Biên Niên Sử Xứ Prydain Chương 10

Chương 10
Pryderi xuất hiện

Caer Dathyl đã biến thành một khu trại binh, nơi các tia lửa nom như những bông tuyết nóng rực xoáy tròn bốc lên từ lò rèn của những người thợ rèn vũ khí. Khoảng sân rộng mênh mông của khu pháo đài âm vang tiếng đóng móng sắt cho ngựa chiến và tiếng tù và hiệu lệnh lanh lảnh. Mặc dù giờ nhóm bạn đã được an toàn giữa các bức tường thành rồi, Công chúa Eilonwy vẫn không chịu đổi bộ quần áo chiến binh bằng vải thô của mình lấy một bộ y phục thích hợp hơn. Điều duy nhất cô chịu làm_và cũng chỉ bằng lòng hết sức miễn cưỡng_là gội đầu. Trong triều đình vẫn còn lại một số các công nương và phu nhân, số còn lại đã được gửi đến những pháo đài an toàn hơn ở phía đông, nhưng Eilonwy nhất quyết không chịu cùng ngồi với họ trong các căn buồng xe sợi và dệt vải.

“Caer Cathyl có thể là thành trì lộng lẫy nhất toàn Prydain này thật đấy,” cô tuyên bố, “nhưng các công nương thì vẫn là các công nương thôi, cho dù họ có ở đâu đi chăng nữa, và tôi đã ngấy đàn gà mái của Hoàng hậu Teleria lắm rồi. Phải nghe họ cười rinh rích và tán chuyện tầm phào_như thế còn tệ hơn cả bị chọc lông vũ vào tai nữa. Để trở thành một cô Công chúa, tôi đã gần như bị dìm chết trong nước xà phòng và thế là đủ lắm rồi. Tóc tôi vẫn còn âm ẩm như rong biển ấy. Còn về váy áo thì thế này thôi tôi cũng thấy thoải mái chán. Dù sao thì tôi cũng đã bỏ mất hết cả áo dài của mình rồi, và tôi sẽ không chịu để người ta may đo áo mới đâu. Các thứ quần áo tôi đang mặc đây là được lắm rồi.” 

“Chẳng có ai nghĩ đến việc hỏi ta xem quần áo của ta có thích hợp không,” Glew cáu kỉnh nhận xét, mặc dù y phục của tên khổng-lồ-một-thời, theo như những gì Taran nhìn thấy, thì hãy còn tốt hơn áo quần của nhóm bạn nhiều. “Nhưng ta đã quen với chuyện bị đối xử tàn tệ rồi. Trong hang động của ta, khi ta còn là người khổng lồ, mọi thứ đều khác hẳn. Sự hào phóng ấy à! Than ôi, đã biến mất rồi. Ta nhớ lại khi đàn dơi và ta...”

Taran không còn đủ sức để phản đối lời Eilonwy và cũng chẳng có thời gian để nghe những câu lải nhải của Glew. Gwydion, sau khi nghe tin nhóm bạn đã tới nơi, liền cho gọi Taran đến Bảo Điện. Trong khi Coll, Fflewddur, cùng với Gurgi lo chuẩn bị đồ dùng và thức ăn cho những người lính đã cùng đến nơi với họ thì Taran đi theo một người lính gác vào Điện. Khi thấy Gwydion đang bàn bạc với Đức Thượng Hoàng Math Con Trai của Mathonwy, Taran không dám tới gần; nhưng Math vẫy cậu lại, và Taran quỳ một đầu gối xuống trước mặt vị quốc vương râu bạc trắng.

Đức Thượng Hoàng chạm vào vai Taran bằng một bàn tay khô héo nhưng rắn chắc, và cho phép cậu đứng lên. Taran chưa từng được gặp lại Math Con Trai của Mathonwy kể từ sau trận chiến giữa các Con Trai của Don và đội quân của Vua Sừng, và cậu thấy tuổi tác đã đè nặng lên vị quốc vương của Dòng họ Hoàng tộc. Khuôn mặt của Đức Thượng Hoàng thậm chí còn tiều tụy hơn và những nếp nhăn hằn sâu hơn cả mặt cụ Dallben; trên trán Người chiếc Vương Miện Vàng của Dòng họ Don nom như một gánh nặng tàn nhẫn. Thế nhưng mắt Người vẫn tinh tường và tràn đầy một vẻ kiêu hãnh nghiêm nghị. Hơn thế nữa, Taran còn cảm nhận được cả một nỗi đau buồn sâu sắc đến nỗi chính tim cậu cũng nhói đau và cậu cúi đầu xuống.

“Hãy ngẩng đầu lên nhìn ta đi, chàng Phụ-Chăn Lợn,” Math khẽ ra lệnh. “Đừng sợ phải thấy điều mà chính ta đã biết rõ. Bàn tay thần chết đã tìm đến với ta và ta không sợ phải nắm lấy nó đâu. Từ lâu rồi ta đã được nghe tiếng tù và của Gwyn Thợ Săn, ngay cả một vị vua cũng không thoát khỏi tiếng nó gọi đến nấm mồ của mình.

“Ta sẽ vui lòng đáp lại tiếng tù và,” Math nói, “bởi vì chiếc vương miện là một chủ nhân khắc nghiệt lắm; còn tàn nhẫn hơn cả cây gậy của một chàng chăn lợn nữa; bởi vì trong khi cây gậy đỡ ta lên thì chiếc vương miện lại đè ta xuống, nặng nề quá sức đối với bất kỳ kẻ nào mong được đội nó một cách dễ dàng. Điều làm ta đau lòng không phải cái chết của ta; mà là đến cuối đời ta lại phải thấy máu đổ trên mảnh đất mà ta chỉ muốn giữ cho mãi mãi thanh bình.

“Hẳn con cũng đã biết về lịch sử của Dòng họ Hoàng tộc chúng ta, về việc các Con Trai của Don đã cưỡi đoàn thuyền vàng của mình đến Prydain ra sao, về việc con người đã được họ bảo vệ khỏi Arawn Chúa tể Tử địa ra sao, khi hắn đã cướp hết mọi báu vật của Prydain và biến một xứ sở tươi đẹp, thịnh vượng thành cánh đồng hoang. Từ đó trở đi các Con Trai của Don đã trở thành một tấm khiên chống lại mọi sự phá hoạ i của Annuvin. Nhưng tấm khiên giờ đã bị đập vỡ, và rồi tất cả sẽ tan nát cùng với nó.”

“Chúng ta sẽ chiến thắng,” Gwydion nói. “Chúa tể Annuvin đã đặt cược tất cả vào trận chiến liều lĩnh này, nhưng sức mạnh của hắn cũng là điểm yếu của hắn, bởi vì nếu chúng ta thắng được hắn thì quyền lực của hắn sẽ vĩnh viễn bị tiêu diệt.

“Chúng ta đã nghe được cả tin tốt lẫn tin xấu,” Gwydion nói tiếp. “Về tin xấu thì là Vua Smoit và đội quân của ông ấy đang bị bao vây ở Thung Lũng Ystrad. Mặc dù rất kiên cường, nhưng ông ấy vẫn không thể phá vòng vây để hướng về phía bắc trước khi mùa đông kết thúc được. Dù sao thì ông ấy cũng vẫn giúp được chúng ta, bởi vì binh lính của ông ấy đã kìm chân bọn phản bội trong đám lãnh chúa phương nam và không cho chúng gia nhập các đoàn quân khác của Arawn. Những quốc vương khác ở phương bắc cũng đang kéo xuống, nhưng họ đi rất chậm, bởi vì đối với họ, mùa đông là một kẻ địch còn đáng gờm hơn cả Arawn nữa.

“Tin đáng mừng hơn, đó là đội quân ở Lãnh Thổ phía Tây chỉ còn cách thành trì của chúng ta một vài ngày đường nữa thôi. Quân trinh sát đã nhìn thấy họ rồi. Đó là đội quân hùng mạnh nhất đã được thu thập ở Prydain, và do đích thân Vua Pryderi chỉ huy. Ông ấy đã làm tất cả những gì mà tôi mong đợi ở ông ấy, và còn hơn thế nữa. Điều duy nhất khiến tôi lo lắng là các chư hầu của Arawn có thể gây chiến và bắt ông ấy phải xoay sang đường khác, trước khi ông ấy kịp đến Caer Dathyl. Nhưng, nếu thế thì chúng ta sẽ được báo trước và đội quân của chúng ta sẽ đến tiếp viện cho ông ấy.

“Cũng không kém phần đáng mừng,” Gwydion nói thêm, một nụ cười làm nét mặt u sầu và hốc hác của ông sáng lên, “là việc Taran xứ Caer Dallben và các chiến binh đến từ Vùng đất Tự do đã tới nơi. Tôi đã rất tin tưởng vào chàng trai này, và sẽ còn phải trông cậy vào cậu ta nhiều nữa.”

Sau đó Gwydion bàn về việc cắt cử các kỵ sĩ và đội lính bộ binh của Taran. Đức Thượng Hoàng chăm chú lắng nghe và gật đầu đồng tình.

“Con hãy đi hoàn thành nhiệm vụ của mình đi,” Math bảo Taran. “Bởi vì đã đến ngày mà cả một chàng Phụ-Chăn Lợn cũng phải mang giúp gánh nặng của một vị vua rồi.”

Trong những ngày sau đó, nhóm bạn làm việc ở bất cứ nơi nào cần và theo lệnh của Gwydion. Ngay cả Glew cũng tham gia một chút vào công việc_nhưng chỉ là do bị Fflewddur Fflam khăng khăng thúc ép chứ không phải do y tự quyết định. Dưới cặp mắt chăm chú theo dõi của ông Thợ Rèn Hevydd, tên khổng-lồ-một-thời được giao cho nhiệm vụ bơm hơi để thổi bễ lò rèn, và y lại không ngừng kêu ca về những vết phồng rộp trên hai bàn tay múp míp của mình.

*  *  *

Không chỉ là một thành trì sẵn sàng cho chiến trận, Caer Dathyl còn là một nơi chứa đầy kỷ niệm và đầy vẻ đẹp. Giữa những bức tường thành, ở đầu bên kia sau vô số khoảng sân trong lâu đài, là một trảng cỏ mọc đầy độc cần cao vút, và nằm giữa chúng là những gò đấ t tưởng niệm các vị quốc vương và các anh hùng từ thuở xa xưa. Những gian đại sảnh đặt đầy các giá vũ khí bằng gỗ được chạm trổ và trang trí, với những bộ vũ khí có lịch sử lâu dài và cao quý, những lá cờ và huy hiệu đã trở nên lừng danh nhờ các bài hát của đoàn ca sĩ hát rong. Trong các gian nhà khác là những món báu vật và đồ thủ công quý giá nhất gửi từ mọi vương quốc và mọi ngôi làng trên toàn Prydain tới; ở đó, Taran nhìn thấy, với một thoáng đau nhói trong tim, một chiếc bình đựng rượu tuyệt đẹp được làm ra bởi Annlaw Thợ Gốm.

Nhóm bạn, khi không bận việc gì, đã khám phá ra được vô số điều kỳ diệu và thú vị. Coll chưa từng được đến Caer Dathyl bao giờ, và bác không thể rời mắt khỏi những mái vòm và những ngọn tháp nom như còn vươn cao vút hơn cả các đỉnh núi tuyết phủ bên ngoài tường thành.

“Tất cả đều rất đẹp,” Coll thừa nhận, “và được xây dựng khéo léo lắm. Nhưng chính mấy tòa tháp này làm tôi nhớ ra là những cây táo của tôi phải được tỉa cành cẩn thận hơn. Và khi bị bỏ mặc không được chăm sóc thì khu vườn của tôi cũng chỉ cho nhiều hoa trái như những phiến đá lát sân ở đây mà thôi.”

Một người đàn ông cất tiếng gọi họ và vẫy họ lại ô cửa của một căn nhà nhỏ nhất và đơn sơ nhất. Người ông cao lớn, gương mặt dãi dầu mưa nắng; mớ tóc bạc buông thẳng xuống vai ông. Một chiếc áo choàng vải thô của người chiến binh khoác lùng thùng trên người ông, nhưng ở dải thắt lưng da không trang trí gì của ông không có gươm mà cũng chẳng có đao. Trong khi nhóm bạn theo sau, Fflewddur chạy tới bên người đàn ông ngay tức thì, và không để ý đến lớp tuyết, khuỵu một đầu gối quỳ xuống trước mặt ông.

“Có lẽ chính ta mới là người phải cúi chào anh mới đúng, Fflewddur Fflam Con Trai của Godo ạ,” người đàn ông mỉm cười nói, “và xin được miễn lễ.” Ông quay sang nhóm bạn và chìa tay ra. “Ta biết các bạn rõ hơn là các bạn biết ta nhiều,” ông nói, và bật cười hồn hậu trước vẻ ngơ ngác của họ. “Tên ta là Taliesin.”

“Trưởng hội Ca Sĩ của Prydain,” Fflewddur nói, mỉm cười tự hào và sung sướng, “người đã tặng cho tôi cây đàn hạc này. Tôi chịu ơn ông ấy.”

“Điều đó thì tôi không dám chắc,” Taliesin đáp lại, trong khi nhóm bạn đi theo ông qua cánh cửa và bước vào một căn buồng rộng rãi chỉ đặt vài chiếc ghế tựa và ghế băng vững chãi, và một cái bàn dài bằng một thứ gỗ có vân lạ mắt đang sáng lên dưới ánh sáng của một ngọn lửa lò bập bùng vui vẻ. Những tập sách cổ xưa cùng với hàng chồng hàng cuộn giấy da chất đầy khắp bốn bức tường và vươn cao lên đến tận xà nhà tối sẫm.

“Đúng thế, anh bạn ạ,” vị Trưởng hội Ca Sĩ nói với Fflewddur, “tôi vẫn thường nghĩ về món quà ấy. Quả thực, lương tâm tôi đã hơi áy náy một chút về nó.” Ông đưa mắt nhìn chàng ca sĩ với vẻ sắc sảo nhưng cũng đầy ân cần và hóm hỉnh. Mới đầu Taran thấy Taliesin là một người đã có tuổi; nhưng giờ thì cậu không thể đoán được tuổi của vị Hội trưởng nữa. Gương mặt của Taliesin, mặc dù hằn đầy nếp nhăn, nom như vẫn chứa đựng sự pha trộn kỳ lạ giữa sự thông thái của người cao tuổi và vẻ trẻ trung. Ông không đeo một thứ gì để cho biết địa vị của mình; và Taran nhận ra rằng điều đó là không cần thiết. Giống như Adaon, con trai ông, người bạn đồng hành của Taran cách đây đã thật lâu rồi, mắt ông cũng có màu xám, sâu thẳm và dường như có thể nhìn xuyên qua những gì chúng hướng vào, trên gương mặt và trong giọng nói của vị Trưởng hội Ca Sĩ có một vẻ quyền uy mạnh mẽ hơn cả một vị chiến tướng và oai vệ hơn cả một vị vua.

“Ta biết rõ tính năng của cây đàn hạc khi ta tặng nó cho anh,” vị Hội trưởng nói tiếp. “Và, vì biết rõ cả tính tình của anh nữa, ta nghĩ rằng anh sẽ luôn gặp rắc rối với mấy sợi dây đàn.”

“Rắc rối ấy à?” Fflewddur kêu lên. “Ồ, không hề! Chưa bao giờ...” Hai sợi dây đứt phựt và kêu “tưng” một tiếng to đến nỗi làm Gurgi giật thót mình. Mặt Fflewddur đỏ nhừ đến tận đầu mũi. “Sự thật là, khi nghĩ lại cho kỹ thì, cái đàn cũ rích này đã bắt tôi phải nói thật_à, ờ, nhiều hơn thường lệ một chút, nói thế có được không nhỉ? Nhưng tôi cũng thấy là nói thật thì chẳng hại đến ai hết, kể cả chính tôi nữa.”

Taliesin mỉm cười. “Nếu vậy thì anh đã học được một bài học không nhỏ đâu. Món quà của ta tuy là một trò đùa, nhưng cũng không phải hoàn toàn là một trò đùa. Có lẽ hãy coi nó là tiếng cười của một tấm lòng dành cho một tấm lòng khác. Nhưng anh đã vui lòng chịu đựng nó. Giờ thì ta xin tặng cho anh bất kỳ cây đàn nào anh muốn,” ông nói.

Taliesin chỉ về một chiếc giá có đặt mấy cây đàn hạc, cái mới, cái cũ, và có những cái còn uốn lượn đẹp mắt hơn cả cây đàn mà Fflewddur đang đeo. Với một tiếng reo vui sướng, Fflewddur liền bước tới chỗ chúng, âu yếm lướt ngón tay qua bộ dây của từng cây đàn một, ngắm nghía cách chúng được chế tác khéo léo ra sao, đi từ cái này sang cái nọ và lại quay trở lại.

Anh do dự một hồi lâu, buồn bã nhìn hai sợi dây mới đứt ở cây đàn của mình và những vết xước, sứt sẹo trên khung đàn. “À_phải, ngài khiến tôi rất vinh dự,” anh bối rối khẽ nói, “nhưng cái đàn cũ này đối với tôi đã là tốt lắm rồi. Tôi thề là có những lúc tự nó chơi lấy kia đấy. Không cây đàn nào có tiếng nhạc hay hơn; nghĩa là khi các sợi dây đều đã được nối lại. Nó nằm trên vai tôi cũng rất thoải mái. Tôi không muốn tỏ ý xem thường mấy cây đàn này, nhưng tôi định nói là không hiểu sao chúng tôi đã quen với nhau rồi. Vâng, tôi rất biết ơn. Nhưng tôi sẽ không đánh đổi nó lấy cái khác đâu.”

“Thế cũng được,” Taliesin đáp lại. “Còn các bạn,” vị Trưởng hội Ca Sĩ quay sang nhóm bạn nói thêm, “các bạn đã nhìn thấy rất nhiều báu vật của Caer Dathyl. Nhưng các bạn đã được thấy niềm kiêu hãnh đích thực và báu vật vô giá nhất của nó chưa? Nó nằm ở đây,” ông khẽ nói, đưa tay một vòng quanh căn buồng. “Gian Điện Tri Thức này chứa đựng phần lớn những học vấn cổ xưa nhất của Prydain. Mặc dù Arawn Chúa tể Tử địa đã lấy cắp các bí quyết nghề nghiệp của con người, hắn vẫn không thể lấy được những bài hát và những câu thơ của các ca sĩ hát rong của chúng ta. Chúng đã được cẩn thận thu về đây. Các bài hát của anh, anh bạn can đảm của ta ạ,” ông nói với Fflewddur, “ở đây có không phải là ít đâu.

“Ký ức tồn tại lâu hơn những gì nó tự nhớ được,” Taliesin nói. “Và tất cả mọi người đều chia sẻ ký ức và học vấn với những người khác. Bên dưới căn buồng này còn là các kho báu quý giá hơn nữa.” Ông mỉm cười. “Cũng giống như thơ ca, điều vĩ đại hơn lại nằm ở chính phần được giấu kín. Còn có cả gian Điện của các Ca Sĩ nữa. Than ôi, Fflew-ddur Fflam ạ,” ông nói vẻ tiếc nuối, “chỉ có một ca sĩ thực thụ thì mới có thể đặt chân vào đó mà thôi. Mặc dù có thể rồi một ngày kia anh cũng sẽ gia nhập cùng với chúng tôi.”

“Ôi, những người ca sĩ cao quý mới thông thái làm sao!” Gurgi kêu lên, mắt trố ra vì kinh ngạc. “Nó làm cái đầu yếu ớt khốn khổ của Gurgi quay cuồng lên rồi! Than ôi, than ôi, bởi vì nó không có chút trí khôn nào hết! Nhưng nó sẵn sàng chịu không có đồ nhai gặm để học được điều đó!”

Taliesin đặt tay lên vai con vật. “Mi nghĩ rằng mình không có trí khôn ư?” ông nói. “Không đúng đâu. Một chiếc khung cửi có thể dệt ra được bao nhiêu mẫu hoa văn thì cũng có bấy nhiêu trí khôn. Trí khôn của mi là trí khôn của một trái tim tốt lành và chân thành. Nó rất hiếm có, và vì vậy càng đáng giá hơn.

“Coll Con Trai của Collfrewr cũng vậy,” vị Trưởng hội Ca Sĩ nói, “và thêm vào đó còn có cả sự hiểu biết đất đai, cái tài đánh thức lớp đất khô cằn và làm cho mặt đất sinh sôi ra được một vụ mùa bội thu.”

“Khu vườn của tôi đã làm tất cả những điều đó, chứ không phải là tôi,” Coll nói, mái đầu hói của bác ửng hồng vừa vì vui sướng vừa vì ngượng nghịu. “Và cứ như khi nhớ lại tình trạng của nó lúc tôi bỏ nó đi, thì tôi sẽ phải đợi khá lâu mới có được một vụ mùa nữa đấy.”

“Cháu đã được gửi đến Đảo Mona để học hỏi,” Eilonwy xen vào. “Đó là lý do tại sao cụ Dallben lại gửi cháu đến đó. Thế mà tất cả những gì cháu học được chỉ là khâu vá, nấu nướng và nhún đầu gối chào.”

“Học tập không giống như sự thông thái,” Taliesin ngắt lời cô với một tiếng cười thân ái. “Trong huyết mạch của cô, Công chúa ạ, là dòng máu của các nữ pháp sư Dòng họ Llyr. Học vấn của cô có lẽ là điều bí ẩn hơn cả, bởi vì cô có được nó trong khi chính bản thân mình cũng không hay biết; chẳng khác nào chính trái tim biết cách đập vậy.”

“Than ôi, học vấn của cháu thì chẳng có gì,” Taran nói. “Cháu đã ở bên con trai ngài vào phút hấp hối của anh ấy. Anh ấy đã trao cho cháu một chiếc trâm cài có quyền năng hết sức mạnh mẽ, và khi đeo nó cháu đã hiểu được rất nhiều điều, và nhiều điều trước kia bị giấu kín đã trở nên rõ ràng đối với cháu. Chiếc trâm cài không còn là của cháu nữa, nếu đúng là nó đã từng thuộc về cháu thật. Những điều cháu biết được lúc ấy thì cháu chỉ còn nhớ được như một giấc mơ vương vất lại nhưng không thể nắm bắt nổi.”

Một vẻ đau buồn thoáng hiện ra trên mặt Taliesin. “Có những người,” ông khe khẽ nói, “phải học được sự mất mát, nỗi đau khổ và tuyệt vọng trước đã. Trong số những con đường dẫn tới sự thông thái thì đó là con đường dài nhất và tàn nhẫn hơn cả. Cháu có phải là người phải đi con đường ấy không? Điều đó thì ngay cả ta cũng không biết được. Nếu đúng thì cháu cứ hãy vững tâm. Ai đến được đoạn kết của con đường sẽ giành được nhiều hơn cả sự thông thái nữa kia. Cũng như len thô biến thành vải, và đất sét biến thành đồ gốm, họ cũng sẽ thay đổi và tạo ra sự thông thái cho những người khác, và họ có thể trao cho người khác những điều còn vĩ đại hơn cả những gì họ đã tìm thấy.”

Taran đang định lên tiếng thì một tiếng tù và hiệu lệnh bỗng vang lên từ Tòa Tháp Giữa và quân lính ở các tháp canh reo vang. Quân trinh sát báo rằng đã nhìn thấy đội quân của Vua Pryderi. Taliesin liền dẫn nhóm bạn trèo lên một cầu thang đá rộng để lên đỉnh Điện Tri Thức, ở đó họ có thể nhìn qua bên trên các bức tường thành. Taran chỉ có thể thoáng nhìn thấy vầng mặt trời đang ngả về phía tây phản chiếu lấp lánh trên các hàng giáo đang đi qua thung lũng. Thế rồi, một số kỵ sĩ rời khỏi đội quân và phóng qua cánh đồng tuyết phủ. Trên nền thảo nguyên mênh mông, người kỵ sĩ dẫn đầu nom nổi bật hẳn lên với bộ yên cương màu đỏ thắm, đen nhánh và vàng óng, và ánh mặt trời lóe sáng trên chiếc mũ vàng của ông ta. Taran không được ngắm nhìn thêm nữa, bởi vì lính canh đang gọi tên nhóm bạn, triệu họ đến gian Đại Sảnh.

Vồ lấy lá cờ hình Lợn Trắng, Gurgi vội vã chạy theo Taran. Nhóm bạn nhanh chóng đi tới gian Đại Sảnh. Một chiếc bàn dài đã được đặt ở đó; ngồi ở đầu bàn là Math và Gwydion. Taliesin ngồi xuống bên phía tay trái của Gwydion; bên phải Math là một chiếc ngai để trống có phủ ngọn cờ của Hoàng gia Pryderi. Ngồi hai bên bàn là các Ông hoàng khác của Dòng họ Don, các nhà quý tộc trong vương quốc, và các vị tướng.

Đứng vòng quanh gian Đại Sảnh là những người cầm cờ. Gurgi nhìn quanh mình vẻ hốt hoảng; nhưng, khi thấy Gwydion ra hiệu, liền đến đứng cùng với họ. Con vật tội nghiệp nom có vẻ khổ sở và sợ chết khiếp vì phải đứng giữa những người chiến binh nghiêm nghị. Nhưng nhóm bạn liếc nhìn nó vẻ động viên, và bác Coll cười với nó một cách tươi tắn và nháy mắt vui vẻ đến nỗi Gurgi ngẩng cái đầu bờm xờm của mình và giương cao ngọn cờ của mình lên kiêu hãnh hơn bất kỳ ai khác trong gian Đại Sảnh.

Chính Taran cũng thấy lúng túng không kém khi Gwydion ra hiệu cho cậu và những người khác ngồi cùng với các vị tướng; mặc dù Eilonwy, vẫn mặc bộ quân phục của mình, thì mỉm cười sung sướng và có vẻ hoàn toàn thoải mái.

“Hừm!” Cô nhận xét. “Tôi nghĩ là hình Hen Wen nom rất đẹp, thậm chí còn đẹp hơn phần lớn các lá cờ khác nữa. Anh đã tỏ ra rất khó chịu về việc mắt nó màu xanh hay nâu. Tôi có thể cho anh biết là nó không kỳ quái bằng phâ n nửa những màu sắc mà họ đã thêu lên mấy lá cờ này...”

Eilonwy ngừng lại, bởi vì các cánh cửa đã được mở rộng và Vua Pryderi tiến vào gian Đại Sảnh. Tất cả mọi con mắt đều dồn về phía ông ta trong khi ông ta bước tới bên chiếc bàn hội nghị. Ông ta cũng cao bằng Gwydion, và bộ y phục sang trọng của ông ta lung linh dưới ánh đuốc. Ông ta không đội mũ, cái mà Taran đã nhìn thấy hóa ra là mớ tóc dài vàng óng của ông. Ông đeo bên sườn một thanh gươm trần, bởi vì đó là thói quen của Pryderi, theo như Fflewddur thì thầm giải thích cho Taran, không bao giờ tra gươm vào vỏ cho đến khi thắng trận. Theo sau ông ta là những người luyện chim với những con chim ưng đầu trùm kín đậu trên cổ tay đeo bao sắt của họ; các chiến tướng của ông ta, với hình con chim ưng đỏ thắm, huy hiệu của Dòng họ Pwyll thêu trên áo choàng; và hai hàng lính vác thương đi hai bên người cầm cờ của ông ta.

Gwydion, ăn mặc cũng giản dị như vị Trưởng hội Ca Sĩ, trong bộ y phục của một người chiến binh, đứng lên đón chào ông ta, nhưng Pryderi dừng lại trước khi đến bên chiếc bàn hội nghị và, đôi tay khoanh lại, đưa mắt quanh gian Đại Sảnh nhìn những vị quốc vương đang chờ đợi.

“Xin chào, các Ông hoàng,” Pryderi cất tiếng. “Tôi rất vui khi thấy các vị đều tập trung ở đây. Mối đe dọa từ Annuvin đã làm các vị quên đi những chuyện bất hòa của riêng mình. Một lần nữa các vị lại tìm đến sự che chở của Dòng họ Don, chẳng khác nào gà con thấy bóng diều hâu lượn qua.”

Giọng nói của Pryderi đầy vẻ khinh bỉ không giấu giếm. Taran giật mình vì lời nói gay gắt của vị Quốc vương. Đức Thượng Hoàng cau mày nhìn Pryderi, nhưng khi Người cất tiếng thì giọng nói của Người vẫn điềm tĩnh và nghiêm nghị.

“Thế là thế nào, Vua Pryderi? Chính ta là người đã triệu đến tất cả những ai muốn cùng chiến đấu với chúng ta, bởi vì sự an toàn của tất cả đều phụ thuộc vào điều này.”

Pryderi mỉm cười nhạo báng. Gương mặt đẹp của ông ta đỏ bừng lên, vì lạnh hay vì giận dữ thì Taran không thể đoán được; máu dồn lên hai gò má cao nhô ra của Pryderi trong khi ông ta ngẩng cao mái đầu vàng rực lên và không chút nao núng đáp trả lại cái nhìn nghiêm khắc của Đức Thượng Hoàng.

“Liệu có kẻ nào ở lại không nếu hắn thấy mình bị đe dọa?” Pryderi trả lời. “Con người chỉ phục tùng khi bị một nắm tay sắt hay một lưỡi gươm gí vào cổ mà thôi. Những kẻ trung thành với ngài chịu đựng sự trung thành đó bởi vì nó phục vụ cho mục đích của chúng. Các lãnh chúa trong vương quốc có bao giờ hòa thuận với nhau, nhưng kẻ nào cũng chăm chăm xoay lợi từ điểm yếu của kẻ láng giềng của mình. Trong thâm tâm, chẳng phải chúng cũng xấu xa không kém gì Arawn Chúa tể Tử địa sao?”

Những tiếng rì rầm choáng váng và tức giận vang lên giữa các lãnh chúa. Math nhanh tay ra hiệu cho họ im lặng.

Sau đó Gwydion lên tiếng: “Không người nào đủ thông thái để có thể phán xét tâm địa của người khác,” ông nói, “bởi vì ở đó cái tốt và cái xấu lẫn lộn với nhau. Nhưng đây là những điều để nghiền ngẫm bên đống than hồng của ngọn lửa trại, như chúng ta đã từng làm; hoặc là ở cuối một buổi tiệc, khi những ngọn đuốc đã tàn. Sứ mệnh của chúng ta lúc này là bảo vệ Prydain. Nào, Pryderi Con Trai của Pwyll. Vị trí của ông đang chờ đợi và chúng ta có rất nhiều kế hoạch phải bàn bạc.”

“Ngài đã cho gọi ta, Ông hoàng của Dòng họ Don,” Pryderi trả lời, giọng cứng rắn như đá. “Ta đã đến. Để tham chiến với ngài ư? Không. Để bắt ngài phải đầu hàng.”

 

Hết chương 10. Mời các bạn đón đọc chương 11!

Nguồn: truyen8.mobi/t38320-bien-nien-su-xu-prydain-chuong-10.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận