Lúc này ngày thì ngắn và xám, đêm thì tối và lạnh. Mây đáp sát gần ngôi nhà nhỏ rồi trải thấp xa xa ngoài đồng cỏ ảm đạm. Mưa lớn trút xuống và đôi khi gió kéo theo tuyết. Những mẩu tuyết bé cưng cứng xoay tít trong không gian rồi chạy ùa sang phủ lấy tấm lưng gù của bụi cỏ đáng thương. Ngày hôm sau thì tuyết biến mất hẳn.
Mỗi ngày, ba đều đi săn và đặt bẫy. Trong ngôi nhà ấm cúng, có lửa sưởi ấm, Mary và Laura giúp má làm việc
nhà. Rồi hai chị em khâu những mảnh chăn bông, chơi hát theo điệu bộ với Carrie, và chơi trò giấu tìm cái đê. Với một sợi dây buộc giữa mấy ngón tay, hai chị em chơi trò đan dây thành hình, rồi chơi trò vỗ tay theo nhịp. Hai chị em ngồi đối diện, vỗ hai tay mình, rồi vỗ tay mình vào tay người kia, trong lúc vừa giữ nhịp vừa hát vè:
“Cháo đậu nóng,
Cháo đậu lạnh,
Cháo đậu trong nôi,
Chín ngày rồi.
“Người thích nóng,
Người thích lạnh,
Người thích cháo đậu trong nôi,
Chín ngày roi.
“Em thích cháo đậu nóng,
Em thích cháo đậu lạnh,
Em thích cháo đậu trong nồi
Chín ngày rồi. ”
Đây cũng là sự thật. Không bữa tối nào ngon hơn món cháo đậu đặc sệt, thêm một chút gia vị thịt heo muối mà má hay múc lên đĩa thiếc khi ba trở về nhà, lạnh cóng và mệt mỏi sau cả ngày săn bắn. Laura thích ăn nóng món này, và thích ăn cả lúc nó lạnh, để bao lâu cháo cũng vẫn còn ngon. Nhưng món này chẳng bao giờ để được đến chín ngày. Lúc nào nhà Laura cũng ăn hết từ sớm.
Suốt cả ngày, gió lồng lộng, kêu thét, gào hét, rên rỉ, la hét, nỉ non đến thê lương. Cả nhà đã nghe quen tiếng gió. Suốt ngày mọi người nghe âm thanh đó, vào ban đêm trong lúc ngủ họ cũng biết gió đang thổi. Nhưng vào đêm nọ, họ bỗng nghe thấy một tiếng hét thát thanh khiến cả nhà choàng thức dậy.
Ba nhào ra khỏi giường, má thì hỏi: “Charles ơi, tiếng gì vậy?”
“Tiếng hét của một người đàn bà,” bà nói. Ba cố gắng mặc đồ thật nhanh. “Hình như tiếng hét phát ra phía nhà họ Scott.”
“Ôi, chuyện không lành nào đã xảy ra chứ!” má kêu lên.
Ba đang mang giày bốt. Ba xỏ bàn chân vào chiếc giày rồi dùng ngón tay thắt dây nơi vành cổ ống giày cao. Rồi ba kéo mạnh dây cho chặt và dậm chân trên sàn nhà, thế là đã mang xong một chiếc giày.
“Có thể Scott đang bị bệnh,” ba nói trong lúc đang mang nốt chiếc giày kia.
“Anh cố nghĩ là...?” má thấp giọng hỏi.
“Không đâu,” ba đáp. “Anh đã nói với em rồi, họ không gây phiền phức gì đâu. Họ sống rất yên lặng, hiền hòa trong khu trại giữa mấy con dốc đứng.”
Laura bắt đầu bò ra khỏi giường, nhưng má nói, “Nằm xuống và nằm yên đó, Laura.” nên cô bé lại ngoan ngoãn nằm xuống.
Ba khoác áo choàng sọc màu sáng, đội mũ lông, và quấn khoăn choàng cổ che cả mũi và miệng. Ba đốt đèn, rồi lấy súng và vội vã rời khỏi nhà. Trước khi cánh cửa đóng sầm sau lưng ba, Laura trông thấy trời đêm bên ngoài. Nó tối đen. Không một ánh sao. Laura chưa bao giờ trông thấy một đêm đen dày đặc như thế.
“Má ơi” cô bé nói.
“Gì đó Laura.?”
“Cái gì khiến trời tối quá?”
“Trời sắp có giông,” má trả lời. Má kéo dây cài then cửa bên trong, bỏ thêm một thanh củi vào lửa sưởi. Rồi má trỏ lại giường.
“Ngủ đi, Mary, Laura,” má nói.
Nhưng má không đi ngủ, và cả hai cô bé cũng không ngủ. Họ nằm đó, nghe ngóng. Nhưng họ chẳng nghe ra điều gì ngoài tiếng gió.
Mary chúi đâu dưới lớp chăn bông và thì thầm với Laura, “Chị mong ba trở về ngay.”
Đang nằm trên gối, Laura gật gật đầu, nhưng cô bé không nói được gì. Cô bé hình dung ba đang xoải bước trên đỉnh dốc đứng, trên lối mòn dẫn đến nhà ông bà Scott. Những đốm ánh sáng từ ngọn nến nhỏ rọi qua những cái lỗ cắt li ti trên cây đèn thiếc. Những tia sáng nhỏ lập lòe lẫn vào bóng đêm đen kịt.
Băng một hồi rất lâu, Laura thì thầm, “Chắc gần sáng rồi.” Và Mary gật đầu. Suốt thời gian óổ, hai đứa nằm lắng nghe tiếng gió. Ba vẫn chưa về.
Rồi, tiếng hét kinh hoàng đó lại vang lên, vút cao
Laura cũng hét lên rồi nhảy ra khỏi giường. Mary nấp dưới lớp chăn mền. Má vùng dậy, thay đồ vội vã. Má bỏ thêm một thanh củi vào bếp lò rồi dặn Laura trở lại giường. Nhưng Laura cố nài nỉ nên má cũng cho phép cô bé thức dậy. “Quấn khăn choàng vào đi con,” má nói.
Họ đứng bên ngọn lửa và lắng nghe. Không nghe được gì ngoài tiếng gió và họ cũng không biết phải làm gì. Nhưng ít nhất là họ không còn nằm trong giường nữa.
Bỗng nhiên, có tiếng nắm tay đập trên cửa và tiếng ba kêu: “Cho anh vào! Nhanh lên, Caroline!”
Má mở cửa rồi ba bước vào và cuống quýt đóng sập cửa lại ngay. Ba như sắp hụt hơi. Ba đẩy vành mũ ra rồi nói: “Ôi! Anh sợ quá.”
“Gì thế, Charles?” má hỏi.
“Một con báo,” ba trả lời.
Ba đã gắng hết sức đi thật nhanh đến nhà ông bà Scott. Khi ba đến nơi, ngôi nhà tối om và mọi thứ thật yên tĩnh. Ba đi chung quanh ngôi nhà, nghe ngóng, quan sát bằng ánh đèn. Nhưng chẳng tìm ra dấu hiệu bất thường nào cả. Ba tự cảm thấy mình ngớ ngẩn, đã thức dậy, mặc áo quần giữa đêm khuya, rồi cuốc bộ hai dặm chỉ vì nghe tiếng gió hú.
Ba không muốn ông bà Scott biết chuyện này nên ba không đánh thức họ dậy. Ba cố trở về nhà thật nhanh vì gió lạnh như cắt. Rồi khi ba đang hối hả trên lối đi gần bờ dốc đứng thì bỗng nhiên ba nghe một tiếng hét ngay dưới chân.
“Tóc ba dựng đứng cứng đến độ chiếc mũ cũng có thể bị đẩy bật lên,” ba kể cho Laura. “Ba vội vã phóng về nhà như một con thỏ nhút nhát.”
“Con báo ở đâu hở ba?” cô bé hỏi ba.
“Trên một ngọn cây,” ba nói. “Trên ngọn cây dương mọc dựa vách con dốc đứng.”
“Ba ơi, nó có đuối theo ba không?” Laura hỏi, ba đáp, “Ba không biết nữa, Laura.”
“Thôi, bây giờ anh đã an toàn rồi Charles,” má nói.
“Ừ, anh cũng mừng bởi vì ở ngoài với báo trong trời tối đen như đêm nay là điều không hay ho chút nào,” ba nói. “Laura, đồ tháo giày của ba đâu rồi?”
Laura mang đồ tháo giày đến cho ba. Đồ tháo giày là một thanh gỗ sồi mỏng có cắt khía một đầu và miếng chèn đóng ngang phần chính giữa. Laura để nó trên nền nhà, phần có miếng chèn nằm úp xuống. Rồi ba dùng một chân đạp lên thanh gỗ, chân kia cho vào cái khía, cái khía giữ chặt đôi bốt trong lúc ba kéo chân ra khỏi giày. Rồi ba kéo chân kia ra cũng theo cách đó. Đôi giày bám rất chắc nhưng cũng phải rời khỏi chân ba.
Laura theo dõi ba cởi giày, rồi cô bé hỏi, “Báo có bắt các bé gái không ba?”
“Có,” ba nói. “Nó sẽ giết và ăn thịt các bé gái nữa. Con với Mary phải ở trong nhà cho đến khi ba bắn hạ được con báo đó. Ngay khi trời sáng, ba sẽ lấy súng đi lùng nó.
Suốt cả ngày hôm sau, ba đi săn lùng con báo. Ngày hôm sau và hôm sau nữa, ba cũng đi. Ba tìm được dấu chân con báo, và tìm được da sống và bộ xương của một con linh dương đã bị con báo ăn thịt, nhưng ba chưa tìm ra con báo. Con báo phóng trên những ngọn cây và không để lại dấu vết gì trên ấy. Ba nói ba sẽ không ngừng săn lùng cho đến khi giết được nó. Ba nói “Không thể để báo quẩn quanh vùng có mấy cô bé đang ở.”
Nhưng ba không giết được con báo đó và ba cũng phải ngừng săn lùng. Ngày kia, ba gặp một người Da Đỏ trong rừng. Hai người đứng giữa khu rừng lạnh lẽo, ướt sũng và nhìn nhau, họ không thể trò chuyện vì không biết ngôn ngữ của nhau. Nhưng người Da Đỏ chỉ trỏ dấu chân con báo rồi ra dấu bằng súng của ông ta để cho ba biết ông ta đã bắn chết con báo rồi. Ông ta chỉ lên mấy ngọn cây rồi chỉ xuống đất để miêu tả cho ba biết ông ta đã bắn nó rớt xuống từ trên cây. Rồi ông ta chỉ lên trời, vê hướng tây và hướng đông, để miêu tả ông ta đã giết nó ngày hôm trước đó.
Thế là mọi việc đều ổn thỏa. Con báo đã chết. Laura hỏi thêm thế báo có bắt các em bé da đỏ rồi giết và ăn thịt không thì ba nói có. Chắc đó là lí do tại sao người Da Đỏ kia đã giết chết con báo.
Hết chương 20. Chương tiếp theo sẽ được cập nhật trong thời gian nhanh nhất.