Lối Vào Địa Ngục Chương 4


Chương 4
Cướp biển ngoài khơi

Ngày 5 tháng 7, 12 giờ 11 phút chiều

Đảo Giáng sinh

Quần đùi và ủng

Đó là tất cả những gì đứng giữa Monk và cả một biển lũ cua ăn thịt người. Cơn cuồng nộ ăn thịt hoành hành khắp khu rừng, đánh lộn, giằng xé. Nghe như tiếng lốp bốp của một vụ cháy rừng.

Trần trụi với bộ quần áo vi sinh trên tay, Monk quay lại phía tiến sĩ Richard Graff. Nhà nghiên cứu hàng hải ngồi co ro bên bìa rừng. Anh ta cũng phải lột bỏ bộ quần áo vi sinh như yêu cầu của Monk, nhăn nhó khi kéo mảnh vải plastic ra khỏi bên vai bị thương. Cuối cùng thì nhà nghiên cứu hàng hải cũng ăn mặc chỉnh tề hơn với chiếc quần soóc và áo sơ mi Ha-wai.

Mũi Monk chun lại khi anh bước tới chỗ Graff. Từ phía cánh rừng già, không khí bị thiêu cháy và mùi khét lẹt từ xác xúc vật chết dưới đất bốc lên như muốn đập vào mũi anh với mùi vị thật ghê tởm.

"Đã đến giờ đi rồi." Monk chau mày nói.

Một tiếng hét vọng lại từ phía căn hầm dẫn xuống bãi biển bị nhiễm độc. Lũ cướp biển đang tiến đến một cách thận trọng hơn. Graff, chốt ở đó, đã xếp những tảng đá vôi ở dưới hầm. Mặt khác, bọn chúng cũng không biết rằng khẩu súng lục của Monk chỉ còn một viên đạn. Nhưng nỗi sợ hãi và việc ném đá chỉ có thể làm chậm bước chân của bọn chúng


đôi chút.

Có đến hơn một trăm lần Monk phân vân về sự cố hữu kỳ lạ của những kẻ tấn công họ. Đói kém và tuyệt vọng chắc chắn khiến bọn chúng làm những điều ngu xuẩn. Nhưng nếu như bọn chúng muốn cướp và lấy đi chiếc thuyền Zodiac, chiếm đoạt những thứ họ được cung cấp và các thiết bị của họ để bán trên thị trường chợ đen Indonesia thì giờ đây chẳng còn điều gì ngăn chúng lại cả. Hầu hết lũ cướp biển địa phương, tàn bạo và dã man như vậy thì đều hoạt động theo kiểu cướp giật.

Vậy tại sao chúng lại kiên trì đến thế? Chỉ để làm họ câm lặng, che giấu đường đi của chúng? Hay có một lý do gì cá nhân hơn? Monk hình dung tên đeo mặt nạ rơi tòm xuống nước do trúng một phát đạn của anh. Hay chúng muốn
trả thù?

Bất cứ vì lý do gì, những kẻ tấn công không phải chỉ nghĩ đến chuyện chiến lợi phẩm - chúng muốn lấy máu người.

Graff cảm thấy như nghẹt thở với không khí đang cháy khi anh đứng dậy." Chúng ta đi đâu đây?"

"Quay lại thăm những ông bạn của chúng ta?"

Monk dẫn anh ta vào khu bìa rừng. Chỉ cách đó một bước, cái biển màu đỏ rực những con cua đập lách cách. Số lượng của chúng hình như đã tăng lên trong mười phút qua, có thể bị hấp dẫn bởi giọng nói của họ hoặc những giọt máu tươi từ cái vai rỉ máu của Graff.

Nhà nghiên cứu hàng hải dừng lại chỗ bìa rừng." Không có cách nào đi qua lũ cua này. Những cái càng gớm ghiếc của chúng có thể xuyên qua da. Tôi đã nhìn thấy chúng cắt những ngón tay."

Và chúng rất nhanh.

Monk nhảy lui lại khi một cặp cua, gắn vào nhau trong một cuộc chiến sinh tử, chạy ngang qua họ, những cái chân nhọn hoắt nhanh như thỏ.

 

"Có vẻ như chúng ta không có nhiều sự lựa chọn."
Monk nói.

"Hình như có điều gì đó không đúng với lũ cua này." Nhà nghiên cứu nói. "Tôi đã chứng kiến một vài vụ tấn công của chúng lúc di trú nhưng chưa bao giờ đến cỡ này."

"Anh có thể phân tích chúng sau". Monk chỉ vào một cái cây lớn ở ngay đấy. Cây hạt dẻ Tahiti. Cây luôn có màu xanh xòe ra nhiều cành lớn. "Liệu anh có trèo được không?"

Graff buộc cánh tay bị thương áp vào bụng để tránh cho nó không phải vận động quá nhiều. "Tôi cần giúp đỡ. Nhưng tại sao vậy? Nó không thể che chở cho chúng ta khỏi bọn cướp. Chúng ta chỉ là những con vịt què."

"Hãy trèo lên đã." Monk dẫn anh ta đến chỗ cái cây rồi giúp anh ta leo lên. Cành cây rất rậm và dễ trèo. Graff cố gắng hết sức trèo cao hơn.

Monk nhảy xuống, cạnh một con cua. Nó giơ hai cái càng lên đe dọa. Không được rời bữa tiệc sớm quá, anh bạn. Monk đá mạnh nó vào lũ cua, rồi gọi Graff: "Anh có nhìn thấy miệng hầm không?"

"Tôi nghĩ... có, tôi có thể." Graff di chuyển trên cây. "Anh không để tôi lại đây chứ?"

"Anh hãy huýt sáo khi nhìn thấy lũ cướp."

"Thế anh...?"

"Trời, hãy làm việc đó vì Chúa đi." Monk hơi tiếc đã nói vẻ gay gắt. Anh tự nhắc nhở mình anh ta đâu phải là nhà binh. Nhưng đầu óc anh đang bận rộn với những mối băn khoăn khác. Anh hình dung ra vợ và đứa con sơ sinh của mình. Anh không thể nào đánh mất cuộc sống của mình cho một lũ cướp hoặc những con cua biển màu đỏ này.

Monk bò đến khu vực trống trải ở rừng rồi nhảy tới mép ngoài đám cháy. Bằng một cánh tay, anh giơ khẩu súng lên, giữ cân bằng bằng bàn tay giả. Anh ngẩng đầu lên rồi hít một hơi dài.

Xem anh có được gì nào...

 

Anh nghe thấy có tiếng động ở cây hạt dẻ phía sau. Nó giống như không khí thoát ra từ một quả bóng xẹp hơi.

"Chúng đang tới!" Anh nghe thấy tiếng nhà nghiên cứu hổn hển, căng thẳng, lấy tiếng gió trong giọng của anh ta.

Monk hướng tới khu vực trống. Anh có một viên đạn, một phát súng.

Bên kia rừng sáng lấp lánh hai cái bình không khí dựa vào chân một bụi cây. Trước đấy, khi họ cởi bỏ quần áo, Monk đã bảo Graff đưa cho anh cái bình dưỡng khí của mình. Cái bình này nhẹ, hoàn toàn làm bằng chất nhôm hợp kim. Dùng dây súng, Monk đã nhanh chóng buộc cái bình của tiến sĩ cùng với cái của anh rồi hạ chúng xuống bên kia bìa rừng. Những cái bình rơi xuống lũ cua đè bẹp hai con, làm những con xung quanh chạy toán loạn.

Monk ngắm kỹ chỗ cái bình khí, cố giữ mục tiêu bằng cả hai bàn tay  thật và giả.

"Chúng tới rồi." Graff rên rỉ.

Monk bóp cò súng.

Cú nổ bùng lên trong giây lát, rồi một trong hai chiếc bình bị nén khí phát ra một ngọn lửa. Những chiếc bình khí xoay và va đập, bật tung lên. Cái bình thứ hai bị tung và cú nhảy lại càng dữ dội hơn, đập mạnh vào lũ cua làm chúng rối loạn.

Thế là đủ.

Trước đây đã có lần Monk đi dọc bãi biển có những con cua và nhận thấy mỗi lần khi một con hải âu hoặc con vật lạ xuất hiện, sẽ quang quẻ chỉ  trong giây lát, rồi lũ cua lại bò về hang nằm trong cát. Ở đây cũng vậy. Lũ cua ở gần chỗ hỗn loạn nhất chạy trốn, trèo lên những con bên cạnh, làm tắc nghẽn trong cơn hoảng loạn, biến thành một cuộc tháo chạy hỗn loạn.

Cái biển cua lúc này quay ngược thủy triều hướng về phía Monk, cuống cuồng chồng chất, giẫm đạp lên nhau chạy trốn.

 

Anh lao về phía cây hạt dẻ, những gọng kìm xiết vào gót chân anh.

Anh nhảy và vội leo lên các cành cây. Một con cua túm chặt lấy đôi ủng của anh. Anh đập nó vào thân cây. Nó rơi xuống, cái càng vẫn quắp chặt lấy đôi ủng. Anh cảm thấy độ sắc của nó cắt vào gót chân.

Mẹ kiếp.

Phía dưới, cơn thủy triều của loài cua tràn qua như tuân theo một bản năng nào đó, có thể liên quan đến thói quen di trú của chúng. Chúng lao về phía biển.

Monk trèo lên chỗ Graff. Nhà nghiên cứu quàng một cánh tay lên thân cây. Anh ta nhìn  Monk, rồi quay lại phía cửa dẫn vào hang đá.

Lũ cướp biển, tất cả có sáu tên, đã ra khỏi hầm ngầm, tỏa rộng ra nhưng chúng vẫn cúi thấp đầu vì sợ bị súng lục bắn vào. Chỉ có lúc này, chúng mới đứng dậy, không chắc chắn lắm.

Rồi từ phía rừng, biển cua đang lao tới.

Nó đập vào gã đàn ông đứng gần bìa rừng nhất. Trước khi hắn kịp phản ứng, nhận ra chuyện gì đang xảy ra thì chúng đã bò lên chân rồi leo đến háng. Đột nhiên hắn thét lên, lùi lại. Rồi một chân khuỵu xuống.

Trong trận đấu súng, một tên mũ nồi xanh đã bị đạn bắn xuyên vào gót chân. Gã cũng ngã vật xuống theo cách giống như tên kia.

Gã nằm vật xuống một bên, gào thét.

Gã bị tràn ngập bởi lũ cua, chúng bò lên khắp cái thân xác đang giãy giụa của hắn. Những tiếng kêu la của gã vẫn tiếp tục, bị chôn vùi ở dưới. Có lúc, gã cố vùng dậy. Cái mặt nạ bị bật ra cùng với mũi, môi và tai. Cặp mắt gã đầy máu. Gã hét lên lần cuối cùng rồi ngã xuống đám thủy triều.

Những tên cướp khác chạy trốn trong cơn hoảng sợ cùng cực, lui về phía hang ngầm, biến mất. Một tên bị cắt khỏi cái hầm ngầm, bị hãm giữa những tảng đá hướng ra phía biển. Lũ cua đã lao vội tới gã.

 

Với tiếng hét cuối cùng, gã quay lại rồi nhảy vọt khỏi tảng đá.

Nhiều tiếng thét nữa vọng lên từ hang ngầm.

Giống như nước chảy xuống, cái biển cua đó tràn ngập lối vào hầm ngầm rồi tỏa ra như một cơn thủy triều với những cái càng nhọn hoắt.

Monk thấy Graff đang thở hổn hển bên cạnh anh, cặp mắt không chớp.

Anh thò tay ra chạm vào người anh ta. Anh ta co rúm người lại.

"Chúng ta phải đi thôi. Trước khi lũ cua quyết định quay trở lại rừng."

Graff để cho Monk dắt mình xuống nền rừng. Vẫn còn khoảng vài trăm con cua ở dưới đó. Họ di chuyển thận trọng qua chúng.

Monk bẻ một cành cây dẻ quét lũ cua ở gần.

Dần dần Graff cũng đã tỉnh lại, trở lại con người của mình. "Tôi... tôi muốn có những con cua đó."

"Chúng ta sẽ ăn thịt cua khi trở về tàu."

"Không phải. Để nghiên cứu. Dù thế nào, chúng đã sống sót qua đám mây chất độc. Điều này có thể quan trọng." Giọng của nhà nghiên cứu trở nên chắc chắn hơn.

"Được thôi." Monk nói. "Sau khi chúng ta đã bỏ lại tất cả các mẫu phẩm thì không thể trở về con tàu tay không được."

Anh vươn cánh tay giả chộp lấy một con cua nhỏ, túm lấy cái mai cua. Con vật màu vàng lập tức giương đôi càng cố gắng quắp lấy anh.

"Này, không được làm hỏng hàng hóa, anh bạn. Những ngón tay mới tôi phải trả bằng tiền của mình đấy."

Monk đập nó vào một thân cây, nhưng Graff dùng cánh tay lành ngăn lại. "Không! Chúng ta cần nó sống. Giống như tôi nói lúc trước đây, có cái gì đó không ổn về cách biểu hiện của chúng. Điều này cũng cần phải kiểm tra."

 

Miệng Monk mím chặt, bực tức. "Được thôi, nhưng nếu như con vật này cắn tôi, anh phải trả giá cho việc ấy."

Họ tiếp tục qua khu rừng, rồi đi dọc theo hòn đảo.

Sau khi đi bộ chừng bốn mươi phút, cánh rừng thưa dần và một khung cảnh trên đỉnh núi hiện ra. Thị trấn chính của hòn đảo có tên đơn giản là khu định cư trải dọc theo bãi biển và cảng. Phía biển bao bọc mé ngoài, một lâu đài thành trì màu trắng chính là con tàu "Người con gái của biển cả" đang neo đậu, một đám mây trong bầu trời nửa đêm xanh thẫm.

Thế là về đến nơi rồi.

Đập vào mắt Monk là một nhóm thuyền nhỏ, khoảng một tá đang chạy vòng, mỗi chiếc để lại phía sau một vệt nước trắng xóa. Tốp thuyền chạy theo hình chữ V, giống hệt như một đội hình tấn công của máy bay chiến đấu.

Một nhóm thuyền tương tự cũng xuất hiện từ phía bên kia cảng.

Ngay tận đây Monk cũng nhận ra hình thù và màu sắc của những chiếc thuyền.

Những chiếc thuyền cao tốc màu xanh, dài và nông.

"Nhiều tên cướp nữa..." Graff hổn hển.

Monk nhìn chăm chú vào hai nhóm thuyền đang xiết lại hai gọng kìm còn nguy hiểm chết người hơn cả lũ cua màu đỏ. Anh há hốc mồm trước tình thế nằm lọt vào giữa chúng.

Con tàu "Người con gái của biển cả."

 

*

*    *

 

1 giờ 5 phút chiều

Lisa chăm chú xem tấm phim X-quang.

Máy chiếu được đặt trên một chiếc bàn trong khoang. Đằng  sau nàng, một thân hình nằm dài trên giường, trùm kín từ đầu đến chân.

Chết.

 

"Giống như bị bệnh lao." Nàng nói. Phim chụp lồng ngực bệnh nhân đầy những vệt ổ lao. "Hoặc bị ung thư phổi."

Tiến sĩ Henrich Barnhardt, nhà nghiên chất độc người Hà Lan, đứng bên cạnh. Ông ta đã gọi nàng xuống đây.

"Đúng vậy, nhưng người vợ bệnh nhân cho biết nạn nhân không hề có triệu chứng đau đớn gì về hô hấp cách đây mười tám tiếng. Không ho, không khạc đờm và anh ta không hút thuốc. Và anh ta mới chỉ hai mươi bốn tuổi."

Lisa đứng thẳng người. Họ ở trong ca bin một mình. "Thế ngài đã kiểm tra phổi anh ta chưa?"

"Tôi đã dùng kim trích ra một ít chất lỏng từ phổi. Chắc chắn là có mủ, nhung nhúc vi khuẩn. Bị áp xe phổi chứ không phải ung thư."

Nàng ngắm nhìn khuôn mặt râu ria của Barnhardt. Ông ta đứng hơi cúi người xuống vì thân hình to như con gấu của ông làm ông hơi lúng túng nhưng cũng tạo cho ông vẻ tự tin. Ông đã không mời tiến sĩ Lindholm vào cuộc trao đổi này.

"Những phát hiện như vậy đều liên quan đến bệnh lao." Nàng nói.

Bệnh lao bị gây ra bởi một loại vi khuẩn tên là mycobac-terium, một loại lây nhiễm cao. Và trong khi lịch sử y tế ở đây rất khác thường, bệnh lao đã bị thống trị hàng năm, phát triển từ từ. Người đàn ông này có thể bị lây nhiễm từ nhiều năm, giống như một quả bom hẹn giờ- rồi sự phơi nhiễm  của anh ta với hơi độc có thể tác động vào phổi, đủ để làm cho căn bệnh phát triển. Người bệnh chắc chắn cũng có khả năng truyền bệnh vào lúc cuối.

Và cả nàng và tiến sĩ Barnhardt đều không mặc quần áo chống lây nhiễm.

Nhưng tại sao ông ta không cảnh báo mình?

"Đó không phải là bệnh lao," ông trả lời, "tiến sĩ Miller, chuyên gia bệnh truyền nhiễm trong nhóm chúng tôi, đã chỉ ra tế bào giống như là serratia marcescen, một loại vi khuẩn không thể so sánh được."

 

Lisa nhớ lại cuộc tranh luận trước đấy, liên quan đến người bệnh với loại vi khuẩn da thông thường mà chuyển hóa thành loại chất độc ăn thịt.

Nhà nghiên cứu vi trùng học khẳng định sự so sánh. "Một lần nữa chúng ta có được một loài vi khuẩn lành, không cơ hội trở thành ác tính."

"Nhưng thưa tiến sĩ Barnhardt, điều ngài gợi ý..."

"Hãy gọi tôi là Henri. Và tôi không gợi ý điều này. Mấy giờ qua, tôi đã nghiên cứu các ca tương tự. Tôi tìm thấy hai trường hợp khác. Một phụ nữ bị kiết lỵ hoành hành, gần như cày xới nát bộ ruột. Do loại vi khuẩn có tên là Lactobacillus acidophilus gây ra, vốn thông thường là một chất hữu cơ  lành ở ruột. Rồi có trường hợp một đứa trẻ bị co giật dữ dội khi cột sống bị đầy ứ chất Acetobacter aceti, một chất hữu cơ lành trong giấm. Nó đã ăn mòn não của cô bé."

Lắng nghe điều đó, Lisa nhận ra cái nhìn của mình cứ thu hẹp dần, tập trung vào điều vừa nêu.

"Và đó không chỉ là những trường hợp duy nhất."
Henri nói.

Nàng lắc đầu, không phải không đồng ý, chỉ là sự chắc chắn gia tăng một cách đáng sợ đối với những lời của ông ta. "Như vậy, có điều gì đấy chắc chắn đang biến những vi khuẩn lành tính này chống lại chúng ta."

"Biến bạn thành thù. Và nếu cái này trở thành một cuộc chiến tranh toàn diện, thì chúng ta sẽ nhanh chóng bị đè bẹp về số lượng."

Nàng ngước lên nhìn ông.

"Cơ thể con người bao gồm khoảng hơn một trăm nghìn tỉ tế bào, nhưng chỉ có mười nghìn tỉ là của chúng ta. Chín mươi phần trăm còn lại là các vi khuẩn và một số ít chất hữu cơ cơ hội khác. Chúng ta sống hòa hợp với môi trường ngoại lai này. Nhưng nếu sự cân bằng nghiêng đi, liệu điều đó có thể chống lại chúng ta..?"

"Chúng ta cần phải ngăn chặn nó."

 

"Chính vì vậy, tôi mời cô xuống đây. Để thuyết phục cô. Nếu như chúng ta tiến lên phía trước, tiến sĩ Miller và tôi cần phải được tiếp cận với bộ phận phân tích của đồng nghiệp của cô. Chúng ta phải bắt đầu trả lời những câu hỏi quan trọng. Liệu một chất độc hoặc hóa chất có thể thay đổi được các vi khuẩn đó không? Nếu vậy, làm sao chúng ta có thể xử lý nó? Và điều gì xảy ra nếu nó lây nhiễm? Và làm sao chúng ta có thể cô lập hoặc phối hợp chống lại nó?" Ông nheo mắt. "Chúng ta cần câu trả lời. Ngay bây giờ."

Lisa nhìn đồng hồ. Monk đã chậm một giờ rồi, hoặc là anh ta bị ngập vào trong công việc hoặc mải mê ngắm nghía cảnh đẹp của hòn đảo và bãi biển. Nhưng giờ đây không phải lúc đi ngắm cảnh.

Nàng gật đầu với Henri." Tôi sẽ cho người điện cho tiến sĩ Kokkalis. Buộc anh ta trở về đây. Nhưng thực ra, ngài nói đúng. Chúng ta cần phải bắt đầu."

Rồi nàng dẫn đường ra khỏi cabin. Căn phòng thí nghiệm của Monk nằm ở gần tầng trên cùng của con tàu, cách đây năm tầng. Sigma đã đặt một trong những ca bin rộng nhất để chứa thiết bị này. Thậm chí, vài thủy thủ  còn phải dỡ bỏ giường và đồ đạc để lấy chỗ cho phòng thí nghiệm tạm thời đó. Căn phòng cũng có một ban công rộng nhìn ra bên kia. Lisa ước gì lúc này mình đang ở đấy, cần ánh sáng mặt trời, một làn gió nhẹ thổi qua mặt, một cơ hội nào đó để xua đuổi sự sợ hãi đang gia tăng.

Khi đi đến chỗ cầu thang của con tàu, nàng biết mình cần phải gọi cho Painter nữa. Nàng không thể gánh trách nhiệm này một mình. Nàng cần có sự ủng hộ hoàn toàn của nhóm nghiên cứu và phát triển của Sigma.

Hơn nữa, nàng cũng muốn được nghe giọng nói của ông.

Lisa ấn nút để vào cầu thang.

Như thể cái nút được nối với với một chất gây nổ, một tiếng nổ mạnh rung chuyển từ phía bên kia của con tàu, từ mạn tàu cập cảng, nơi những con thuyền chuyên chở người từ bờ đến con tàu.

Liệu đó có phải là tai nạn không?

"Chuyện gì vậy?" Henry hỏi.

Một tiếng nổ thứ hai lớn hơn rung chuyển cả mạn bên này của con tàu, gần chỗ mũi tàu. Những tiếng thét mơ hồ từ phía xa vọng tới. Rồi Lisa nghe thấy một âm thanh quen thuộc, tiếng chát chúa của súng trường tự động.

"Chúng ta bị tấn công." Nàng nói.

 

*

*   *

 

 

1 giờ 45 phút chiều

Monk lao chiếc xe Land Rover rỉ nhèm xuống con dốc ngoằn nghèo. Anh đã lấy chiếc xe cũ này từ một bãi đậu xe gần mỏ phốt phát trên hòn đảo, bị bỏ lại trong đợt sơ tán. Họ chạy dọc theo con đường đất phía sau mỏ dẫn tới thị trấn ven biển.

Tiến sĩ Graff quàng dây an toàn vào người, một cánh tay giơ lên mui xe để thăng bằng." Đi chậm thôi."

Cả hai người đã đi vào một phân xưởng của mỏ phốt phát, cố gắng gọi  điện thoại. Đường dây bị ngắt, không có dịch vụ. Hòn đảo lúc này vắng tanh. Tuy vậy họ cũng tìm được túi cấp cứu y tế ở đó. Vai của Graff đã được bôi thuốc kháng sinh rồi băng bó lại.

Nhà nghiên cứu phải tự mình điều trị trong khi Monk loay hoay tháo gỡ ổ công tắc điện của chiếc xe. Graff vẫn dùng cánh tay bị thương ôm khư khư cái hộp đựng đồ cấp cứu trước bụng. Lúc này sau khi đã dùng xong nó trở thành một cái lồng để nhốt con cua làm mẫu vật.

Một đường cua trong rừng buộc Monk phải gạt cần khởi động. Anh lái một vòng làm chiếc xe chồm lên phía trước đi bằng hai bánh sau. Rồi họ cũng phanh lại được.

 

Graff thở hổn hển. "Cậu không làm được chuyện gì nếu như lao vào trong rừng đâu."

Monk đi chậm lại, không phải vì lời nhắc nhở cẩn trọng của Graff mà vì con đường dừng lại ở chỗ ngoặt. Họ đã tới đoạn cuối cùng của con đường cao tốc trên đảo, có hai làn xe. Con đường đất rẽ vào phía nam của vũng Cá bay. Thị trấn này chủ yếu lại được mở mang về hướng bắc với hàng loạt khách sạn, một mớ các nhà hàng ven biển, tiệm ăn Trung Quốc, quán ba và điểm nghỉ chân của du khách.

Nhưng sự chú ý của Monk lại tập trung về phía biển, bên ngoài vũng Cá bay. Tàu Người con gái của biển cả bị bao vây bởi những con tàu đang bốc cháy, những du thuyền bị phá nổ và xác của chiếc tàu tuần tra ven biển của hải quân Úc. Khói đen bốc lên tận bầu trời dù bây giờ đang là giữa trưa. Giống như những con cá mập đang bổ vây, hàng tá thuyền cao tốc màu xanh đang tăng tốc độ gầm rú trên biển.

Một chiếc trực thăng duy nhất sơn màu vàng - đỏ, loại Astar của châu Âu đang lượn vòng trên vũng, tiếng gầm rú của nó như làm thổi tung lên đám khói. Những tia chớp bắn ra từ mũi súng trên cửa khoang mở toang cho thấy rõ ràng không phải là thân thiện.

Monk thoáng quan sát cuộc tấn công trên biển khi anh quay lại từ phía  đồi núi: những tiếng nổ, ánh lửa tóe từ mũi súng, tiếng nổ đinh tai của những đám cháy. Các vụ nổ cứ thế dội đến chiếc xe của họ g 5275 iống như những trận pháo hoa từ  xa.

Boom..boom...boom

Về phía bắc, một tiếng nổ vọng tới, với một cột khói lửa, từ phía thị trấn. Gần đến nỗi làm rung chuyển cả cánh cửa chiếc Land Rover.

"Trạm mặt đất Telstra." Graff nói." Chúng đang cắt hết các phương tiện truyền thông."

Các khu vực khác của thị trấn cũng đã bốc cháy.

 

Đây không phải là những tên cướp thông thường, mà là một cuộc tấn công toàn diện.

Vậy chúng là ai vậy?

Monk đã gạt cần điều khiển quay hướng ra khỏi thị trấn đi dọc theo con đường ven biển.

"Chúng ta đi đâu vậy?" Graff bắt đầu hỏi.

Monk lượn một cua. Một khách sạn nhỏ ven biển, nằm trơ trọi ở một khu vực vài mẫu Anh trong rừng mưa, hiện ra trước mặt. Anh lao vội về phía lối vào có tấm bảng Nhà khách Lodge và Grille. Cái khách sạn nhỏ nằm nhô lên với một tòa nhà hai tầng bên cạnh vài ngôi nhà vườn. Hồ bơi lấp lánh trong ánh nắng.

Nơi này xem ra cũng chẳng có ma nào.

"Anh sẽ an toàn ở đây." Monk nói khi phanh lại ở một góc của tòa nhà treo biển tên khách sạn và một gốc cây xoài.

Monk bước ra.

"Chờ chút!" Graff loay hoay với cái cửa xe, cuối cùng cũng đẩy nó mở được, suýt rơi ra ngoài  xe. Anh ta cố đuổi theo Monk.

Monk không hề đi chậm lại. Anh đã đi được một nửa đoạn đường tới bãi biển. Giống như các khách sạn ven biển, khách sạn Lodge và Grille cung cấp những dịch vụ dân du lịch ưa thích như đồ lặn, đi xuồng và thuyền buồm. Ở phía sau tòa nhà, Monk đã phát hiện ra trung tâm hoạt động của khách sạn, nằm gọn trong một khu nhỏ lợp mái rạ, đóng chặt vì vụ di tản.

Nhanh như cắt, anh vớ lấy một cái sào vốn dùng để lau dọn bể bơi rồi dùng nó đập vỡ cửa kính ra vào.

Graff vội vã vào theo.

Monk thò tay kéo nhà nghiên cứu vào bên trong chỗ bóng râm. Chiếc trực thăng vừa vụt qua đầu rất thấp, động cơ của nó quạt mạnh vào hàng cây cọ. Rồi nó vụt đi mất, tiếp tục cuộc tuần tra ven biển.

"Hãy nấp đi!" Monk cảnh báo.

 

Graff gật đầu ngoan ngoãn.

Monk bước qua phía trước của khu vực hoạt động, ngổn ngang các khăn tắm, kính râm, dầu bôi và các món quà lưu niệm... Nơi này toát lên mùi dừa và các bàn chân ẩm ướt. Monk vòng lại phía quầy rồi đi thẳng tới một cái cửa treo những sợi dây chuỗi kêu leng keng.

Anh đã thấy cái mình muốn tìm.

Bộ đồ lặn treo ở tường phía sau.

Monk tụt ngay đôi ủng.

Ở căn phòng đối diện với bờ biển, xếp ngay sau cửa ra vào là các loại thuyền dùng cho du khách. Bỏ qua chiếc thuyền, một cặp xuồng, anh dừng lại trước một chiếc xuồng máy loại Jet Ski. Nó đứng đằng sau một chiếc xe đẩy, sẵn sàng để được kéo lên bờ hoặc đẩy xuống nước.

Ít nhất bờ biển ở phía này sạch không có món xúp
chất độc.

Monk quay lại phía Graff." Tôi cần anh giúp đỡ."

Mười tám phút sau, Monk đã cọ khuỷu tay lên cửa sổ bết mỡ ở cánh cửa phía sau. Bộ quần áo ướt đẫm của anh áp vào kính. Nghển cổ lên, Monk chờ chiếc máy bay trực thăng lượn qua đầu để vòng lại về phía vũng Cá bay. Cái vũng nằm ở ngoài tầm nhìn trực tiếp, được che bởi Smith Point. Tất cả những gì Monk có thể nhìn thấy trong khu vực chiến sự là bức tường khói đang bốc lên.

Cuối cùng thì chiếc trực thăng cũng quay đuôi lại hướng về phía con tàu.

"Ok, chúng ta đi nào!"

Monk cúi xuống và kéo cánh cửa lên, giữ nó trên đầu. Đằng sau anh, Graff nâng chiếc xe kéo rồi Monk vung mạnh về phía trước. Anh nắm lấy phía sau của chiếc xuồng Jet Ski và cùng nhau họ đẩy chiếc xe kéo về phía mặt nước. Cặp bánh cao su lớn giúp cho việc đẩy dễ dàng.

Graff dùng một tay để tách chiếc xuồng ra khỏi chiếc xe đẩy trong khi Monk quay lại kéo theo cái áo giáp vi sinh và bình dưỡng khí. Sau khi đã trang bị xong, anh mặc bộ quần áo gió để che các thiết bị của mình.

Trang bị rất nặng nề, Monk quay lại về phía mặt biển rồi kéo chiếc Jet Ski trôi tách ra khỏi xe kéo. "Tìm cách trốn đi." Anh nói với  Graff. "Nhưng nếu anh có thể tìm được phương tiện thông tin nào, một chiếc radio hay bất cứ cái gì hãy tìm cách liên lạc với ai đó của chính quyền."

Graff gật đầu. " Hãy cẩn thận."

Trong giây phút, Monk đã nổ động cơ rồi lao vọt về phía Smith Point. Đằng sau anh, Graff tập tễnh đẩy chiếc xe kéo về chỗ của nó.

Monk nằm bẹp trên ghế rồi điều chỉnh chiếc xuồng với tốc độ cao nhất. Lao nhanh hơn, tiếng gió đập phành phạch. Biển và muối bắn tung tóe. Smith Point hiện rõ dần trước mặt anh. Cuối cùng anh cũng đã tới được bãi đá, không hề giảm tốc độ, lượn vòng quanh chỗ đó.

Ở phía bên kia của vũng, tàu Người con gái của biển cả nhô lên như một lâu đài màu trắng đang bị bao vây. Gần hơn nữa, trên mặt biển những vũng dầu bốc cháy rừng rực và khói của những con tàu. Ngay cả chiếc xuồng lúc này cũng bị hư hại. Trong khắp khu vực chiến sự, tiếng gầm gào của những chiếc thuyền cao tốc của bọn cướp biển nghe thật chối tai.

Đang săn đuổi.

Chúng ta đến rồi.

Giống như một quả ngư lôi, Monk lao vào cuộc chiến.

 

*

*   *

 

2 giờ 8 phút chiều

"Chúng ta phải làm cái gì đấy." Lisa nói.

"Lúc này, hãy ngồi yên đã." Henri Barnhardt cảnh báo.

 

Họ bị dồn vào một trong những ca bin trống ở bên ngoài. Lisa đứng gần một căn phòng có hai lớp cửa. Henri chiếm vị trí sát cửa.

Cách đây một tiếng, họ đã đảo một lượt trên chiếc tàu, chỉ thấy cảnh tượng trên tàu hoàn toàn hỗn loạn. Từng tốp thủy thủ mặc đồng phục, đám  hành khách mắt ngây dại, cả người ốm và người khỏe, đều tụ tập ở sảnh. Những tiếng nổ và tiếng súng bị át bởi tiếng còi báo động trên con tàu. Không biết là tự động hay cố ý, có ai đó đã lột trần những tấm lưới chống cháy, cô lập các khu vực.

Trong khi đấy, những tên lính bịt mặt cầm súng lăm lăm đi tất cả các phòng, từ phòng nọ đến phòng kia, bắn tất cả những ai chống cự hoặc di chuyển quá chậm. Lisa và Henri nghe thấy những tiếng thét, tiếng súng và tiếng bước chân huỳnh huỵch ở boong trên. Họ cũng suýt nữa bị bắn. Chỉ nhờ việc lao nhanh qua phòng trưng bày của con tàu để đi xuống dưới sảnh mới cứu họ thoát chết.

Họ không biết có thể chống chọi được bao nhiêu lâu.

Việc nhanh chóng chiếm giữ con tàu Người con gái của biển cả cho thấy chắc phải có ai đó trong số thủy thủ tham
gia vào.

Lisa nhìn ra ngoài cửa sổ. Biển đang bốc cháy. Cũng từ chỗ cửa sổ, nàng thấy mấy người hành khách tuyệt vọng nhảy từ ban công phía trên xuống nước hy vọng có thể bơi được vào bờ.

Nhưng những chiếc thuyền cao tốc vẫn tiếp tục rà soát vũng này, săm soi thậm chí cả dưới nước.

Các xác chết lập lờ trôi giữa những đám cháy.

Không còn đường chạy trốn.

Tại sao lại xảy ra điều này?Việc gì đang diễn ra đây?

Cuối cùng thì tiếng còi báo động cũng chấm dứt, kết thúc bằng một tiếng rít. Sự im lặng thật nặng nề như một trọng lượng vô hình. Ngay cả không khí xem ra cũng nặng nề hơn.

 

Ở một nơi nào phía trên, có ai đó khóc nức nở.

Henri bắt gặp cặp mắt của Lisa.

Từ phòng thông tin vang lên một giọng nói nặng trịch bằng tiếng Malaysia. Lisa không nói được tiếng Malaysia. Vẫn nhìn chăm chú vào Henri, nàng thấy ông lắc đầu. Rõ ràng, ông cảm thấy bối rối. Nhưng điều gì được nói, sau cũng được nói lại bằng tiếng Trung Quốc. Đó là hai thứ ngôn ngữ phổ thông trên hòn đảo này.

Cuối cùng thì người nói chuyển sang tiếng Anh, ngữ điệu rất nặng.

"Con tàu bây giờ thuộc về chúng tôi. Tất cả các khoang  đều có lính gác. Bất cứ ai bị bắt ở các gian phòng đều bị bắn ngay lập tức. Sẽ không ai bị hại nếu như mọi người tuân lệnh. Thế thôi."

Diễn văn chấm dứt cộc lốc.

Henri thử xem ca bin có bị khóa không rồi bước tới chỗ Lisa. "Con tàu đã bị cướp. Có kẻ nào đấy chắc đã lên kế hoạch từ lâu rồi."

Lisa nhớ lại vụ Achille Lauro, một chiếc tàu của Italy bị bọn khủng bố Palestine cướp vào năm 1985. Và mới đây nhất, năm 2005, bọn cướp biển Somali đã tấn công một con tàu khách nữa trên bờ biển phía đông châu Phi.

 Nàng quay lại về ô cửa sổ, nhìn ra ngoài rồi chăm chú quan sát những chiếc thuyền đang tuần tiễu trên mặt biển phía dưới, do những tên lính bịt mặt có vũ trang. Bọn chúng trông giống như cướp biển nhưng nàng vẫn còn  nghi ngờ điều gì đó khác hơn.

Có thể một vài nghi ngại của Painter vẫn ám ảnh cô.

Tất cả những điều này đã được phối hợp lại bằng một vụ cướp biển tình cờ.

"Chắc chắn," Henri nói, "chúng sẽ lục soát con tàu để cướp đi những gì không bị khóa rồi tẩu thoát về phía các hòn đảo. Nếu chúng ta cố sống sót, cần phải tránh bất cứ sự đụng độ nào."

 

Loa phóng thanh lại vang lên và một giọng mới nói qua hệ thống thông tin của con tàu. Nói bằng tiếng Anh. Không nhắc lại bằng tiếng Malaysia hoặc Trung Quốc.

"Những hành khách sau phải có mặt bên cầu tàu. Phải có mặt ở đây trong vòng năm phút nữa. Đến với hai tay để lên đầu, ngón tay úp chặt. Nếu không xuất hiện thì cứ mỗi phút chậm trễ, chúng tôi  sẽ bắn chết hai hành khách khác. Chúng tôi sẽ bắn trẻ con trước."

Những cái tên được đọc.

Tiến sĩ Gene Lindholm

Tiến sĩ Benjamin Miller

Tiến sĩ Henri Barnhardt

Và cuối cùng là Tiến sĩ Lisa Cummings

"Các người có năm phút."

Lisa vẫn nhìn ra lỗ cửa sổ. "Đây không phải là một vụ cướp."

Và cũng không phải là những kẻ cướp biển thông thường.

Trước khi nàng quay ra khỏi cửa sổ, Lisa phát hiện một chiếc Jet Ski đang lao trên biển về phía con tàu. Một cột nước dựng lên phía sau nó, làm cho nó dễ bị phát hiện. Nó vòng vèo qua những mảnh vụn với sự khéo léo. Nàng không thể nhận ra ai là người ở trên con thuyền đó. Người lái đang cúi rạp xuống.

Và với lý do đúng đắn.

Hai chiếc thuyền cao tốc đang đuổi theo rất sát, lao qua các đám cháy và những con thuyền bốc khói. Những phát đạn bắn tóe ra từ các con thuyền.

Nàng lắc đầu trước sự ngốc nghếch của người lái con xuồng này.

Từ trên đỉnh của con tàu, chiếc trực thăng hiện ra, lao xuống chiếc Jet Ski. Nàng không muốn nhìn nữa, nhưng cảm thấy có một chút trách nhiệm. Phải thừa nhận cuộc tấn công cảm tử của người lái.

Chiếc trực thăng làm một vòng lượn, cửa bên mở toang.

 

Một cột khói từ phía sau.

Súng phóng lựu đạn.

Chớp mắt, Lisa nhìn xuống để kịp thấy chiếc Jet Ski nổ tung trong một quả cầu khói và kim loại.

Nàng quay đi, câm lặng, run rẩy toàn thân. Nàng nhìn Henri. Họ không còn sự lựa chọn nào khác.

"Chúng ta đi nào."

 

2 giờ 12 phút chiều

Monk chìm xuống đáy biển, bị kéo theo bởi cái thắt lưng nặng và bình dưỡng khí. Anh không cưỡng lại chỉ cố giữ hơi. Phía trên nước biển xanh đang bùng cháy. Những mảnh vỡ của chiếc xuồng lao vèo vèo qua nước. Cách đó hai mét, nó chìm dần, mũi cắm xuống trước tới độ sâu.

Khi Monk lao theo, anh cố thoát ra khỏi tấm che của cái xuồng. Không có lý do để giữ các bình dưỡng khí nữa. Anh chụp mặt nạ lặn rồi vòng tay ra để lấy cái chụp không khí vào. Anh sử dụng van để thổi thông mặt nạ rồi cột chặt.

Đáy biển trở nên trong suốt.

Anh vặn nút điều chỉnh và thở hơi đầu tiên.

Thở phào nhẹ nhõm.

Liệu màn ngụy trang của anh có thoát không?

Lúc trước đó khi chiếc trực thăng sà xuống về phía anh giống như con chim ưng lao vào con chuột, Monk đã nhìn thấy tên lính cầm súng ở trên khoang. Khi súng phóng lựu hướng về phía anh, Monk đã rồ chiếc Jet Ski lần cuối cùng lao nó xuống độ sâu. Vậy mà phát nổ vẫn đập vào đầu anh, tai ù đi.

Anh tụt xuống tận dưới đáy biển.  Vũng Cá bay có độ sâu thả neo tới ba mươi mét nhưng anh không cần xuống tận dưới đáy.

Monk điều chỉnh mực phao, thổi phồng áo vét bằng không khí từ bình. Anh giảm dần độ hạ, rồi ngước nhìn lên về phía đáy của những chiếc thuyền cao tốc đang tuần tra, bánh lại quay trong nước trong suốt. Chúng vòng đi  vòng lại, cố gắng tìm kiếm dấu vết của kẻ lái chiếc Jet Ski, sẵn sàng bắn nếu thấy hiện lên mặt nước.

Nhưng Monk không tính sẽ nổi lên mặt nước và nếu như chiến thuật của anh thành công không ai biết anh có đem theo thiết bị lặn. Monk lộn ngược trở lại, kiểm tra cái la bàn lấp lóe trên cổ tay rồi hướng về phía mà anh đã dự định.

Phía con tàu Người con gái của biển cả.

Anh đã luôn ước ao được đi du thuyền.

 

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/86461


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận