Lối Vào Địa Ngục Chương 7


Chương 7
Về chuyến đi không thể kể

Ngày 6 tháng 7, 6 giờ 41 phút sáng

Istanbul

Trong vòng chưa đầy một ngày, Gray đã trốn được một nửa vòng trái đất và hạ cánh xuống một thế giới khác. Từ những hình chóp nhọn của vô vàn thánh đường Hồi giáo muezzin kêu gọi những tín đồ trung thành của đạo Hồi tới cầu nguyện buổi sáng. Mặt trời lên cao tạo ra vô vàn hình bóng, hắt  ánh sáng lấp lánh xuống các vòm nhà thờ và
cung điện.

Gray đứng ở một nhà hàng trên tầng cao nhất của khách sạn phóng tầm mắt nhìn quanh trong khi chờ Seichan và Kowalski. Không ai trông có vẻ vui vẻ cả. Họ đều mệt mỏi sau chuyến bay dài và trong tâm trạng cáu bẳn. Nhưng sau cặp mắt của Gray là nỗi đau âm ỉ, dính dáng nhiều hơn tới sự quan tâm của chính anh. Bị truy đuổi bởi kẻ sát nhân, và bởi ngay chính phủ của mình, anh bắt đầu phân vân về sự khôn ngoan của mối liên minh hiện nay.

Và bây giờ là chuyện bị triệu tập một cách lạ lùng tới Istanbul. Tại sao vậy? Nó chẳng có ý nghĩa gì cả. Nhưng ít nhất là đối với một người. Hình như Seichan cũng bối rối tương tự. Cô bỏ ít mật ong vào chiếc tách tráng men vàng đựng thứ trà Thổ Nhĩ Kỳ. Người phục vụ trà mặc quần áo truyền thống thêu nền xanh lơ và vàng, gợi ý đổ thêm nước cho Gray.

Anh lắc đầu, vì thấy đã đủ với ly cà phê.

 

Anh bồi không quấy nhiễu Kowalski. Anh chàng to lớn này mặc quần jean và áo phông màu đen với áo khoác ngoài cũng màu đen, đã bỏ qua món trà, vào thẳng luôn món điểm tâm. Anh ta uống một ly brandy nho ướp lạnh, gọi là raki. "Uống giống như rượu gạo với nhựa đường." Anh ta bình phẩm, môi cong lên, nhưng cũng vẫn làm luôn hai cốc.


Anh ta cũng phát hiện ra bàn ăn sáng, phết bơ vào một dãy bánh mỳ, với cả dầu ô liu, dưa chuột, pho mát và nửa tá trứng luộc.

Gray chẳng thấy có cảm giác gì, trong anh vẫn đầy ắp những băn khoăn và quá nhiều câu hỏi.

Anh đứng dậy đi tới bức tường lửng chạy quanh sảnh có vòm che phía trên rồi cẩn thận đứng trong bóng râm của dù che. Istanbul, một điểm nóng của bọn khủng bố, luôn dưới tầm quan sát của vệ tinh trinh sát. Gray phân vân không biết hình dạng của anh đã được chiếu trên chương trình nhận dạng ở một cơ quan tình báo nước ngoài nào
đó chưa.

Liệu Sigma và Hiệp hội có ngang bằng vào lúc này không?

Seichan đến với anh, đặt cốc trà của cô trên bao lơn. Cô đã ngủ suốt trong chuyến bay tới đây trên khoang hạng nhất. Nghỉ ngơi được nên nước da của cô đã khá hơn nhiều, mặc dù bước đi vẫn tập tễnh, người vẫn hơi lệch về phía bị thương. Trên máy bay, cô đã thay đổi trang phục sang bộ đồ thoải mái hơn, không mặc chiếc quần kaki và áo khoác ban đêm màu xanh sẫm, nhưng vẫn đi đôi ủng mô tô màu đen hiệu Versace.

"Tại sao anh nghĩ ngài Verona gọi chúng ta tới tận đây?" Cô ta hỏi. "Tận Istanbul?"

Quay lại, Gray đứng tựa vào tường: "Cái gì? Chúng ta đang nói về chuyện gì nhỉ?"

Đôi mắt của cô ta thoáng vẻ bực bội. Từ khi rời căn phòng của viên bác sĩ tại Georgetown, Seichan vẫn từ chối có lời giải thích thêm. Không phải vì họ không có nhiều thời gian. Trên đường đi, Seichan chỉ dừng lại lâu hơn một lần để có một cuộc gọi. Tới Vatican. Gray đã lắng nghe cuộc trao đổi. Có vẻ như Vigor vẫn chờ đợi cuộc gọi này và không hề ngạc nhiên khi biết Gray đi cùng với cô ta.

"Lời nói lan truyền," ngài linh mục đã giải thích. "Interpol, Europol, mọi người đều đang tìm kiếm cô. Tôi giả thuyết là chính cô, Seichan đã để lại cho tôi bức thông điệp nhỏ ở lầu Nghinh phong."

"Ngài đã tìm thấy dòng ký tự?"

"Đúng vậy."

"Ngài nhận ra chữ viết?"

"Tất nhiên."

Seichan thở phào khi nghe điều đó. "Vậy chúng ta sẽ không mất nhiều thời gian. Nhiều mạng sống đang bị hiểm nguy. Nếu như ngài có thể tập họp mọi nguồn lực của mình, hãy hình dung rằng..."

"Tôi biết dòng chữ đó nghĩa là gì, Seichan." Vigor hơi bực bội, ngắt lời cô ta. "Và tôi biết nó ám chỉ điều gì. Nếu như cô muốn biết hơn nữa, hai người hãy gặp tôi ở khách sạn Ararat ở Istanbul. Tôi sẽ ở đó lúc 7 giờ sáng. Tại nhà hàng tầng trên cùng."

Sau cuộc gọi, Seichan vội vã thu xếp các loại giấy tờ giả mạo và thu xếp chuyện đi lại của họ. Cô đã bảo đảm với anh rằng Hiệp hội chẳng biết tí gì về những nhân mối của cô. "Chỉ là trả lại những gì tôi đã giúp họ thôi mà." Cô giải thích như vậy.

Seichan quay người lại mặt vẫn nhăn nhó nhìn anh, kéo anh trở lại thực tế. Cùi tay của cô ta đập vào tách trà. Gray kịp túm được nó trước khi chiếc cốc rơi xuống dãy phố phía dưới. Cô há hốc mồm nhìn vào cái cốc suýt rơi với một thoáng băn khoăn trong cặp mắt. Gray cũng nghĩ là sự bất cẩn như vậy thật hiếm thấy ở cô ta, một người luôn biết tự kiềm chế.

 

Cũng nhanh như vậy, vẻ mặt của cô đã nghiêm nghị
trở lại.

"Tôi biết tôi đã giữ bí mật ngay cả đối với anh." Cô ta nói. "Một khi ngài Verona tới đây, tôi sẽ giải thích mọi thứ." Cô gật đầu về phía anh. "Thế còn anh thì sao? Anh đã có được chút gì về dòng chữ trên mẫu đá không?"

Anh chỉ nhún vai, cứ để cho cô ta nghĩ là mình có biết điều gì đó.

Cô ta ngạc nhiên rồi thở dài. "Tốt."

Cô trở lại bàn của họ.

Seichan đã cung cấp cho Gray những tấm ảnh và một bản copy của văn bản bằng ngôn ngữ angelic. Trên đường tới đây, anh đã cố tìm cách mở được khóa mã bên trong những ký tự nhưng lại có quá nhiều giả thuyết. Anh cần có thêm thông tin. Và bên cạnh đó, Gray nghĩ là mình đã biết được thông điệp của mã: Đập vỡ mẫu đá và tìm kiếm báu vật bên trong.

Họ đã làm điều ấy rồi.

Gray đeo dây thập tự  bằng bạc lên cổ mình. Anh cũng đã kiểm tra nó. Chắc chắn nó cũ, đã được đeo nhiều. Ngay cả dưới ống kính phóng đại anh có thể nhìn thấy không có dòng chữ, không có dấu vết gì có ý nghĩa để  khẳng định lời nói hoang đường của Seichan rằng cây thập tự này vốn trước đây thuộc về cha xưng tội của Marco Polo, nhà thám hiểm du lịch thế giới.

 Đứng một mình bên lan can, Gray ngắm nhìn thành phố đang bừng lên trong buổi sớm mai. Phía dưới, những chiếc xe buýt đang ganh đua với ô tô và người đi bộ. Tiếng còi như cố át đi tiếng rao của những kẻ bán hàng rong và những câu chuyện không bao giờ ngừng của du khách
buổi sớm.

Anh quan sát khu vực ngoại ô lân cận, xem có gì đe dọa hoặc mối nghi ngờ nào đang tới. Liệu họ đã bỏ rơi được tên Nasser chưa? Sau khi vượt hắn nửa vòng trái đất, Seichan xem ra có vẻ tin tưởng. Nhưng Gray vẫn không cho phép mình mất cảnh giác. Phía dưới, trong sân của khách sạn,  hai người đàn ông thong thả đứng dậy khỏi tấm thảm cầu nguyện sau lễ  cầu nguyện buổi sớm rồi biến mất vào trong khách sạn. Giờ đây chỉ còn một đứa bé đang đùa nghịch ở đài phun nước kế bên.

Cảm thấy thỏa mãn, Gray ngước mắt nhìn lên cao hơn nữa. Khách sạn Ararat nằm chính giữa quận cổ nhất của Istanbul, quận Sultanahmet. Những con đường dẫn tới biển, các cấu trúc cổ xưa vươn lên như những hòn đảo trên các đường phố thấp hơn. Qua khách sạn phía bên phải, những mái vòm cao và đồ sộ của đền thờ Hồi giáo Blue như trèo lên bầu trời. Xa hơn dưới đường, một nhà thờ Byzantine khổng lồ như bị nuốt chửng bởi những dàn giáo màu đen, như thể những thanh sắt thép muốn túm chặt cấu trúc này vào lòng trái đất. Và xa hơn phía dàn giáo, lâu đài Topkapi nằm trải dài giữa những sân và vườn thượng uyển.

Gray như thấy gánh nặng của các thời đại trong những tác phẩm kiến trúc vĩ đại đó, những bức tượng bằng đá của lịch sử. Ngón tay anh lơ đễnh sờ vào cây thánh giá đeo trên cổ. Đây cũng là một cổ  vật, nguồn cội của nó thấm đẫm ý nghĩa lịch sử. Nhưng nó liên quan gì đến lời đe dọa toàn cầu của Seichan? Một cây thánh giá đã có thời thuộc về vị linh mục của Marco Polo?

"Chào, Ali Baba," Kowalski cất tiếng gọi anh từ phía sau. "Thêm một li rượu gạo nữa chứ."

Gray làu bàu.

"Loại này được gọi là raki." Một giọng mới sửa lại, đầy vẻ hiểu biết.

Gray quay lại. Một thân hình quen thuộc được chào đón bước ra từ phía hành lang khuất dẫn vào sảnh. Ngài Verona nói bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ với người bồi trà, lịch sự, tế nhị.

Người bồi gật đầu với nụ cười rồi bước đi.

 

Vigor tiến tới bàn của họ. Gray để ý thấy ông ta không mặc cái áo có cổ của  linh mục, rõ ràng ông ta đang đi du lịch với tư cách cá nhân. Không có cổ áo linh mục, Vigor trông phải trẻ ra hơn chục tuổi so với cái tuổi ngoài sáu mươi của ông. Hoặc có thể do cung cách ăn mặc thoải mái của ông ta: quần bò màu xanh, giày thể thao và áo sơ mi đen tay xắn lên. Ông cũng đeo theo một chiếc ba lô nhầu nhĩ bên vai. Trông ông như sẵn sàng leo lên ngọn núi mà khách sạn Ararat mang tên, trong việc đi tìm kiếm Noah’s Ark.

Và có lẽ đã có lần, ngài linh mục đã đi theo con đường đó rồi.

Trước khi leo lên chức Viện trưởng Viện Cơ mật của Vatican, Vigor đã phục vụ cho Vatican với danh nghĩa nhà khảo cổ kinh thánh. Ở vị trí như vậy cho phép ông phục vụ Vatican dưới những tư cách luôn thay đổi. Như một gián điệp. Vỏ bọc của một nhà khảo cổ cho phép ông ta đi du lịch rộng rãi và sâu, hoàn hảo cho việc xâm nhập tình báo và thông tin trở lại cho Tòa thánh.

Vigor cũng đã giúp đỡ Sigma trong quá khứ.

Và hình như sự chuyên nghiệp của ông lại được cần
đến nữa. 

Vigor thở dài ngồi xuống ghế. Người bồi bàn đã quay trở lại mang theo một tách chè bốc hơi nghi ngút trước
mặt ông.

Vigor cảm ơn anh ta.

Kowalski ngồi thẳng dậy sau khi anh bồi bước đi, nhìn chằm chằm vào cái ly rỗng của mình và lưng của anh ta. Anh cúi xuống lầu bầu ca thán về dịch vụ tồi tệ ở đây.

"Chỉ huy Pierce, Seichan," Vigor bắt đầu. "Cảm ơn các vị đã tôn trọng lời thỉnh cầu của tôi. Và thủy thủ Joe Kowalski, thật tuyệt vời được làm quen với anh."

Một vài lời chào hỏi thân mật được trao đổi. Vigor ngập ngừng nhắc đến cô cháu gái Rachel. Đó là một chủ đề khó nói. Việc Rachel và Gray đã chia tay mọi người đều biết nhưng Vigor vẫn rất bênh cô cháu mình. Thực ra cô ta cũng chẳng cần điều đó. Hình như Rachel đã được đề bạt trung úy cảnh sát và được tăng lương.

Tuy nhiên, Gray thấy vui khi Seichan ngắt lời. "Ngài Verona, tại sao ngài lại triệu tập chúng tôi tới Istanbul?"

Vigor giơ bàn tay lên ra hiệu cô im lặng, nhấp một ngụm trà rồi từ tốn đặt chiếc tách xuống tấm khăn trải bàn. "Đúng là chúng ta sẽ làm việc ấy. Nhưng trước hết, tôi muốn giải quyết hai điều ngay từ đầu. Điều đầu tiên dù chuyện này dẫn đến đâu, tôi cũng sẽ đi với các vị." Ông nhìn Gray vẻ không khoan nhượng rồi cũng nhìn như vậy về phía Seichan. "Điều thứ hai, không kém quan trọng, là tôi muốn biết tất cả những gì liên quan  đến nhà thám hiểm danh tiếng người Venice Marco Polo của chúng tôi?"

Seichan bắt đầu: "Làm sao ngài... tôi chưa bao giờ nhắc điều gì liên quan đến Marco Polo?"

Trước khi Vigor kịp trả lời, người bồi quay trở lại. Kowalski ngước  nhìn lên, vẻ đầy hy vọng. Cũng cặp mắt này mở to khi thấy anh ta lấy ra một chai raki đầy đặt trước mặt viên cựu lính thủy.

"Tôi gọi một nửa lít." Vigor giải thích.

Kowalski nhào ra tóm chặt tay Vigor." Cảm ơn, ngài thật tốt bụng."

Gray hướng sự chú ý của mình vào Seichan. "Vậy tất cả những cái này liên quan gì đến Marco Polo?"

 

*

*   *

 

Nửa đêm

Washington DC

Chiếc BMW màu đen bỏ qua vòng tròn Dupont lao vào những đường phố đen sẫm. Ánh đèn xe chiếu thành một vệt sáng trên con đường trồng loại cây du. Những dãy nhà cao tầng chạy dọc khu phố, tạo ra một thung lũng thị thành.

 

Nó chẳng giống gì những thung lũng trên đất quê Nasser, nơi chỉ có loài  dê lang thang còn hang động trở thành nơi ngụ cư của các bộ tộc Afghanistan sống du canh. Thực sự ngay cả vùng đất đó cũng không phải là quê hương của gã. Bố gã đã rời Cairo khi Nasser lên tám tuổi để đến Afghanistan sau khi nước này được giải phóng khỏi các lực lượng Nga,  nhập với những kẻ tìm kiếm một đạo Hồi trong sạch hơn. Em trai và em gái của Nasser cũng bị lôi sang. Chúng không có sự lựa chọn nào khác. Trước lúc chúng lên đường, bố của gã đã thắt cổ mẹ gã bằng chiếc khăn quàng cổ học sinh của chính Nasser. Mẹ gã không muốn rời Ai Cập để mất tích vĩnh viễn sau cái mạng che mặt của một phụ nữ Hồi giáo. Bà thuyết phục rồi phàn nàn nhưng chẳng ăn thua gì.

Lũ trẻ bị bắt phải chứng kiến, quỳ xuống tuân phục khi đôi mắt của mẹ chúng lồi hẳn, lưỡi thè ra bởi chính bàn tay của bố chúng.

Đó là một bài học mà Nasser nhớ mãi.

Phải lạnh lùng. Trong mọi cách.

Ánh đèn xenon quét quanh một góc phố. Từ ghế bên, Nasser ra hiệu về giữa khu nhà. "Dừng lại ở đó".

Tên lái xe, với chiếc mũi bị vỡ sau vụ bắt cóc không thành, tạt chiếc xe vào hè. Nasser quay lại nhìn vào băng ghế sau. Hai người đang tựa sát vào nhau.

Annishen, mặc toàn đồ đen, gần như lẫn trong băng ghế da. Ả còn đội mũ trùm che kín cái sọ cạo trọc, làm cho ả mang dáng vẻ của một nhà sư. Đôi mắt sáng lấp lánh trong đêm. Ả vòng tay quanh người bạn đồng hành, cử chỉ thật thân mật.

Anh ta vẫn còn mê man sau khi bị bịt miệng. Máu đọng lại ở một bên khuôn mặt và họng. Hai tay bị trói chặt, ôm lấy đầu gối, anh ta vẫn nắm khư khư mẩu tai bên trái của mình. Nasser đã phát hiện ra tên của người đàn ông này trong một cuốn danh bạ.

Một bác sĩ.

 

"Có phải là chỗ này không?" Nasser hỏi.

Người đàn ông gật đầu lia lịa, nhắm nghiền mắt lại sau khi khẳng định địa chỉ.

Nasser nghiên cứu sảnh chính của tòa nhà. Một người gác đêm ngồi phía sau bàn bên trong. Máy thu camera thò ra ngoài cửa kính chống đạn. An toàn tuyệt đối. Nasser lấy ngón tay trỏ xoa xoa cái chìa khóa điện tử trong tay hắn, một món quà của người hành khách.

Sau một ngày trọn vẹn, Nasser cuối cùng cũng đã lần theo được dấu vết của kẻ phản bội trong Hiệp hội và gã người Mỹ. Đêm qua, gã đã lục soát ngôi nhà nhỏ trong khu vực ngoại vi công viên Takoma. Gã đã phát hiện ra chiếc mô tô bị hư hại của Seichan trong gara, ngoài ra không có gì khác. Không thấy dấu vết của mẫu đá, trừ một mẩu vỡ của đá cẩm thạch Ai Cập trên lối vào.

Nhưng bên trong ngôi nhà, thánh Allah đã mỉm cười với y.

Nasser đã phát hiện một cuốn danh bạ.

Với một cái tên bác sĩ trong đó.

Phải mất một ngày để tìm ra đúng người.

Gã quay lại lần nữa.

"Cảm ơn, bác sĩ Corrin. Ngài đã cung cấp cho chúng tôi cái đòn bẩy chúng tôi cần."

Nasser cũng chẳng cần phải gật đầu với Annishen. Lưỡi dao của ả đã thọc vào sườn của người đàn ông, xuyên vào tim. Đó chính là kỹ thuật kiểu Mossad mà Nasser đã dạy cho Annishen. Gã đã áp dụng chỉ mới một lần trước đây.

Khi cha gã đang quỳ cầu kinh.

Không phải là sự trả thù của một đứa trẻ. Chỉ là công lý.

Nasser mở toang cửa chiếc xe. Gã nợ bố mình nếu chỉ là bài học dạy cho một đứa trẻ tám tuổi quỳ trước người mẹ bị thắt cổ.

Bài học đó lại giúp cho gã lần nữa vào đêm nay.

Phải lạnh lùng. Trong mọi cách.

 

Ra khỏi chiếc xe, Nasser quay lại mở cửa sau. Annishen nằm dài trên băng ghế sau, nhỏm dậy với tiếng sột soạt của chiếc áo jacket kiểu Ý và một bộ đen, cũng hợp với bộ com-lê Armani của gã. Không có một giọt máu nào trên người ả, chứng tỏ một lần nữa tài nghệ của ả. Gã vòng tay quanh ả rồi đóng cửa.

Ả tựa đầu vào gã. "Đêm mới chỉ bắt đầu." Ả thì thào với tiếng thở hài lòng.

Gã kéo ả vào gần hơn. Giống như hai kẻ yêu nhau trở về sau bữa tối muộn.

Đêm mùa hè vẫn còn nóng, nhưng hành lang căn hộ có điều hòa nhiệt độ. Cánh cửa mở ra như đón họ với chìa khóa của tiến sĩ Corrin. Người gác ngước nhìn lên từ chiếc bàn của mình.

Nasser gật đầu với anh ta, sải bước về thang máy kề bên. Annishen cười nụ, rên rỉ cạnh Nasser, rõ ràng rất sốt ruột muốn trở về căn hộ của họ. Bàn tay của ả trườn vào khẩu Glock trong thắt lưng của gã.

Chỉ là đề phòng...

Nhưng người gác chỉ gật đầu, lẩm bẩm " Xin chào" rồi lại quay về tờ tạp chí đang đọc dở.

Nasser lắc đầu khi tới chỗ thang máy. Thật là điển hình. Cái gọi là an ninh ở nước Mỹ chỉ là hình thức hơn là thực chất.

Gã giơ tay bấm nút thang máy.

Chả mấy lúc, Nasser và Annishen đã đứng trước căn hộ số 512. Gã lại dùng thẻ khóa từ đó để mở cửa. Ánh sáng chuyển từ màu đỏ sang xanh.

Gã liếc nhìn Annishen. Gã đọc thấy vẻ kích động trong cặp mắt của ả, khơi dậy từ vụ tắm máu lúc nãy.

"Chúng ta cần ít nhất một trong hai sống sót." Gã
cảnh báo.

Ả hít một hơi dài rồi rút vũ khí.

Dùng một ngón tay, Nasser đẩy tay nắm cửa. Gã lách người đẩy cánh cửa nhẹ nhàng, không một tiếng động nhỏ. Gã vào trước, lao vào tiền sảnh lát cẩm thạch. Một tia sáng hắt ra từ phòng ngủ phía sau.

Nasser dừng ngay bên trong cánh cửa.

Một mắt nheo lại.

Có cái gì đó đụng đậy trong không gian. Quá yên tĩnh. Gã không cần phải bước sâu vào nữa, biết rằng căn hộ trống không.

Tuy nhiên, gã vẫn vẫy Annishen sang một bên. Gã vào căn phòng bên. Trong giây lát, chúng lần lượt đi qua hết các căn phòng trong căn hộ, kiểm tra cả các tủ.

Không có ai ở đây.

Annishen đứng ở căn phòng ngủ lớn. Giường đã được sắp xếp sạch sẽ nhưng hình như chưa đụng đến. "Gã bác sĩ nói dối chúng ta." Ả nói với vẻ cáu kỉnh rõ rệt dù thoáng chút vị nể. "Chúng không ở đây."

Nasser vào trong phòng tắm lớn. Quỳ xuống một đầu gối, y phát hiện một vật gì đó trên sàn, lăn vào trong góc bồn tắm ngay cạnh.

Gã nhặt lên.

Một lọ thuốc có dòng chữ đỏ. Rỗng tuếch.

Gã đọc dòng chữ. Bệnh nhân Jackson Pierce.

"Chúng đã ở đây." Gã bập môi rồi đứng dậy.

Bác sĩ Corrin đã không nói dối. Hắn đã nói sự thật - hoặc ít nhất những điều hắn nghĩ là thật.

"Chúng đã đi rồi." Nasser nói rồi trở lại phòng ngủ.

Gã bóp chặt cái lọ thuốc trống không, cố nén cơn giận. Tên chỉ huy Pierce lại giễu cợt gã. Đầu tiên là mẫu đá rồi bây giờ là với chuyện đưa  bố mẹ hắn đi mất.

"Bây giờ làm gì?" Annishen hỏi.

Gã nhấc lọ thuốc lên.

Cơ hội cuối cùng.

 

*

*   *  

 

7 giờ 30 phút sáng

Istanbul

"Để bắt đầu," Seichan nói, "ngài biết gì về Marco Polo?"

Cô đeo một đôi kính mát gọng mạ màu xanh. Mặt trời đã lên khá cao trên nóc khách sạn tạo ra một sự pha trộn giữa bóng râm và ánh sáng chói mắt. Họ dịch đến một bàn ở góc, có ô che.

Gray thấy rõ sự bối rối trong giọng nói của cô, có thể là dấu hiệu của sự nhẹ nhõm. Ý chí của cô bị giằng xé giữa mong muốn cháy bỏng kiểm soát được dòng kiến thức và sự bắt buộc phải xả bớt gánh nặng.

"Polo là một nhà thám hiểm ở thế kỷ thứ XIII." Gray trả lời. Anh đã đọc đôi chút về con người này trên đường tới đây. "Cùng với người cha và ông bác, Marco đã sống hơn hai thập kỷ ở Trung Quốc như là khách danh dự của Hoàng đế Mông Cổ Kublai Khan. Và sau khi trở về Italy vào năm 1295, Marco kể lại hành trình của mình cho một nhà văn người Pháp tên là Rustichello, để ông ta viết lại."

Cuốn sách của Marco, Sự mô tả thế giới, ngay lập tức trở thành một cuốn sách bán chạy ở châu Âu, ở khắp châu lục với những mẩu chuyện kỳ thú: những hoang mạc rộng lớn và cô đơn ở Ba Tư, những thành phố đông nghịt dân ở Trung Quốc và các vùng đất xa xôi chỉ có phù thủy và thầy tu trần trụi sinh sống, các hòn đảo đầy rẫy những kẻ ăn thịt người và những giống vật kỳ lạ. Cuốn sách tạo ra sự tưởng tượng khắp châu Âu. Ngay cả Christophe Columbus cũng mang theo một cuốn trong chuyến du lịch đến Tân Thế giới.

"Nhưng điều ấy có liên quan gì đến những điều đang diễn ra hiện nay?" Gray chốt lại.

"Mọi thứ." Seichan trả lời, liếc nhìn xung quanh bàn.

Vigor uống một ngụm trà. Kowalski tỳ tay lên bàn dỏng tai nghe. Trong khi anh chàng trông có vẻ chán chường, Gray vẫn để ý đôi mắt của anh ta đảo quanh, nhìn ngắm tất cả. Gray nghi rằng có những thứ sâu sắc ở con người này chưa dò được. Kowalski lơ đãng ném mấy mẩu bánh cho lũ chim sẻ.

Seichan tiếp tục: "Những câu chuyện của Marco Polo không phải rành mạch như hầu hết mọi người tin. Không còn một bản gốc nào của cuốn sách của Marco Polo, chỉ là những bản copy của những bản copy. Và trong bất cứ bản dịch và tái bản nào, những sự khác biệt được ghi nhận là
đầy rẫy."

"Đúng là tôi có đọc." Gray nói, vội vã thúc cô ta. "Có quá nhiều điều tương tự khiến có người phân vân liệu Marco Polo đã bao giờ tồn tại. Hoặc ông ta chỉ là sản phẩm của nhà văn người Pháp".

"Ông ta là có thực." Seichan khăng khăng.

Vigor gật đầu đồng ý. "Tôi có nghe trường hợp chống lại Marco Polo. Lỗ hổng đáng kể trong việc ông mô tả về Trung Hoa." Ngài linh mục nâng tách trà. "Ví như sự ưa thích của người Viễn Đông đối với việc uống trà. Một hiện tượng chưa được biết đến với những người châu Âu lúc đó. Hoặc là phong tục bó chân hay cầm đũa. Marco lại không nhắc gì đến Vạn lý Trường thành. Rõ ràng có những điều bỏ sót đáng ngờ và quan trọng. Nhưng Marco đã có được nhiều điểm đúng: việc sản xuất đồ gốm sứ, đốt than và sử dụng đầu tiên tiền giấy."

Gray nghe thấy sự quả quyết trong giọng nói của vị linh mục. Có thể đó chỉ là niềm tự hào nước Ý của ông ta nhưng Gray lại cảm giác một sự tin tưởng sâu hơn.

"Bằng cách này hay cách khác," cuối cùng Gray cũng thừa nhận, "điều đó liên quan gì đến chúng ta?"

"Bởi vì có một điều bỏ sót quan trọng khác trong tất cả các ấn bản sách của Polo." Seichan nói. "Đấy là liên quan đến chuyến trở về của Marco tới Italy. Kublai Khan đã giao cho gia đình Polo hộ tống đưa công chúa Mông Cổ tên là Kokejin đến vị hôn phu của nàng ở Ba Tư. Để thực hiện một công việc trọng đại như vậy, nhà vua đã cấp cho nhóm này mười bốn con thuyền lớn cùng với sáu trăm người. Tuy nhiên khi họ tới bến cảng ở Ba Tư, chỉ còn hai chiếc thuyền và chỉ có mười tám người sống sót sau chuyến đi."

"Thế điều gì đã xảy ra với những người còn lại?" Kowalski khẽ hỏi.

"Marco Polo không bao giờ kể. Nhà văn Pháp Rustichello đã gợi ý điều gì đó trong lời mở đầu của cuốn sách nổi tiếng, một thảm kịch trong những hòn đảo ở Đông Nam Á. Song điều ấy không bao giờ được viết ra. Ngay cả trên giường khi hấp hối, Marco Polo cũng từ chối không kể lại những gì đã xảy ra."

"Thế có đúng như vậy không?" Gray hỏi.

"Đấy là một điều bí mật không bao giờ được giải đáp." Vigor trả lời. "Hầu hết các nhà học giả đều dự đoán là do bệnh tật hoặc nạn cướp biển đã phá tan tác hạm thuyền. Tất cả chỉ biết chắc chắn rằng những con tàu của Marco đã trôi dạt ở các đảo của Indonesia trong vòng năm tháng, và chỉ có một phần nhỏ của hạm thuyền thoát khỏi không hề hấn gì."

"Vậy," Seichan hỏi, tiếp tục bám vào chủ đề, "tại sao phần kịch tính của chuyến đi lại bị bỏ qua trong cuốn sách của Marco? Tại sao ông ta lại đem nó xuống mồ?"

Gray không trả lời. Nhưng sự bí mật gây ra một nỗi băn khoăn dai dẳng. Anh ngồi thẳng dậy. Trong đầu, anh bắt đầu lờ mờ nhận ra điều này có thể dẫn đến đâu.

Khuôn mặt của Vigor tối sầm lại. "Cô biết điều gì đã xảy ra ở những hòn đảo đó, có phải không?"

Cô ta gật đầu thừa nhận. "Bản đầu tiên trong cuốn sách của Marco Polo được viết bằng tiếng Pháp. Song có một việc được làm ngay trong thời của Marco: cuốn sách được tái bản bằng tiếng Ý. Nó được tiến hành bởi một người đương thời nổi tiếng của Marco Polo."

"Dante Alighieri." Vigor nói.

Gray liếc nhìn vị linh mục.

 

Vigor giải thích: "Cuốn Hài kịch thần thánh của Dante bao gồm cả chương Inferno nổi tiếng là cuốn sách đầu tiên được viết bằng tiếng Ý. Ngay cả người Pháp cũng gọi ngôn ngữ Italy là ngôn ngữ của Dante."

Seichan gật đầu. "Và những cuộc cách mạng như vậy không đến với Marco. Theo như ghi chép lịch sử, ông ta đã dịch bản tiếng Pháp cuốn sách của ông ta sang ngôn ngữ mẹ đẻ. Để cho những người đồng hương thưởng thức. Nhưng trong quá trình đó, ông đã làm một bản copy bí mật cho riêng mình. Trong cuốn này, cuối cùng ông kể lại những gì đã xảy ra với đội thuyền của vua Mông Cổ. Viết được câu chuyện cuối cùng đó."

"Thật không tưởng." Vigor lẩm bẩm. "Làm sao mà một cuốn sách như vậy lại bị cất giấu lâu đến thế? Nó đã ở đâu?"

"Đầu tiên là ở lâu đài của gia đình Polo. Rồi dần dà chuyển đến một nơi yên ổn hơn."  Seichan nhìn vào Vigor.

"Cô không thể ám chỉ..."

"Những người trong gia đình Polo đã được lệnh ra hải ngoại bởi giáo hoàng Gregory. Có vài người cao rao rằng bố và bác của Marco là những gián điệp đầu tiên của Vatican được cử đến Trung Quốc, kiểu như gián điệp  hai mang để do thám lực lượng của quân đội Mông Cổ. Chính là những người sáng lập thực sự của cơ quan mà ngài đã từng phục vụ, thưa ngài Verona."

Vigor ngồi phịch xuống ghế, lặng đi trong suy nghĩ riêng tư. "Cuốn nhật ký bí mật được giấu ở Viện Cơ mật." ông lẩm bẩm.

"Được chôn đi, không đánh số. Chỉ còn những bản khác của cuốn sách của Marco được lưu hành ra ngoài. Cần phải đọc  rất kỹ để nhận ra rằng có một chương  bổ sung được xen vào phần cuối cuốn sách."

"Và Hiệp hội đã lấy được bản sách đó?" Gray hỏi. "Họ biết được điều gì đấy quan trọng."

Seichan gật đầu.

 

Gray chau mày: "Nhưng đầu tiên phải hỏi làm sao mà Hiệp hội có thể đặt được tay lên văn bản bí mật này."

Bỏ cặp kính mát ra, Seichan nhìn thẳng vào mặt anh, buộc tội giọng bực bội.

"Chính anh đã đưa cho họ, Gray."

 

*

*   *

 

7 giờ 18 phút sáng

Vigor đọc được vẻ sốc trên khuôn mặt của viên chỉ huy.

"Cô đang nói cái quái gì vậy?" Gray hỏi.

Vigor cũng lưu ý vẻ thỏa mãn trong cặp mắt màu hạt dẻ của kẻ sát nhân Hiệp hội. Hình như cô đã lấy lại được chút vui mừng khi chọc ghẹo họ. Tuy nhiên, ông cũng để ý vẻ mỏng manh trên khuôn mặt của cô. Vẻ xanh xao trên đôi má. Cô ta sợ.

"Tất cả chúng ta đều đáng trách." Seichan nói, gật đầu với Vigor.

Ngài linh mục cố giữ phản ứng của mình bình tĩnh, không chơi trò này. Ngài đã quá già, không dễ để cho máu mình bị sôi lên. Bên cạnh đó, ông hiểu.

"Dấu hiệu của Long Đình", Vigor nói, "cô đã sơn lên trên sàn. Tôi nghĩ đó là cách để cảnh báo với tôi, một lời đề nghị điều tra về dòng ký tự angelic."

Seichan gật đầu, ngồi lui lại. Cô đọc được sự hiểu biết trong cặp mắt của ông.

"Nhưng còn hơn thế." Ông nói tiếp. Ông nhớ một người đã giữ ghế trước ông tại Viện Cơ mật: Tiến sĩ  Alberto Menardi, một kẻ phản bội, đã bí mật làm việc cho Long Đình Hoàng gia. Hắn ta đã thó không biết bao nhiêu văn bản quan trọng của Viện Cơ mật trong thời gian nắm quyền, ăn cắp đưa về một thư viện bí mật ở một lâu đài ở Thụy Sỹ. Gray, Seichan và Vigor đã giúp vào việc vạch trần gã, phá hủy giáo phái Long Đình. Lâu đài sau đó được trao lại quyền sở hữu về gia đình Verona, một di sản đáng nguyền rủa với một lịch sử đẫm máu kéo dài.

"Thư viện của Alberto," Vigor nói, "tại lâu đài. Sau tất cả các vụ tắm máu và nỗi kinh hoàng, cảnh sát đã cho phép chúng tôi thăm lại chỗ đó. Chúng tôi đã phát hiện là cả thư viện đã biến sạch."

"Tại sao tôi lại không được thông báo về việc này?" Gray hỏi, ngạc nhiên.

Vigor thở dài." Chúng tôi cho đấy là do bọn ăn cắp địa phương... hoặc có thể có sự tham nhũng trong số cảnh sát Ý. Có rất nhiều đồ cổ vô giá trong thư viện của tên phản bội. Và Alberto quan tâm tới nhiều cuốn sách có kiến thức."

Dù cho ngài rất căm ghét kẻ cầm đầu Viện Cơ mật trước kia, nhưng ông cũng phải nhận ra sự sáng suốt của Alberto Menardi, một nhân tài trong phạm vi quyền lực của hắn. Là Viện trưởng Viện Cơ mật trong ba mươi năm, Alberto biết hết mọi bí mật của Viện. Hắn đã trân trọng và bị giày vò với những phát hiện đó, một bản của cuốn Sự mô tả thế giới với một chương bổ sung giấu kín.

Nhưng gã viện trưởng cũ đã đọc điều gì? Điều gì làm hắn phải ăn trộm cuốn sách ấy? Điều gì đã khuấy động sự quan tâm và chú ý của Hiệp hội?

Vigor nhìn như xuyên vào Seichan. "Song đấy không phải là kẻ cắp thông thường đã khuân dọn sạch thư viện, đúng  không? Cô đã nói với Hiệp hội về những báu vật có thể tìm được ở đó."

Seichan cũng chẳng buồn lẩn tránh sự cáo buộc của vị linh mục. "Tôi không còn sự lựa chọn nào. Hai năm trước đây, thư viện đã đem trả cho tôi cuộc sống sau khi tôi giúp đỡ hai người các vị. Tôi không hề biết gì về nỗi khủng khiếp nó che giấu."

Gray vẫn im lặng trong khi họ nói chuyện, anh nhìn với cặp mắt nheo lại. Vigor có thể gần như thấy được các guồng quay đã chuyển động. Giống như Alberto, Gray có một cái đầu độc đáo, một cách sắp xếp những mẩu vụn vào với nhau để phát hiện ra một hình thái mới. Không có gì ngạc nhiên là Seichan đã thấy được điều đó ở anh.

Gray gật đầu với Seichan. "Cô đã đọc văn bản ấy, Seichan. Bản tường thuật thực sự chuyến trở về của Marco Polo."

Thay cho câu trả lời, cô ngồi xuống ghế, cúi xuống rồi kéo cái khóa ở ủng bên trái. Cô lấy ra một xấp chừng ba tờ giấy, được cuộn lại nhét vào một cái túi bí mật bên trong. Ngồi thẳng dậy, cô ta vuốt phẳng tờ giầy rồi đặt chúng lên bàn.

"Một khi tôi bắt đầu nghi ngờ điều Hiệp hội định làm," cô ta nói, "tôi đã cho in một bản copy của chương được dịch cho chính mình."

Vigor và Gray ngồi xích lại gần, vai kề vai cùng nhìn vào những tờ giấy. Anh chàng thủy thủ to lớn cũng cúi xuống, hơi thở của anh ta nồng nặc mùi rượu gạo.

Vigor liếc nhìn hàng tít và vài dòng đầu tiên.

Chương LXII

Về một cuộc hành trình không được kể; và một tấm bản đồ
bị cấm.

Giờ đây đã qua được một tháng từ khi rời cảng cuối cùng, chúng tôi tìm cách trữ nước từ một con sông sạch sẽ và sửa chữa hai con tàu. Chúng tôi trữ vào những chiếc thuyền nhỏ, thời gian đó chim chóc thật nhiều và những bụi cây ken san sát một cách thật ngạc nhiên. Chúng tôi đến với bốn mươi hai người của vị đại đế Khan, trang bị giáo và tên, và đến gần những hòn đảo lân cận có những thổ dân trần truồng sinh sống, họ ăn thịt người khác, sự bảo vệ thể xác được coi là khôn ngoan.

Vigor tiếp tục đọc, nhận ra nhịp điệu và những câu văn cổ cứng nhắc trong cuốn Sự mô tả thế giới. Liệu những từ đó có phải đúng là của Marco Polo không? Nếu vậy, đây là một chương mà chỉ rất ít cặp mắt được biết đến. Vigor ao ước được đọc bản gốc, hoàn toàn không tin lắm vào bản dịch,  nhưng quan trọng hơn cả, ông muốn đọc kỹ thổ ngữ gốc, để có thể gần hơn với nhà thám hiểm nổi tiếng thời Trung cổ.

Ông ta đọc tiếp:

Từ một góc sông, một trong những tên lính của Khan, hét lên rồi chỉ vào đoạn nhô lên từ một đỉnh khác từ nền thung lũng. Nó trải ra hàng chục dặm đất liền nằm sâu trong rừng rậm, nhưng không có núi. Nơi đó là một tòa nhà cao và nhiều cái tháp được phát hiện ẩn trong sương mù. Với mười ngày sửa chữa tàu thuyền, những tên lính muốn đi săn các loại chim và muông thú để lấy thịt tươi, chúng tôi khởi hành để tìm kiếm những người xây dựng các ngọn núi, một giống người chưa được biết đến và chưa có trên bản đồ.

Sau trang đầu tiên, Vigor cảm nhận một mối đe dọa đang hiện lên trong lời kể giản dị của Marco. Bằng những câu nói rõ ràng, ông kể lại "khu rừng vắng bóng các loài chim và thú dữ." Marco và những người thợ săn tiếp tục lần theo một con đường mòn đi sâu vào rừng "bị giẫm đạp bởi những người thợ xây dựng vùng núi."

Khi hoàng hôn tới gần, đám người của Marco đến tới một thị trấn bằng đá.

Khu rừng mở ra một thành phố vĩ đại với nhiều đền đài, mỗi cái đều bao phủ những khuôn mặt tạc bằng đá của thần tượng. Tôi không bao giờ phát hiện được những người này đã có pháp thuật ma quỷ gì; nhưng Chúa với sự trả thù thương hại của Người đã tàn phá thành phố này và khu rừng qua sự tàn lụi và bệnh dịch. Cái xác đầu tiên là một đứa bé gái trần truồng. Thịt của nó bị sôi đến tận xương và phủ đầy những con kiến đen. Tất cả mọi nơi, khi quay đi, cặp mắt lại nhìn thấy cái xác khác, rồi tiếp nữa. Nếu đếm được vài trăm người thì cũng không đúng với vụ thảm sát ở đây; và cái chết không chỉ dừng lại ở con người. Những con chim rơi từ trên trời xuống. Xác những con vật trong rừng nằm chết thành từng đống. Những con rắn khổng lồ bị chết treo lủng lẳng trên cành cây.


Đó là một thành phố chết. Lo sợ bệnh dịch, chúng tôi vội vã quay lại. Nhưng con đường rút của chúng tôi không phải là không có người rình mò. Từ trong rừng sâu thẳm họ tới, xác thịt trần trụi của họ không khỏe mạnh gì hơn những kẻ nằm vật trên những bậc thang bằng đá và ở quảng trường, hoặc trôi nổi trên các đoạn hào màu xanh. Chân tay bị thối rữa để lộ những mảng thịt phía dưới. Những kẻ khác thì khắp mặt da bị sủi bong bong và sôi ùng ục. Một số bị mù, còn những kẻ khác thì quờ quạng. Như thế đã có hàng nghìn bệnh dịch cày xới đất này, một khu vực bị dịch hạch.

Từ các bụi cây, họ lao ra nhe răng như những con thú vật hoang dã. Có những kẻ khác cầm theo những cánh tay và chân bị cắt cụt. Chúa hãy che chở cho con, bây giờ đây, nhiều mảnh đã bị gậm nhấm nham nhở."

Vigor cảm thấy lạnh cả sống lưng dù thời tiết buổi sáng thật nóng nực. Ông đọc với nỗi khủng khiếp câm lặng khi Marco mô tả làm thế nào nhóm của ông lao sâu hơn vào trong thành phố để tìm kiếm nơi ẩn nấp khỏi đội quân đói khát kia. Ông ta mô tả một cách chi tiết trận thảm sát và nạn ăn thịt người. Khi hoàng hôn buông xuống, nhóm của Marco rút về một trong những tòa nhà cao nhất, được chạm trổ với những con rắn cuốn xung quanh và những nhà vua đã chết từ lâu. Nhóm dựng lên một trận chiến cuối cùng, chắc chắn đội ngũ nhỏ nhoi của họ sẽ bị đè bẹp bởi ngày càng nhiều những kẻ ăn thịt người bệnh tật đang lao vào thành phố.

Gray lẩm bẩm, nghe không rõ anh nói gì nhưng chuyện anh không tin  là rõ ràng.

Giờ đây khi mặt trời lặn thì những hy vọng của chúng tôi cũng mất đi. Mỗi người theo cách của mình cầu trời. Binh lính Mông Cổ đốt các mẩu gỗ rồi bôi tro lên mặt của họ. Tôi chỉ có người cha  xưng tội. Friar Agreer quỳ với tôi và cầu Chúa qua những lời cầu nguyện thì thầm. Ông nắm chặt cây thánh giá và dùng nó xoa lên trán tôi. Ông cũng xoa tro than lên mặt như những người lính Mông Cổ. Tôi nhìn vào những khuôn mặt có đánh dấu của những người khác và phân vân trong thử thách như vậy, liệu tất cả chúng tôi có giống nhau không? Người theo đạo Phật và Thiên chúa. Và cuối cùng thì lời cầu nguyện của ai sẽ được trả lời? Lời cầu nguyện của ai đem lại Đức hạnh chống laị bệnh dịch: Một Đức hạnh bí mật đã cứu vớt tất cả chúng ta.

Câu chuyện dừng lại ở đây.

Gray gấp tờ giấy lại, tìm thêm nữa.

Kowalski ngồi lui lại, đóng góp phần của mình vào cuộc tranh luận lịch sử "Không thấy có sex." Anh ta lẩm bẩm.

Chau mày, Gray gõ một cái tên ở trang cuối. "Ở đây... có nhắc đến Friar Agreer."

Vigor gật đầu, sau khi phát hiện ra lỗi lầm đang chú ý. Chắc chắn văn bản này là giả. "Không có một linh mục nào đi cùng với Polo tới phương Đông." Ông tuyên bố dõng dạc. "Theo những văn bản của Vatican, hai linh mục dòng Dominic đi cùng với Polo, đại diện cho Giáo hoàng, nhưng họ quay lại sau vài ngày đầu tiên."

Seichan thu thập trang thứ nhất rồi cuộn nó lại. "Giống như chương bí mật này, Marco đã gạt bỏ vị linh mục ra khỏi những ghi chép của mình. Thực ra, ba thầy tu dòng Dominic đã đi cùng với Polo. Mỗi người đi cùng với một nhà thám hiểm, theo như phong tục lúc đó."

Vigor nhận ra cô ta đúng. Đúng, thực sự đấy là phong tục.

"Chỉ có hai nhà tu quay lại." Seichan nói. "Sự có mặt của người thứ ba được che giấu... cho đến bây giờ."

Gray quay lại rồi đưa tay lên cổ. Anh kéo ra một cái dây thánh giá bằng bạc rồi đặt lên bàn. "Và cô nói rằng cái này là cây thánh giá của Friar Agreer? Cái đã được nhắc đến trong câu chuyện."

Cái nhìn chăm chú của Seichan đã trả lời câu hỏi
của anh.

Ngạc nhiên trước sự tiết lộ bất ngờ này, Vigor nghiên cứu cây thánh giá. Nó không được tô điểm, trang trí gì, chỉ có mỗi chi tiết duy nhất là một hình người bị câu rút. Vigor có thể nói nó là cổ. Nhưng liệu có đúng không? Ông nhẹ nhàng cầm lấy nó từ trên bàn và kiểm tra lại. Nếu đúng vậy, trong lượng của chính nó sẽ làm tăng thêm sức nặng cho những lời khó tin của Marco.

Cuối cùng Vigor cũng nói: "Nhưng tôi không hiểu. Tại sao Friar Agreer lại không được nhắc đến trong câu chuyện?"

Seichan cúi xuống thu thập mấy tờ giấy. "Chúng tôi không biết." Cô nói một cách đơn giản." Những trang còn lại của cuốn sách bị xé mất và thay thế bằng một trang giả, khâu gắn vào gáy, nhưng chất lượng và tuổi của trang mới lại có niên kỷ xa hơn bản gốc."

Vigor tròn mắt trước sự lạ lùng đó. "Thế trên trang mới viết cái gì?"

"Bản thân tôi chưa bao giờ được xem, nhưng tôi được người ta nói cho biết nó viết cái gì. Nó bao gồm một bài bình phẩm, đầy rẫy những tham khảo về những thiên thần và trích dẫn từ Kinh thánh. Tác giả rõ ràng sợ câu chuyện của Marco. Nhưng quan trọng hơn, trang viết nói khá dài về một tấm bản đồ trong cuốn sách do chính Marco vẽ. Một cái bản đồ mà cho là ma quỷ."

"Thế điều gì xảy ra với nó?"

"Mặc dù họ sợ điều đó, song ai đấy biên tập cuốn sách cũng băn khoăn về việc hủy hoàn toàn tấm bản đồ. Vì vậy nhà văn, cùng với một nhóm khác, đã viết lại bản đồ theo lối mã để có thể bảo vệ và giữ gìn nó."

Gray gật đầu tỏ vẻ hiểu ra. "Vậy họ chôn nó bằng ngôn ngữ angelic."

"Nhưng ai bổ sung trang viết?" Vigor hỏi.

Seichan nhún vai."Nó không được ký, nhưng cũng có đủ sự chỉ dẫn trên trang viết để gợi ý rằng những con cháu của Polo đã giao cuốn sách thiêng liêng của ông ta đến Giáo hoàng tiếp sau sự tàn phá của bệnh dịch đậu mùa đen vào thế kỷ XIV. Có lẽ gia đình sợ bệnh dịch giống như loại dịch đã tàn phá thành phố chết sẽ xuất hiện hủy diệt thế giới. Chính vì vậy cuốn sách được bổ sung vào Viện Cơ mật."

"Thực thú vị." Vigor nói. "Nếu như cô nói đúng, điều ấy có thể giải thích tại sao tất cả dấu vết của gia đình Polo biến đi từ đó. Ngay cả xác của Marco Polo cũng biến mất khỏi nhà thờ San Lorenzo nơi ông ta được chôn cất. Điều này cũng giống như một cố gắng có hệ thống để xóa sạch gia đình Polo. Liệu có ai lúc đó đã hủy hoại các trang viết?"

Seichan gật đầu."Nó được định vào thời gian đầu thế
kỷ XVI"

Vigor nheo mắt. "Ồ... lại một nạn đại dịch nữa tàn phá nước Ý vào thời gian đó."

"Chính xác vậy." Seichan nói. "Và đây cũng là thời gian một người Đức tên là Johanné Trithemus lần đầu tiên phát triển văn bản angelic. Mặc dù ông ta cao rao rằng nó là văn bản trước khi loài người có trên trái đất."

 

Vigor gật đầu. Ông ta đã thực hiện phần nghiên cứu lịch sử của chính mình về các văn bản cổ đại. Người sáng tạo ra nó tin rằng bằng cách sử dụng ký tự alphabet - được cho là thu được từ nghiên cứu cổ đại sâu sắc - người ta có thể giao lưu với dàn đồng ca trên trời. Trithemius cũng học đòi cách thảo mật mã. Bài văn nổi tiếng của ông ta Stenographia được coi là có bản chất huyền bí nhưng thực ra nó lại là một sự pha trộn phức tạp của thiên sử học và mở khóa mã.

"Vậy nếu như ngài muốn giấu một cái bản đồ vào thời gian đó," Gray kết luận, "khi ngài cho là ma quỷ thì khóa chặt nó vào trong một văn bản angelic, hình như đấy là một cách tốt để đẩy lui mọi hiểm nguy."

"Đó chính là những gì mà Hiệp hội muốn tin tưởng. Có những bằng chứng trong trang bí mật ấy liên quan đến vị trí của tấm bản đồ đã được mã hóa, một tấm bản đồ hiện đã được chạm vào một mẫu đá Ai Cập và giấu trong bảo tàng Gregorian của Vatican. Nhưng mẫu đá đó đã biến mất, mất từ lâu rồi, bị di chuyển lung tung. Nasser và tôi đã chơi trò mèo đuổi chuột với nhau để tìm kiếm nó. Song tôi đã thắng. Tôi ăn cắp nó ngay trước mũi Nasser."

Vigor nghe thấy vẻ tự hào chua chát trong giọng cô ta, nhưng ông chau mày và quay sang tìm kiếm trên khuôn mặt những người khác. "Cái mẫu đá gì mà tất cả mọi người đang nói đến vậy?"

 

*

*    *

 

7 giờ 42 phút sáng

Đưa ra những chi tiết chính, Gray giải thích về mẫu đá Ai Cập đã được dùng để giấu cây thánh giá của vị linh mục và mô tả mã được vẽ bằng dầu phát lân tinh.

"Đây là văn bản thực sự." Gray đưa ra bản copy của mình.

Vigor nghiên cứu tờ giấy với những ký tự lằng nhằng rồi lắc đầu. "Đối với tôi nó chẳng có nghĩa ngọn gì cả."

"Chính xác vậy." Seichan nói. "Lá thư trong văn bản của Marco cũng coi như đề cập đến một chìa khóa tới bản đồ. Một cách để giải mã bí mật của nó. Một chìa khóa được giấu trong ba phần. Chìa khóa đầu tiên liên quan đến dòng chữ trong phòng nơi văn bản bí mật lúc đầu được cất giấu."

"Trên lầu Nghinh Phong." Vigor nói. "Một nơi cất giấu lý tưởng. Cái tháp được xây dựng trong thế kỷ đó. Xây cất để làm trạm thiên văn của Vatican."

"Và theo như trang sách giả trong cuốn sách của Marco," Seichan tiếp tục, "mỗi chìa 8000 khóa sẽ dẫn đến cái tiếp theo. Vậy để bắt đầu, chúng ta cần giải câu đố đầu tiên ấy đã. Dòng chữ angelic đầu tiên ở Vatican". Cô ta quay lại Vigor. "Ngài nói mình đã thành công, có đúng vậy không?"

Vigor vừa định mở mồm giải thích thì Gray đã đặt một bàn tay lên cánh tay của ông. Anh không muốn đưa cho Seichan tất cả các con bài của họ. Anh cần phải giữ ít nhất con át chủ trong cuộc chơi.

"Trước đó," Gray nói, "cô vẫn chưa nói tại sao Hiệp hội lại can dự vào tất cả những chuyện này. Họ sẽ thu được gì khi theo đuổi con đường mòn lịch sử từ Marco Polo đến thời hiện tại?"

Seichan ngần ngừ. Cô ta hít một hơi dài, không biết nên nói dối hay ép mình để nói sự thật, anh cũng không chắc. Khi cô ta nói, cô ta lại khẳng định sự lo ngại đang tăng lên trong Gray.

"Vì chúng ta tin rằng bệnh dịch của Marco lại bùng phát nữa." Cô ta nói. "Một trong những cây gỗ cổ từ các chiến thuyền của thời Marco mới được tìm thấy ở các hòn đảo Indonesia. Hiệp hội đã có mặt ở đó, sẵn sàng theo sau con đường mòn khoa học. Nasser và tôi được phân công theo đuổi con đường lịch sử. Với cung cách của Hiệp hội, cánh tay phải không được phép biết bên trái đang làm gì."

Gray hiểu cách tổ chức theo kiểu từng mảng của Hiệp hội, một phương thức rất được ưa chuộng của nhiều tổ chức khủng bố.

"Nhưng tôi đã ăn cắp một số thông tin." Cô ta nói. "Tôi biết được bản chất của dịch bệnh và khả năng của nó có thể thay đổi sinh quyển vĩnh viễn."

Seichan kể tiếp việc Hiệp hội đã  phát hiện ra một loại vi rút - được gọi là "chủng vi rút Juda" - khả năng của nó có thể biến tất cả vi khuẩn thành kẻ giết người.

Cô ta trích dẫn từ văn bản của Marco "Một tốp lê dương của dịch bệnh đó là cái đang tàn phá ở Indonesia. Nhưng tôi biết Hiệp hội. Tôi biết điều họ có kế hoạch định làm. Bằng cách thu hoạch và khống chế nguồn bệnh này họ hy vọng tạo ra một số lượng lớn vũ khí vi sinh mới, một nguồn không bao giờ cạn sản sinh ra từ loại vi rút này."

Khi Seichan kể lại những chi tiết về bệnh dịch, Gray nắm chặt bên mép bàn đến đau cả tay. Một nỗi kinh hoàng ghê gớm đang xâm chiếm con người anh.

 

Trước khi anh kịp nói, Vigor hắng giọng. "Nhưng nếu cánh khoa học của Hiệp hội đang theo đuổi loại vi rút này, tại sao lại rất quan trọng đối với việc theo đuổi lịch sử con đường mòn của Marco Polo? Điều đó có ý nghĩa gì?"

Gray trả lời, trích dẫn dòng cuối cùng trong văn bản của Marco. "Một Đức hạnh bí mật đã cứu vớt tất cả chúng ta. Cái đó nghe như một giải pháp đối với tôi."

Seichan gật đầu. "Marco đã sống sót để kể lại câu chuyện của mình. Ngay cả Hiệp hội cũng không dám tung ra loại vi rút như vậy khi chưa có phương thức khống chế nó."

"Hoặc ít nhất phát hiện ra nguồn gốc của nó." Gray
bổ sung.

Vigor nhìn ra ngoài thành phố, khuôn mặt của ông bừng lên dưới ánh sáng mặt trời." Vậy còn có những câu hỏi chưa được trả lời. Điều gì đã xảy ra với cha Agreer? Điều gì đã làm cho giáo hội sợ?"

Nhưng Gray lại có một câu hỏi quan trọng hơn. "Chính xác là khi nào sự bùng phát mới xảy ra ở Indonesia?"

"Ở một hòn đảo xa xôi, rất may là xa khu vực đông dân."

"Hòn đảo Giáng sinh." Gray xen vào.

Đôi mắt của Seichan mở to ngạc nhiên.

Sự khẳng định là đủ.

Gray đứng dậy. Mọi người nhìn anh chằm chằm. Monk và Lisa đã đến đảo Giáng sinh để điều tra căn bệnh đó. Họ không hề biết điều họ sắp phải đối mặt, hoặc về sự quan tâm của Hiệp hội. Hơi thở của anh trở nên nặng nề hơn. Nhưng với việc Sigma hợp tác, liệu sự báo động của anh có đặt bạn anh vào mối nguy hiểm lớn hơn, vẽ một con mắt bò mộng trên họ không?"

Anh muốn biết có nhiều thông tin hơn: "Phi vụ này của Hiệp hội ở Indonesia đã đi đến đâu rồi?"

"Tôi không biết. Thực ra có được những điều như tôi biết cũng đã là khó khăn lắm."

"Seichan." Gray lườm cô ta.

 

Mắt cô ta nheo lại vẻ băn khoăn. Bị kích động, suýt nữa anh đã tin rằng đó là sự thật.

"Tôi... tôi thực sự không biết, Gray. Tại sao? Có điều
gì sai?"

Nén một tiếng thở dài, Gray bước đến chỗ lan can, cần có thêm một giây để nghĩ thêm, để cho những điều anh biết có thể sắp xếp lại được.

Vào lúc này, anh biết chỉ có một điều chắc chắn.

Anh cần nói chuyện với Washington.

 

*

*    *

 

1 giờ 4 phút sáng

Washington DC

Bà Harriet Pierce cố vật lộn để làm cho ông chồng bà bình tĩnh lại. Thật rất khó khăn khi ông cố tìm cách khóa mình lại bên trong phòng tắm khách sạn. Bà lấy một chiếc khăn lạnh đắp lên đôi môi khô khốc của mình.

"Jack, mở cửa ra!"

Ông thức dậy từ cách đây hai tiếng, lúng túng và mất phương hướng. Bà đã thấy hiện tượng này từ trước, triệu chứng Sundowner. Thông thường với những bệnh nhân mất trí nhớ sẽ rơi vào tình trạng bị kích động cao sau khi mặt trời lặn, khi hoàn cảnh trở nên rối rắm vào lúc hoàng hôn xuống.

Và bây giờ lại tồi tệ diễn ra ở đây. Xa nhà.

Chẳng giúp được gì khi khách sạn Phượng Hoàng trở thành nơi ở thứ hai của họ trong vòng chưa đầy 24 giờ. Đầu tiên là căn hộ của tiến sĩ Corrin và bây giờ ở đây. Nhưng Gray rất kiên quyết khi anh chào tạm biệt bố mẹ và nói thêm câu dặn dò riêng với mẹ. Một khi tiến sĩ Corrin chia tay họ ở khu căn hộ, bà đã được nói là phải đi, đi khỏi thành phố,
rồi đăng ký ở một khách sạn khác, trả bằng tiền mặt dưới
tên khác.

 

Một sự thận trọng bổ sung thêm.

Nhưng việc cả ngày di chuyển chỉ làm tồi tệ thêm tình trạng của ông Jack. Ông đã dùng thuốc an thần suốt cả ngày. Và ông đã uống đến viên thuốc ổn định huyết áp cuối cùng để giảm bớt căng thẳng.

Vì vậy không có gì ngạc nhiên khi ông Jack tỉnh dậy trong tình trạng hoảng hốt và mất phương hướng. Tình trạng tồi tệ nhất bà đã thấy hàng tháng nay.

Những tiếng hét và giậm chân thình thịch làm bà bừng tỉnh. Bà đã ngủ quên khi ngồi trên ghế trước cái vô tuyến nhỏ trong buồng khách sạn. Lúc đó là kênh thời sự trên truyền hình Fox. Bà đã vặn âm lượng nhỏ đi để nghe nếu như tên Gray được nhắc đến.

Giật mình thức giấc khi nghe thấy tiếng hét của chồng, bà vội vã đến buồng ngủ. Một lỗi lầm ngu xuẩn. Không bao giờ được tác động người  bệnh trong tình trạng như vậy. Ông Jack đã tát mạnh vào miệng bà làm bà loạng choạng. Phải mất đến nửa phút ông mới nhận ra bà là vợ mình.

Cuối cùng khi biết lỗi của mình, ông lui vào phòng tắm. Bà nghe tiếng ông sụt sùi. Đó chính là lý do vì sao ông lại khóa cửa buồng tắm.

Những người đàn ông trong gia đình Pierce không bao giờ khóc.

"Jack, mở cửa đi. Không có chuyện gì đâu. Em đã gọi thuốc theo đơn ở cửa hàng thuốc bên kia đường rồi."

Bà biết rằng quả là mạo hiểm khi gọi đơn thuốc. Nhưng bà không thể đưa ông đi bệnh viện và nếu như không điều trị kịp thời thì tình trạng của ông lại còn tồi tệ nữa. Và tiếng ông quát tháo chắc sẽ làm quản lý khách sạn bực mình. Nếu như họ gọi cảnh sát thì sao?

Không còn cách nào khác, mặc dù răng bà còn bị nhức nhối sau cú đấm của ông, bà vẫn phải quyết định. Dùng cuốn danh bạ, bà gọi đến một tiệm bán thuốc 24 giờ, mang thuốc đến theo đơn. Một khi thuốc tới và chồng bà được chữa khỏi, bà sẽ rời đến một khách sạn mới và biến mất.

 

Có tiếng chuông cửa đằng sau bà.

Ồ, lạy Chúa.

"Jack, đó là người mang thuốc, em sẽ trở lại ngay."

Bà vội vã lao ra khỏi buồng ngủ rồi bước tới cửa ra vào. Trước khi thò tay kéo chốt, bà dừng lại. Bà thò người ra phía trước nhòm qua lỗ nhỏ trên khe cửa. Từ đây có thể nhìn thấy toàn bộ lối đi. Chỉ có một người phụ nữ, tóc cắt ngắn, đứng bên ngoài cửa. Cô ta mặc chiếc áo khoác màu trắng với nhãn hiệu tên công ty dược bên ve áo và cầm một túi giấy màu trắng có đính tờ giấy biên nhận.

Người đàn bà lại bấm chuông, rồi nhìn đồng hồ và sắp bước đi.

Harriet gọi qua cửa. "Hãy chờ chút!"

"Hiệu thuốc Swan." Người đàn bà gọi lại.

Cẩn thận, bà bước tới chiếc điện thoại trên bàn gần đó. Bà liếc nhìn thấy khuôn mặt hốc hác trông như hình nhân của mình trên tấm gương treo. Bà ấn nút gọi trực lễ tân ở tiền sảnh.

Cú gọi được trả lời ngay lập tức.

"Khách sạn Công viên phượng hoàng, lễ tân."

"Buồng 334. Tôi muốn khẳng định chuyện đưa thuốc tới."

"Vâng, thưa bà, tôi đã kiểm tra giấy tờ của cô ta ba phút trước đây. Có vấn đề gì không ạ?"

"Không, không sao cả. Tôi chỉ muốn..."

Một tiếng va mạnh từ buồng ngủ phía sau bà, tiếp theo là tiếng chửi rủa. Ông Jack cuối cùng đã mở cửa buồng tắm.

Người nhân viên lễ tân nói trong máy nghe: "Có việc gì tôi có thể giúp được bà không ạ?"

"Không, cảm ơn." Bà đặt máy xuống.

"Harriet!" Chồng bà gọi, giọng tức tối.

"Em ở đây! Jack"

Tiếng chuông cửa lại kêu.

 

Cuống cuồng, bà Harriet gạt chốt cửa, hy vọng chồng bà sẽ không càu nhàu về chuyện mua thuốc cho ông. Bà mở rộng cánh cửa.

Người đàn bà mang thuốc ngẩng mặt lên, cười cười nhưng lạnh tanh, chỉ là nụ cười thỏa mãn. Cảm giác sốc khi đã nhận ra khuôn mặt đó làm bà lạnh người. Chính là người đàn bà đã tấn công họ tại điểm an toàn. Trước khi bà kịp làm gì, ngưòi đàn bà đã đá mạnh bung cánh cửa mở ra.

Giật mình, khung cửa đập mạnh vào vai bà làm bà ngã vật xuống sàn. Bà cố nén đau giơ tay ra nhưng cổ tay lại đau nhói, cả cánh tay như tê dại.

Thở hổn hển, bà lăn người đi.

Jack bước ra khỏi phòng ngủ, chỉ mặc mỗi quần đùi.

"Harriet...?"

Vẫn còn đang ngơ ngác, ông chưa kịp nhận ra chuyện gì xảy ra.

Ả đàn bà bước qua khung cửa rồi giơ khẩu súng, chĩa thẳng vào ông Jack. "Đây là thuốc của mày!"

"Không." Harriet hét lên.

Ả bóp cò, có tiếng nổ từ nòng súng. Có cái gì đó sượt qua tai bà, đập thẳng vào bộ ngực trần của ông Jack trong ánh sáng mờ nhạt.

Ông hung hăng, tay dang rộng rồi bật về phía sau.

Ông không còn cử động nữa.

Bản tin Fox news trên chiếc vô tuyến vặn rất nhỏ vẫn nói khe khẽ.

"Cảnh sát vẫn tiếp tục cuộc săn đuổi Grayson Pierce có liên quan đến vụ hỏa hoạn và đánh bom ở một ngôi nhà ở thủ đô Washington DC."

 

*

*   *

 

 

 

8 giờ 32 phút sáng

Istanbul

Đứng một mình trên hàng lan can, Gray cố gắng nghĩ cách nào đó an toàn để thông tin với Washington. Về sự hiểm nguy ở đảo Giáng sinh. Anh phải suy tính, có lẽ là cách thông tin cá nhân để không lan ra khỏi Painter. Nhưng làm thế nào? Ai có thể nói là Hiệp hội không theo dõi tất cả phương thức thông tin."

Seichan nói phía sau anh, ở phía bàn. Giọng cô ta không phải hướng trực tiếp đến Gray. "Thưa ngài linh mục, ngài vẫn chưa giải thích vì sao ngài lại gọi chúng tôi tới Istanbul. Ngài nói mình hiểu dòng chữ angelic đó."

Sự tò mò làm anh  quay trở lại bàn, nhưng anh không thể ngồi. Anh đứng giữa Seichan và Vigor.

Vị linh mục với cái ba lô lại rồi đặt nó lên đùi. Ông lục lọi trong đó rồi kéo ra một cuốn sổ, mở ra đặt lên bàn. Trên trang giấy là một dòng những từ angelic bằng mực đen.

 

"Đây là dòng chữ trên sàn Tháp Nghinh phong." Vigor nói. "Mỗi từ của ký tự này tương đương với một âm tiết đặc biệt. Và theo như Trithemius, cha đẻ của kiểu chữ angelic, khi kết hợp theo quy trình đúng, việc tập hợp đó mở ra một dòng chữ trực tiếp tới một vị thần cụ thể."

"Giống như gọi điện đường dài." Kowalski lẩm bẩm từ phía bên kia bàn.

Gật đầu một cái, Vigor lật sang trang sau. "Tôi tiếp tục rồi đánh dấu tên của mỗi ký tự."

 

 

 

Gray lắc đầu, không thấy gì cả.

Vigor lấy ra một cái bút rồi gạch chân dưới mỗi từ, đọc lại khi ông làm thế: " A.I.G.A.H."

"Thế có phải là tên của vị thánh nào không?" Kowalski hỏi

"Không phải một vị thánh, nhưng đó là một cái tên." Vigor nói. "Điều các vị phải hiểu là Trithemius dựa trên thứ tự abc của mình theo tiếng Hebrew, cho rằng quyền lực là từ các chữ cái Do Thái. Ngay cả hiện nay, những tín đồ Kabbalah vẫn tin rằng có một hình thức trí tuệ nào đó trong những đường nét của chữ cái Hebrew. Trithemius cho rằng chữ angelic của ông ta là sự chắt lọc tinh khiết nhất của Hebrew."

Gray ngồi xích gần hơn, bắt đầu hiểu hướng đi của Vigor. "Và tiếng Hebrew thì lại đọc ngược với tiếng Anh. Từ phải sang trái."

Seichan dùng ngón tay di chuyển trên tờ giấy và đọc ngược lại: "H.A.G.I.A"

"Hagia." Vigor phát âm thận trọng. "Từ này có nghĩa là thần thánh trong tiếng Hy Lạp."

Cặp mắt của Gray nheo lại rồi mở to như đã hiểu ra.

Tất nhiên.

"Cái gì vậy?" Seichan hỏi.

Kowalski gãi gãi đầu, chẳng hiểu gì cả.

Vigor đứng dậy kéo tất cả mọi người lại. Ông dẫn họ đối mặt với thành phố. "Trong chuyến trở về nhà, Marco Polo đi ngang qua Istanbul lúc đó có tên là Constantinople. Đây là nơi ông ta đã đi qua từ châu Á và cuối cùng trở về lại châu Âu, một chỗ ngoặt có ý nghĩa với mọi cách."

Vị linh mục chỉ vào thành phố, đến chỗ một trong những bức tượng cổ đại. Gray đã để ý trước đó. Một cái nhà thờ mái vòm lớn, một nửa đang bị che chắn bởi các dàn giáo do công việc phục hồi đang tiến hành.

"Hagia Sophia." Gray nói, tên của nhà thờ đó.

 

Vigor gật đầu." Đó là một trong những nhà thờ Thiên chúa lớn nhất trên thế giới. Chính Marco đã nhận xét về sự huy hoàng của không gian rộng rãi của nó. Một vài người đã nhầm Hagia Sophia với thánh Sophia, nhưng thực ra, cái tên thực sự của cấu trúc là nhà thờ của Trí tuệ thần thánh, mà có thể được diễn đạt là Nhà thờ của Trí tuệ thiên thần."

"Vậy đó là nơi chúng ta phải tới!" Seichan nói. "Cái chìa khóa đầu tiên chắc phải bị giấu ở đó." Cô tay quay ngắt lại.

"Đừng quá nhanh như vậy, thưa quý cô." Vigor mắng.

Ngài linh mục quay lại cái ba lô của mình, thò vào trong rồi rút ra một vật bọc vải. Đặt nhẹ nó lên bàn, ông lột vỏ để lộ ra một thanh vàng. Nó trông rất cũ, có một lỗ nhỏ ở mỗi đầu và bề mặt có một ký tự viết tay.

"Không phải là chữ angelic." Vigor nói, để ý sự chăm chú của Gray với hàng chữ. "Đó là tiếng Mông Cổ. Nó đọc là: Với sức mạnh của chúa Trời, mang tên thánh Khan. Hãy để những kẻ báng bổ bị chết."

"Tôi không hiểu." Gray nói, chau mày. "Liệu điều này có thuộc về Marco Polo không? Cái gì vậy?"

"Tiếng Trung Quốc gọi là paitzu, còn tiếng Mông Cổ là gerege."

Ba khuôn mặt nhìn chằm chằm vào Vigor.

Ông gật đầu về phía vật đó. "Với ngôn ngữ hiện đại, thì đấy chính là hộ chiếu VIP. Một kẻ du hành cầm theo chiếc hộ chiếu này có thể yêu cầu ngựa, người, thuyền hay bất cứ cái gì trên đất do Kublia Khan thống trị. Từ chối những yêu cầu này sẽ bị trừng trị đến chết. Đại Hãn đã ban hộ chiếu này cho những đại sứ đi lại phục vụ ông ta."

"Hay thật." Kowalski huýt sáo, nhưng qua ánh mắt anh chàng, Gray lại nghi rằng chính thỏi vàng hơn là câu chuyện đã thu hút sự quan tâm của anh ta.

"Và những người trong nhà Polo được cấp một trong những hộ chiếu đó?" Seichan hỏi.

 

"Ba cái, thực ra là vậy, một cái cho Polo, một cái cho bố và cái kia cho bác ông ta. Thực tế, có một giai thoại về những hộ chiếu này, rất nhiều người biết. Khi nhà Polo trở về Venice, chẳng ai nhận ra họ cả. Ba người trông tiều tụy, mệt mỏi trên một chiếc thuyền duy nhất. Nhìn cũng chỉ khá hơn lũ ăn mày một chút. Không ai tin họ chính là những người thuộc gia đình Polo đã biến mất từ lâu. Khi bước lên bờ, ba người xé những mảnh trên quần áo của họ để lộ ra cả một kho tàng châu báu, ngọc ngà. Bao gồm trong số châu báu đó có ba cái hộ chiếu bằng vàng, được mô tả với rất nhiều chi tiết. Nhưng sau câu chuyện này, những chiếc hộ chiếu vàng biến mất lập tức. Tất cả ba cái."

"Cũng cùng con số với số chìa khóa của bản đồ?" Gray bình luận.

"Thế ngài tìm thấy nó ở đâu?" Seichan hỏi. "Ở một trong những bảo tàng của Vatican?"

"Không." Vigor gõ gõ cuốn sổ tay xuống mặt bàn. " Với sự giúp đỡ của một người bạn, tôi đã phát hiện ra nó ngay ở dưới viên đá cẩm thạch nơi dòng chữ được viết. Có một cái lỗ bí mật dưới viên đá cẩm thạch."

Giống như cây thập tự của vị linh mục, Gray nhận ra, chôn vùi trong đá.

Seichan khẽ lầu bầu. Một lần nữa phần thưởng lại ở ngay trước mũi cô ta.

Vigor tiếp tục. "Tôi tin rằng cái này là một trong những hộ chiếu VIP đã ban cho nhà Polo." Ông ta nhìn vào ba người. "Và tôi tin đây là chìa khóa đầu tiên."

"Như vậy thì dấu vết dẫn tới nhà thờ Hagia Sophia..." Gray bắt đầu.

"Nó đang chỉ tới chìa khóa thứ hai." Vigor kết thúc. "Hai cái hộ chiếu nữa đã bị mất tích, hai chìa khóa bị mất."

"Làm sao mà ngài có thể đoan chắc như vậy?" Seichan hỏi.

Ông lại gõ gõ thỏi vàng. Được khắc với những chi tiết, chỉ một chữ đã nằm trọn một bên mặt của thỏi vàng. Một chữ angelic.


 

 

Vigor gõ vào chữ đó: "Đây là chìa khóa đầu tiên."

Gray biết rằng ông ta nói đúng. Anh ngước nhìn lên về phía nhà thờ vĩ đại có tên Hagia Sophia. Chiếc chìa khóa thứ hai đã được giấu ở đó, nhưng đây là một công trình kiến trúc khổng lồ. Giống như mò kim đáy bể. Có thể phải mất bao nhiêu ngày.

Vigor chắc đã đọc được sự băn khoăn của anh. "Tôi đã cử người đi dò xét tại nhà thờ. Một nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật từ Vatican, người đã giúp tôi tại Tháp Nghinh phong với câu đố angelic."

Gray gật đầu. Khi anh nghiên cứu chữ cái duy nhất, anh không thể rũ bỏ cảm giác phân vân. Hai người bạn của anh, Monk và Lisa đã ở trong tình thế hiểm nghèo. Nếu như anh không thể liên lạc với Washington một cách an toàn, có lẽ chỉ có cách khác để giúp những người bạn của mình: bằng cách đánh Hiệp hội vào bất cứ nơi nào ở phần tận cùng của bí
mật này.

Tìm ra thành phố chểt và tìm ra thuốc giải.

Trước khi Hiệp hội làm được.

Khi anh nhìn lên mặt trời mọc, Gray nhớ tới lời nói của Vigor về chuyện Istanbul là cửa ngõ của chuyến hành trình của Marco. Thực tế, từ khi thành lập đến nay, thành phố cổ đại này đã là cửa ngõ của thế giới địa lý. Về phía bắc là Biển Đen và phía nam là Địa Trung Hải. Eo Bosporus, một con đường thương mại lớn và đường biển, chạy giữa chúng. Nhưng quan trọng hơn đối với lịch sử, Istanbul nằm lọt giữa hai châu lục. Nó có một chân ở châu Âu còn chân kia ở
châu Á.

 

Cũng có thể nói như vậy về vị trí của thành phố trên với khoảng cách về thời gian.

Một chân ở hiện tại và chân kia ở quá khứ.

Luôn luôn ở chỗ ngoặt.

Không giống như mình.

Trong khi anh đang ngẫm nghĩ điều này, có tiếng máy điện thoại di động kêu. Vigor quay lại rồi lôi máy của ông ra khỏi cái ba lô. Ông nhìn vào người gọi trên màn hình hơi chau mày. "Đây là mã vùng của Washington DC."  Vigor nói.

"Chắc là Giám đốc Crowe?" Gray cảnh báo. "Đừng nói điều gì cả. Hãy gọi càng ngắn càng tốt, đừng để lộ dấu vết gì. Thực ra, chúng ta cần vứt ngay pin đi để sau đó không lần ra đầu mối được nữa."

Vigor tròn mắt trước sự cảnh giác của anh chàng, đôi lông mày ông càng nhíu lại. "Ai nói vậy?" Ông hỏi với sự căng thẳng. Bất cứ điều gì ông nghe được hình như đều làm ông ngỡ ngàng. Ông quay lại rồi chìa máy điện thoại cho Gray.

"Có phải là Giám đốc Crowe không?" Anh khẽ hỏi.

Vigor lắc đầu. "Tốt nhất là anh nên nhận."

Gray cầm lấy máy rồi áp vào tai. "Xin chào?"

Giọng bên kia đầu dây lập tức có thể nhận được ra ngay, với ngữ điệu Ai Cập rất rõ. Giọng nói của Nasser vang lên khô khốc.< 7f /p>

"Tao đã túm được bố mẹ mày rồi."

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/86791


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận