Đi tham quan hết cả sơn trang mất đúng hai canh giờ, Ngũ Thập Lang tuy đã quá quen thuộc với việc chạy chơi khắp nơi nhưng cũng chẳng thể nào chịu nổi cuộc dạo chơi dài lê thê này.
Bữa trưa được sắp xếp ở sảnh Tụ Hiền của sơn trang. Vì vụ việc của Bích Hà nên nơi dùng cơm trước kia đã khiến người ta không thể nuốt nổi thức ăn ở đó nữa. Bởi vậy, đại phu nhân quyết định chuyển phòng ăn lớn sang đại sảnh chuyên dùng để tiếp đón các nhân sĩ trên giang hồ.
Đại phu nhân khoác trên người bộ xiêm y màu nâu nhạt, đứng trước cửa vào sảnh Tụ Hiền, chờ đám hộ vệ đưa Ngũ Thập Lang đến.
“Tô cô nương, đây chính là đại phu nhân của Ngự Kiếm sơn trang”. Vị đại ca dẫn đường mặt mày thanh tú nói. Cuối cùng, Ngũ Thập Lang đã biết họ của người này, thì ra đây là hộ vệ Trương của sơn trang. Bình thường, anh ta không nói chuyện nhiều, khuôn mặt lúc nào cũng trầm lặng, bình tĩnh. Nhìn thấy Ngũ Thập Lang gật đầu, hộ vệ Trương tiếp tục nói: “Đây cũng chính là mẫu thân của Vô Song công tử. Thế nên, Tô cô nương à, cô phải đối xử tử tế với phu nhân đấy!”
Anh ta vừa dứt lời thì đám hộ vệ ở phía sau nhất loạt gật đầu, tỏ vẻ tán đồng ý kiến, nhanh nhảu đưa lời góp chuyện: “Đúng thế, đúng thế, đại phu nhân rất hiền từ, phúc hậu, sau này chắc sẽ đối xử tốt với con dâu thôi.”
Giọng nói to như sét đánh sấm giật.
Đại phu nhân đứng rất gần đó, nghe thấy mọi người nói vậy bèn nở nụ cười thân thiện, nhìn Ngũ Thập Lang từ trên xuống dưới. Khuôn mặt tựa đóa phù dung, thái độ thẹn thùng, ngượng ngập của Ngũ Thập Lang tạo cho bà một cảm giác vô cùng thân thiện, gần gũi. Đại phu nhân liền bước xuống thềm, mỉm cười nắm lấy tay Ngũ Thập Lang và nói: “Tô cô nương tướng mạo thực xinh đẹp quá! Trông giống hệt như búp bê bằng sứ vậy.”
Ngũ Thập Lang vẫn còn xấu hổ nhưng trong lòng lại vô cùng hân hoan.
Lớn đến từng này tuổi rồi song đây là lần đầu tiên cô được người khác khen là búp bê bằng sứ. Xưa nay, cô toàn bị người ta mắng là “heo con”, “khỉ đột”, thậm chí có kẻ còn réo cô là “ngói nát”. Thế nên, chỉ một câu khen này thôi đã đủ để khiến Ngũ Thập Lang vui mừng khôn xiết rồi.
Ngũ Thập Lang nắm chặt bàn tay của đại phu nhân, cười tươi như hoa: “Đại phu nhân đúng là nhân từ, phúc hậu, lời nào lời nấy thật thà, chân chất.”
Nhị phu nhân cầm chuỗi tràng hạt đứng phía sau đại phu nhân, nghe thế thì khóe miệng co giật một hồi lâu, khó khăn lắm mới nhếch miệng lên cười nổi, cố gắng đưa lời phụ họa theo: “Đúng vậy, đúng vậy! Tô cô nương không chỉ giống búp bê bằng sứ mà còn như được làm từ đậu phụ, mềm mại tựa nước vậy.”
Trên đời này, Ngũ Thập Lang ghét nhất là đậu phụ, dính dáp, ghê ghê, lại còn trắng bệch, nhão nhoét. Cho nên, ngay sau khi nghe thấy lời tán tụng của nhị phu nhân, mặt cô tối sầm lại, trong lòng vô cùng tức giận, chỉ muốn tung chân đá cho nhị phu nhân một cước.
Không khí đột nhiên lặng hẳn xuống. Trớ trêu thay, nhị phu nhân – một người vốn không có chút óc hài hước nào hết – lại tiếp tục nói thêm: “Trông cô nương vô cùng đáng yêu, nếu như Phật tổ mà nhìn thấy, chắc chắn người sẽ cảm thấy cô nương rất xứng đáng làm Ngọc Nữ đứng cạnh bên Kim Đồng.”
Khóe miệng Ngũ Thập Lang càng co giật mãnh liệt hơn, nộ khí lập tức bừng lên hừng hực.
Làm Ngọc Nữ chẳng phải sẽ trở thành ni cô sao?
Nghĩ tới đây, Ngũ Thập Lang liền chán nản ngậm miệng, không nói thêm lời nào nữa.
Nhận thấy không khí đang chùng xuống, đại phu nhân bèn nắm lấy bàn tay cô kéo đi, dắt luôn vào phòng. Một đoàn người vui vẻ, hớn hở đi theo phía sau.
Vừa mới ngồi xuống, đại phu nhân đã than ngắn thở dài: “Tô cô nương, đó là một con quỷ vô cùng lợi hại. Liệu cô có thể thu phục được nó không?”
Ngũ Thập Lang đang định mở miệng đáp thì đám hộ vệ phía sau đã tranh lời nói trước: “Đại phu nhân, phu nhân yên tâm, bản lĩnh thu phục ma quỷ của Tô cô nương vô cùng cao cường. Trên đường bọn tiểu nhân hộ tống cô nương về đây, cô ấy đã thu phục được hai con quỷ…”
Ngũ Thập Lang lập tức mím môi thật chặt, chán nản không nói thêm bất cứ điều gì.
Đối với những người đang sùng bái một cách mù quáng thì chẳng thể giải thích cho họ hiểu bằng bất cứ lý do nào cả.
Đôi mắt của đại phu nhân lập tức sáng lên ánh nhìn thân thiết, bà vỗ nhẹ vào bàn tay của Ngũ Thập Lang, miệng cười tươi rói, đưa lời hứa hẹn: “Tô cô nương, cô đúng là đại ân nhân của Ngự Kiếm sơn trang chúng tôi. Nếu lần này, cô nương có thể thu phục được con quỷ ác độc ấy, ta sẽ bảo Vô Song múa kiếm cho cô nương xem cả đời.”
Ngũ Thập Lang càng thêm bí bách, mắt rưng rưng nhìn đám hộ vệ mặt hớn mày hở, cười nhăn nhở phía sau, chẳng biết đáp lại tấm thịnh tình đó thế nào cho phải, đành chuyển chủ đề: “Đại phu nhân, là cái gì đã tác oai tác quái ở đây thế?”. Cô hoàn toàn không tin vào chuyện ma quỷ tồn tại nên ngay tức khắc hỏi là đang có thứ gì tác oai tác quái.
Thái độ của đại phu nhân bỗng nghiêm nghị hẳn lại, mở to đôi mắt u buồn, sầu thảm nhìn lên trần nhà. Sau khoảng một tuần trà, bà đột nhiên nghiến chặt răng, vẻ mặt cực kì hình sự, nói với ngữ khí vô cùng nghiêm trọng: “Là ma quỷ! Là bọn ma quỷ vô cùng ghê gớm!”
Thế thì có khác gì so với không nói cơ chứ?
Ngũ Thập Lang đành tiếp tục đặt câu hỏi: “Vậy tam phu nhân đã chết kiểu gì?”
Cô vừa dứt lời, nhị phu nhân liền khóc òa lên, tay đập bàn liên tục, dáng vẻ đau khổ như mẹ đẻ vừa mới qua đời.
Thấy vậy, Ngũ Thập Lang không khỏi xúc động. Xem ra, tình cảm giữa tam phu nhân và nhị phu nhân rất thân thiết.
Kì thực thì hoàn toàn không phải như vậy.
Đại phu nhân liếc nhìn nhị phu nhân đang khóc lóc đau khổ rồi chán nản quay sang nói với Ngũ Thập Lang: “Thi thể của tam phu nhân hiện vẫn chưa được tìm thấy. Di vật duy nhất mà muội ấy để lại là ở bát canh hạt sen của nhị phu nhân.”
Một ngón tay thon dài, trắng trẻo cùng chiếc nhẫn mã não màu đỏ mà tam phu nhân thích đeo nhất được ngâm trong bát canh hạt sen của nhị phu nhân. Nếu không phải hôm đó, miệng nhị phu nhân bị nhiệt nên phải ăn uống vô cùng chậm rãi như thục nữ thì ngón tay ấy đã chẳng tìm thấy được, bởi lúc bình thường, nhị phu nhân toàn nâng cả bát lên, làm một hơi hết sạch, e rằng khi ấy, ngay cả một cái móng tay cũng chẳng còn sót lại.
Nguyên nhân thực sự khiến cho nhị phu nhân khóc như bò rống là vì bà không cẩn thận nuốt phải chiếc nhẫn mã não, đến tận hôm nay mà vẫn ăn uống không ngon miệng, bụng dạ chẳng lành.
“Vậy nên, Tô cô nương, tới tối mai là đúng ba ngày sau khi xảy ra chuyện, ta sợ thứ ác quỷ đó lại mò tới đây. Chúng ta phải làm thế nào bây giờ, Tô cô nương?”
Gần đây, đại phu nhân kiếm bất li thân, hễ hơi lo lắng, căng thẳng một chút là tay bà lại nắm chắc thanh kiếm đó.
Ngũ Thập Lang than ngắn thở dài. Thực lòng, cô chẳng thể nào nghĩ ra cách nào cả. Bản thân lại không biết lấy một chút võ công, cứ mơ mơ hồ hồ bị lôi tới đây, giải thích thế nào cũng không một ai tin. Nếu nói đến chuyện phòng bị thì bản thân cô mới chính là người sẽ gặp nguy hiếm nhất.
Thế nhưng, cô lại không nỡ lòng nào mà rút lui bỏ chạy, vì nói cho cùng, cô chính là tia hi vọng cuối cùng của họ. Nếu cô cứ như vậy mà lén lút bỏ đi thì chắc chắn mọi người sẽ suy sụp, sầu thảm chết mất.
Ngũ Thập Lang đã từng trải qua sự việc tương tự. Hồi đó, cô còn rất nhỏ, bị kẻ xấu bắt cóc tống tiền, bị bịt mắt và nhốt trong một chiếc rương suốt ba ngày ba đêm, không có bất cứ một khe hở nào để trốn thoát. Ở cùng cô còn có một đứa bé trai lớn hơn cô đôi chút.
Tuy cậu bé ấy không nói gì nhiều, nhưng lại khiến Ngũ Thập Lang cảm thấy an tâm một cách kỳ lạ, trong mấy ngày đen tối đó, cậu bé đã trở thành tia hi vọng cuối cùng của bản thân cô. Dù không được ăn uống gì trong mấy ngày trời, đám thổ phỉ kia cũng đã từng nghĩ đến chuyện giết con tin bịt đầu mối, nhưng Ngũ Thập Lang lúc ấy chưa lúc nào từ bỏ hi vọng.
Bởi vì bên cạnh cô có một người có thể để cô nương dựa dẫm.
Khi đó, Ngũ Thập Lang vô cùng hoang mang, cứ nắm chặt lấy vạt áo của cậu bé không chịu buông. Một đứa trẻ năm tuổi tính ỷ lại vốn dĩ rất cao, huống hồ lại còn ở trong tình cảnh khốn khổ đó nữa. Nhưng chỉ một lời hứa rất giản đơn đã giúp Ngũ Thập Lang bình tĩnh lại một cách thần kì. Cô mãi mãi nhớ rằng ngay cả khi đã giằng đứt được dây trói nhưng cậu bé ấy đã vì cô mà ở lại, không trốn đi trước.
Cô vẫn nhớ cả đêm hôm đó nữa…
Đêm hôm đó, sao trời sáng lấp lánh, ánh trăng chiếu xuyên qua kẽ rương, nhưng ánh mắt của cậu bé đó còn sáng hơn cả sao, cương nghị và chín chắn lạ thường, hoàn toàn không giống với một cậu bé ở tầm tuổi đó chút nào. Cậu ấy đã nhấn mạnh từng chữ hứa với Ngũ Thập Lang rằng: “Ta sẽ không bỏ muội lại một mình đâu. Nếu chỉ một người có thể thoát thân thì muội sẽ là người đầu tiên đi ra khỏi nơi này.”
Cậu bé đó vốn rất ít lời, trong suốt mấy ngày hôm đó, những lời cậu ấy nói ra chưa đến hai chục từ. Chỉ duy có câu nói trên là dài nhất, lại còn mang theo một cảm giác vô cùng an toàn, đáng tin cậy, khiến cho Ngũ Thập Lang lập tức cảm thấy an tâm hơn rất nhiều.
Thế nên bây giờ, nhìn thấy già trẻ lớn bé trong Ngự Kiếm sơn trang, người nào người nấy đều cực kì hoang mang, hoảng loạn, Ngũ Thập Lang thực sự đồng cảm với họ, thực lòng chẳng thể nhẫn tâm đến mức lén lút trốn đi một mình được.
“Tô cô nương, cô nương sẽ giúp đỡ chúng ta chứ?”
Không gian tĩnh lặng tới mức có thể nhận thấy chuỗi tràng hạt của nhị phu nhân đang chuyển động một cách bất an.
Ngũ Thập Lang khẽ mỉm cười rồi chậm rãi nói: “Ta chắc chắn sẽ không bỏ mặc mọi người đâu. Tuyệt đối là không!”
Hơn nữa vài ngày sau, Vô Song công tử cũng sẽ quay về, có một người võ công lợi hại như vậy ở bên cạnh, chắc chắn mọi người sẽ không còn mơ hồ, hoảng loạn. Còn mình, cô sẽ cố gắng ở lại cùng những con người đang vô cùng căng thẳng, sợ hãi này, đợi cho tới khi công tử trở về.
Lời hứa của Ngũ Thập Lang chẳng khác nào cơn gió xuân ấm áp thổi thẳng vào trái tim đang run lên vì hoảng sợ, thất kinh của mọi người. Toàn bộ mọi người trong sơn trang lúc này đều thở phào nhẹ nhõm như vừa trút được một gánh nặng, như thể đã tìm ra một ngọn núi vững chãi để dựa vào. Bầu không khí trong sơn trang lập tức trở nên thoải mái hơn trước rất nhiều.