia nhìn ra hướng đông, tức là chỉ đón nhận ánh sáng vào buổi sáng. Nếu như nhà khảo cổ nói đúng thì con rắn phải đi một quãng đường khá xa để tới bồn tắm.

Omahađọc được ý nghĩ đó.

- Anh không nghĩ có ai đó đã đặt nó vào đó chứ?

- Có thể tôi bị mắc chứng hoang tưởng. Nhưng có phải trước đây các nhóm cực đoan đã từng có ý định giết Safia phải không?

Mắt anh ta long lên, hằn rõ những đường nét trên khuôn mặt.

- Chuyện đó đã xảy ra cách đây 5 năm rồi. Ở tận Tel Aviv. Ngoài ra, nếu như có ai đó đặt con rắn đó thì không phải là những gã đó.

- Tại sao vậy?

Omahalắc đầu.

- Các nhóm cực đoan đã bị biệt kíchIsraeltiêu diệt sạch từ một năm trước đây. Loại hết sạch, nói một cách chính xác.

Painter biết rõ chi tiết. Chính là tiến sỹ Dunn đã giúp đỡ các lực lượngIsraelsăn đuổi những kẻ quá khích bằng việc sử dụng những mối quan hệ ở khu vực này.

Omahalẩm bẩm như với chính mình hơn là nói với anh bằng một giọng cay đắng.

 

- Thế mà tôi nghĩ là chuyện của Safia đã ổn nên mới để cô ta quay trở lại đây.

Chuyện không đơn giản đâu, anh bạn ạ. Painter ngẫm nghĩ. Anh chàng này thường đối mặt với mọi vấn đề bằng cách cứ lao thẳng vào mà không thèm nhìn lại. Đó không phải là điều Safia cần. Anh phân vân không hiểuOmahacó bao giờ hiểu được điều đó không. Tuy vậy, anh vẫn cảm nhận được đã có một điều gì đó mất mát trong con người này, người đã được lấp đầy bằng cát của những năm trôi qua. Vì vậy anh cố gắng giúp đỡ.

- Một chấn thương giống như vậy không phải...

Omahangắt lời một cách dứt khoát.

- Ồ, tôi đã nghe điều đó rồi. Cảm ơn. Nhưng anh không phải là bác sỹ trị liệu cho tôi hoặc cô ta.

 Anh ta bước ra cửa, ngoái lại nói bằng một giọng chế giễu.

- Và đôi khi thưa Tiến sỹ, một con rắn thì cũng vẫn chỉ là rắn mà thôi.

Painter thở dài.

Một bóng người đi ra từ chỗ tối ở cửa vòm bên. Đó là Coral Novak.

- Người đàn ông này có vấn đề.

- Liệu có phải tất cả chúng ta không có chuyện gì chăng.

- Tôi đã nghe lỏm câu chuyện của các anh. - Cô ta nói. - Có phải anh đang nói chuyện với anh ta không hoặc anh nghĩ có một bên nữa dính dáng vào.

- Chắc chắn là có ai đó đang muốn khấy nồi cháo lên.

- Cassandra?

Anh chậm rãi lắc đầu.

- Không phải, một ai đó thực sự chưa biết.

Coral càu nhàu, đôi môi cô nhệch ra.

- Thật không hay.

- Chẳng hay chút nào, đúng vậy..

 

- Còn cô tiến sỹ? - Coral vẫn nói, gật đầu về phía cửa. - Hình như anh đang đóng vai một nhà khoa học dân sự quá nhiệt tình thì phải.

Anh cảm nhận một lời cảnh báo tế nhị trong giọng cô, một sự quan tâm về điều có thể đã vượt quá ranh giới giữa công việc và tình cảm cá nhân.

Coral tiếp tục.

- Nếu như có một phái thứ ba nhúng mũi vào đây, liệu chúng ta có cần tìm kiếm chứng cứ không?

- Chắc chắn rồi. Vì vậy cô đã đi ra ngoài đó thôi.

Coral giương một bên lông mày.

- Tôi có một cánh cửa phải canh gác. - Anh nói, trả lời câu hỏi chưa nói ra của cô.

- Tôi hiểu. - Coral quay đi. - Nhưng anh ở đây để bảo vệ người phụ nữ đó hay thi hành phi vụ?

Painter nói, giọng nghiêm nghị như ra lệnh.

- Trong trường hợp đặc biệt này, chúng là một.

 

 

11 giờ 35 phút tối

 

Safia nhìn ra cảnh vật bên ngoài. Hai viên thuốc an thần làm nàng thấy chóng mặt. Ánh đèn từ những cột đèn vụt qua mờ nhạt, những vệt sáng trong cảnh sắc ban đêm. Tất cả các tòa nhà đều tối om. Nhưng ở phía trước một chùm ánh sáng đánh dấu cảngMuscat. Thương cảng hoạt động 24 giờ trong ngày, sáng bừng dưới ánh đèn pha và ánh đèn từ các nhà kho.

Sau khi họ đi qua một cua hẹp, cảng đã hiện ra trước mắt. Mặt vịnh hầu như vắng lặng, các sà lan chở dầu và tàu chở hàng đã neo đậu ở cảng từ trước lúc mặt trời lặn. Ban đêm, những thùng hàng được bốc ra rồi đóng lại. Ngay cả vào lúc này, các cần cẩu lớn treo lơ lửng contenơ đung đưa trong không gian như những món đồ chơi khổng lồ. Xa hơn về phía chân trời, một chiếc tàu chở hàng to tướng bập bềnh trên sóng nước như chiếc bánh sinh nhật có cắm nến trên nền trời đầy sao.

Chiếc Limousine chạy thoát qua khu vực tạp nham đó, tới phía góc bên kia cảng, nơi những chiếc thuyền buồm truyền thống kiểu Arập hạ neo. Hàng nghìn năm nay, những ngườiOmanvẫn đi biển từ châu Phi tới Ấn Độ. Những chiếc tàu của họ đơn giản chỉ bằng những tấm ván gỗ ghép lại với chiếc buồm đặc trưng hình tam giác. Chúng khác nhau về kích thước từ loại đáy nông hoặc đáy sâu đi biển. Hàng dãy các con tàu cũ được xếp ở góc cảng, cột với nhau, buồm cuốn lên vào những cột buồm đứng thẳng và dây chão.

- Chúng ta sắp tới rồi.

 Kara thì thầm nói với Safia từ phía bên của chiếc xe. Những người khác ngồi trên xe, bên cạnh lái xe là một nhân viên bảo vệ và cậu sinh viên của Safia là Clay Bishop. Cậu ta ngáy khò khò lúc Kara nói chuyện.

Đằng sau họ là một chiếc Limousine chở tất cả những người Mỹ: Painter và cộng sự,Omahavà em trai.

Lúc này Safia ngồi thẳng dậy. Kara vẫn chưa nói họ sẽ đi đến Salalah bằng cách nào, chỉ nói đi đến cảng nhưng nàng đoán họ sẽ đi bằng thuyền. Salalah là một thành phố ven biển, giống nhưMuscatvà việc đi lại giữa hai thành phố có lẽ dễ dàng bằng đường biển hơn là đường không. Vận chuyển cả hành khách và hàng hóa diễn ra suốt ngày đêm, đủ các loại từ phà chạy bằng diezel đến tàu cao tốc. Nàng đoán với mong muốn nhanh chóng bắt tay vào việc, Kara sẽ thu xếp để họ đi bằng con tàu nào chạy nhanh nhất.

Chiếc xe rẽ ngoặt theo lối vào, theo sau là chiếc kia. Cả hai xe chạy dọc cầu cảng, đi qua không biết bao nhiêu con tàu cũ. Safia rất quen thuộc với bến tàu khách. Nhưng không phải vậy. Họ đang đi tới một cầu tàu khác.

- Kara..? - Nàng bắt đầu.

Chiếc xe chạy qua văn phòng cảng nằm ở cuối cầu tàu. Neo đậu ở phía xa, được chiếu sáng rực rỡ, bu quanh là các tàu kéo và đám công nhân cảng là một cảnh tượng huy hoàng. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó là phương tiện của họ.

- Ồ, không... - Safia lẩm bẩm.

- Đúng đấy... - Kara trả lời, giọng đầy tự hào.

- Lạy Chúa! - Clay nói, thò hẳn đầu ra để nhìn rõ hơn.

Kara nhìn đồng hồ.

- Tôi không thể từ chối ngài Quốc vương Suntan khi ngài đề nghị cho chúng ta sử dụng nó.

Chiếc xe đỗ ở cuối cầu tàu, cánh cửa mở ra. Safia bước ra, hơi loạng choạng khi nàng trố mắt nhìn cái cột buồm cao tới 100 fít. Chiều dài con tàu gần gấp đôi như vậy.

- The Shabab Oman. - Nàng kinh ngạc thốt lên.

Chiếc thuyền buồm đó là niềm tự hào của Quốc vương Suntan. Nó được coi như một viên đại sứ hàng hải củaOmantới các nước trên thế giới, một lời nhắc nhở tới truyền thống hàng hải củaOman. Nó được thiết kế theo kiểu truyền thống của Anh với cột buồm phía trước hình vuông, cột buồm chính và sau đều hình vuông. Được đóng vào năm 1971 bằng gỗ sồiScotlandvà gỗ thông Urugoay, nó là chiếc thuyền buồm vào loại lớn nhất thời kỳ đó. Hiện nó vẫn còn đi biển tốt và hoạt động liên tục. Ba mươi năm qua, con thuyền đã đi khắp thế giới, tham dự vào biết bao nhiêu cuộc đua.

Biết bao nhiêu tổng thống, thủ tướng, nhà vua và hoàng hậu đã đặt chân lên boong tàu. Và giờ đây, nó được dành cho Kara để chạy tới Salalah. Việc này, hơn bất cứ điều gì khác, chứng tỏ sự trân trọng của vị Quốc vương đối với gia đình Kensington. Giờ đây Safia đã hiểu vì sao Kara không thể từ
chối được.

 Safia phải cố nén cảm giác mừng vui và ngạc nhiên trước suy nghĩ đó. Những băn khoăn về chuyện con rắn và những mối nghi ngờ khác đã tan biến. Có thể đó chỉ là do thuốc, nhưng nàng vẫn thích vị muối và gió biển làm sảng khoái đầu óc và tâm hồn mình. Đã bao lâu rồi nàng  mới có cảm giác đó?

Vào lúc này, những người khác cũng đã rời chiếc xe Limousine và trèo lên. Những người Mỹ mở tròn mắt khâm phục con tàu. Chỉ cóOmahacó vẻ hờ hững sau khi đã được thông báo việc thay đổi phương tiện chuyên chở. Nhưng dù gì đi nữa chính mắt nhìn thấy con tàu cũng làm anh ta xốn xang. Tuy nhiên anh ta vẫn cố che giấu.

- Tuyệt vời, cả chuyến đi này đang trở thành một bộ phim Sinbad vĩ đại.

- Khi ởRome... - Kara lẩm bẩm.

 

 

11 giờ 48 phút tối

 

Cassandra quan sát con tàu từ phía bên kia cảng. Hiệp hội đã kiếm được cái nhà kho này thông qua các mối quan hệ với một gã chuyên buôn lậu những mặt hàng video nhái. Một nửa nhà kho chứa đầy những kiện hàng đầu đĩa DVD và băng
video lậu.

Phần còn lại của nhà kho tuy vậy vẫn đáp ứng được nhu cầu của ả. Trước đây là một cửa hàng cơ khí nên nó cũng có cầu cảng và bến đỗ riêng. Nước vỗ liên tục vào những cây cột tạo ra một âm hưởng đơn điệu, thỉnh thoảng lại bị ngắt quãng bởi những tiếng còi tàu ra khơi.

Kế hoạch tập họp nhóm tàu tiến công được thực hiện từ tuần trước. Một vài chiếc đến với những kiện hàng dỡ ra rồi lại ghép lại tại chỗ còn một số khác được vận chuyển đến từ phía biển vào giữa đêm. Bập bềnh trên cầu tàu là ba chiếc xuồng cao tốc Boston Whalers được Hiệp hội trang bị hoàn chỉnh, gắn thêm súng trường tấn công có thể xoay được. Bên cạnh đó, còn có chiếc thuyền chỉ huy của Cassandra, cũng là một chiếc xuồng cao tốc có khả năng chạy với tốc độ tên lửa hàng trăm hải lý.

Nhóm 12 người của ả đang hối hả hoàn tất công việc chuẩn bị. Cũng giống như Cassandra, chúng đều là các cựu nhân viên của lực lượng đặc biệt nhưng những kẻ gai góc này chưa bao giờ được Sigma tuyển mộ. Không phải là chúng không đủ thông minh. Bị thải ra khỏi lực lượng đặc biệt, hầu hết bọn chúng xung vào các đội quân đánh thuê và bán quân sự trên khắp thế giới, học thêm những kỹ năng mới, trở nên khôn ngoan, tàn bạo và tinh quái hơn. Đối với những tên này, Hiệp hội đã thu nhặt chúng với sự đa dạng thích hợp nhất, những kẻ thông minh sắc sảo nhất và bộc lộ sự trung thành tuyệt đối đối với nhóm của chúng, một xu hướng mà ngay cả Sigma chắc cũng đánh giá cao. Chỉ có trong trường hợp của Hiệp hội, một tiêu chuẩn là tối thượng hơn tất cả các điều khác: những tên này không hề ngần ngại đối với chuyện chém giết, bất kể mục tiêu là ai.

Nhân vật chỉ huy số 2 tiến đến.

- Đại úy Sanchez, thưa ngài.

Ả đang tập trung vào đoạn băng video từ máy quay bên ngoài. Ả đếm thành viên của nhóm Painter trèo lên boong tàu và được các quan chứcOmanchào mừng. Mọi người đều đã ở trên tàu. Cuối cùng ả đứng thẳng dậy.

- Chào Kane.

John Kane là kẻ duy nhất không phải người Mỹ. Y đã phục vụ trong lực lượng tinh nhuệ, bộ phận đặc biệt của không quân Úc SAS. Hiệp hội không chỉ hạn chế việc tìm kiếm tài năng vào trong biên giới Hoa Kỳ, đặc biệt khi chúng hoạt động trên phạm vi quốc tế. Với chiều cao 6 fít rưỡi, gã quả là kẻ chân tay gân guốc. Đầu gã trọc lốc, trừ vài sợi râu đen dài dưới cằm.

Nhóm này thực ra toàn là người của Kane, được bố trí ở khu vực vùng Vịnh cho tới khi được Hiệp hội huy động. Tổ chức này có các nhóm hoạt động ở khắp nơi trên thế giới, những chi nhánh độc lập không hề biết về nhau, tất cả đều sẵn sàng làm việc cho Hiệp hội chỉ sau một thời gian ngắn huy động.

Cassandra đã được cử để tổ chức nhóm đặc biệt này và chỉ đạo phi vụ, ả giành được sự bổ nhiệm này vì thông thuộc về lực lượng Sigma, đối thủ của Hiệp hội trong chuyện này. Cô ả biết Sigma hoạt động ra sao, nắm rõ chiến lược cũng như quy trình của họ. Cô ả cũng có những hiểu biết khá tường tận về người phụ trách phi vụ này, Painter Crowe.

- Chúng ta đã khóa chốt lại sẵn sàng. - Kane báo cáo.

Cassandra gật đầu, nhìn lại đồng hồ. Chiếc tàu ShababOmansẽ khởi hành vào đúng lúc kim đồng hồ chỉ nửa đêm. Chúng sẽ đợi đúng một tiếng sau đó sẽ đuổi theo. Ả lại nhìn vào màn hình video và nhẩm tính trong đầu.

- Tàu Argus thế nào? - Ả hỏi.

- Đã liên lạc vài phút trước đây. Con tàu đã vào vị trí, đang đi tuần ở khu vực chúng ta tấn công để bảo đảm không có kẻ xâm nhập.

Tàu Argus là loại tàu do 4 người điều khiển có thể lặn xuống nước và phóng ra thợ lặn, không cần nhô lên mặt nước. Động cơ tốc lực của nó và kho ngư lôi biến con tàu thành một pháo đài bay chết người.

Cassandra gật đầu lần nữa. Tất cả đã vào vị trí.

Không ai trên chiếc tàu Shabab có thể sống sót để nhìn mặt trời mọc.

 

 


Nửa đêm

 

Henry đứng ở giữa phòng tắm khi bồn tắm xả hết nước kêu ùng ục. Cái áo khoác của ông ta vắt trên giường ngủ bên ngoài. Ông xắn tay áo lên rồi rút ra một đôi găng tay cao su màu vàng.

Ông ta thở dài. Thực ra một cô hầu có thể đảm đương được công việc này nhưng những cô gái đã quá hoảng sợ nên ông ta đánh phải trực tiếp xử lý cái xác con rắn độc. Thực tế, sự tín nhiệm của khách khứa tại lâu đài rơi vào vai ông ta, một nhiệm vụ mà ông ta đã không hoàn thành tối nay. Mặc dù nhóm của quý cô Kensington đã rời đi nhưng ông vẫn cảm thấy trách nhiệm cá nhân mình phải vứt con rắn ra ngoài để sửa chữa lỗi lầm của mình.

Bước lên trước, ông cúi xuống rồi chậm rãi chạm vào cái xác. Nó giống như một chữ cái S khổng lồ trôi lềnh bềnh trên mặt nước, thậm chí có vẻ như hơi động đậy khi nước rút dần.

Ngón tay của ông ngập ngừng. Con vật hình như vẫn
còn sống.

Hít một hơi dài, ông tóm lấy con vật ở giữa chừng. Mặt ông căng thẳng, hàm răng nghiến chặt.

- Đồ quái vật.

Ông lẩm bẩm, dùng lại thứ ngôn ngữ từ lúc còn ởDublinthủa thiếu thời. Ông cũng thầm cảm ơn thánh St Patrick đã tống những con vật bẩn thỉu này ra khỏiIreland.

Ông kéo con vật ra khỏi bồn tắm rồi nhét nó vào một cái túi ni lông. Quay lại, giữ con rắn cách xa một sải tay, ông ấn cái đuôi con rắn vào miệng túi rồi thả cả người nó vào theo.

Khi ông nhét cái đầu con rắn vào trên cùng, một lần nữa ông lại ngạc nhiên trước vẻ như còn sống của con vật. Chỉ có cái mõm đen của nó phá hoại hình ảnh đó.

 

Henry bắt đầu đứng thẳng người lên rồi cúi xuống nhìn, thấy có cái gì đó không ổn.

- Vậy đây là cái gì nhỉ?

Ông quay lại nhặt một cái lược nhựa ở trên giá. Chậm rãi bóp đầu con rắn từ phía sau gáy của nó, ông dùng chiếc lược nhét vào miệng mở ra xem để khẳng định điều ông để ý.

- Thật kỳ quặc. - Ông lẩm bẩm, chà đi chà lại cái lược để chắc chắn.

Con rắn không có răng.

 

Nguồn: truyen8.mobi/t86756-bao-cat-chuong-8.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận