Mưa Ở Kiếp Sau Truyện ngắn 7


Truyện ngắn 7
Mưa gió ngập trời

Dì Lan cần nhờ con làm một việc. Dì biết là con đã đến nhà cha, cha đã nhận và lo lắng cho con chu đáo, dì mới dám nhờ đến việc này. Trước khi làm việc dì nhờ, con phải hiểu tại sao dì nhờ con. Dì phải viết cho con một bức thư dài. Câu chuyện bắt đầu từ trước khi con sinh ra.

 

 Nhiều đêm dì thức giấc trong gian phòng ở phía trái sát với gian chính, không thấy chị Liên nằm bên cạnh. Một lúc sau chị sẽ về, len lén trèo lên giường nằm không tiếng động, dì chỉ nghe tiếng chị thở nhanh. Tiếng thở của chị dần trở nên đều và nhẹ. Chị Liên cựa mình êm ái và buồn ngủ như một con mèo vừa đi chơi đêm về, vừa nhảy xuống từ những tán cây ẩm ướt và tối đen như mực bên ngoài. Lúc đó sẽ quá nửa đêm một chút, có thể đã hai giờ sáng. Nằm cạnh chị dì nghe lẫn trong mùi cỏ, mùi lá sen, mùi sương, có những mùi ngai ngái lạ dì không biết. Nếu dì hỏi chị đi đâu về, chị  sẽ vội một tay bụm miệng dì một tay che mắt dì bảo ngủ lại đi đừng hỏi.

Một hôm nào đó chị thôi không lẻn đi ra ngoài ban đêm nữa. Nếu dì thức giấc nửa đêm, sẽ thấy chị nằm im mở mắt. Dường như chị không bao giờ buồn ngủ nữa, lúc nào cũng thức. Dì biết chị sẽ không bụm miệng dì nữa nếu dì có hỏi, nhưng dì không biết hỏi gì bây giờ. Dì thấy chị Liên đang ở một nơi nào rất xa.

 

 

 

 Đã bao giờ con nghe tiếng vỡ của một chiếc bình sứ quí chưa?

Nhà cha mẹ dì ngày xưa có một chiếc độc bình Khang Hy, để lại từ thời các cụ tổ làm quan trong triều Nguyễn. Chiếc bình được đặt trên một cái đôn cao bằng gỗ cẩm lai chạm hoa sen, phía trước bàn thờ. Đêm đó dì thức giấc, quay sang bên cạnh không thấy chị Liên. Đêm không có trăng, tối lắm. Chỉ có ngọn đèn dầu nhỏ thường lúc nào cũng cháy trên bàn thờ hắt chút ánh sáng mỏng manh qua những khe hở của bức tường gỗ giữa gian chính và gian phụ.

Chợt dì nghe tiếng người từ gian bên phải, tiếng la của cha, tiếng khóc, tiếng thét của mẹ, của chị. Dì nghe tiếng chân người chạy băng qua gian chính qua phía này, tiếng bàn ghế bị xô đụng và cuối cùng tiếng bình sứ lớn rơi xuống vỡ tan trên nền gạch. Sau đó là một sự yên lặng ghê gớm. Dù có tiếng người thở, tiếng khóc, tiếng nấc, vẫn là sự yên lặng, vì không có âm thanh nào còn ý nghĩa gì sau tiếng vỡ của chiếc bình ấy.

Trước tiếng vỡ đó, trong căn nhà này có một gia đình, một lịch sử. Sau tiếng vỡ đó, không còn gì, không còn ai. Không còn ông, bà, cha hay mẹ, không còn tổ tiên, chị em, không còn tuổi thơ, trời mưa, bánh Tết, chuyện đời xưa, trăng rằm, lá sen… Tất cả đã vỡ cùng với chiếc bình, những mảnh vỡ hai mươi hai năm rồi chưa có ai cúi nhặt lên và sắp lại cạnh nhau. Chị Liên thất thân với một người từ miền Bắc. Chị Liên đã làm ô nhục gia phong. Đó không phải là vụ chửa hoang đầu tiên trong họ, hay trong làng. Nhưng nó là nhát dao làm chảy cạn bụm máu cuối cùng của một dòng họ quan xưa ở Huế. Đó là những người suốt nhiều năm vẫn chờ vua trở lại. Nếu không sống bằng giấc mộng đó, họ sống bằng niềm hãnh diện lặng lẽ và khắc nghiệt của những kẻ nghĩ mình cao quí nhưng thất thế. Danh dự của họ càng mơ hồ thì nó càng mạnh mẽ và cay đắng. Trong chừng một tháng sau ngày ấy, nửa đêm ông nội của chị Liên và của dì bị đau thắt ở tim. Cha gọi xe đưa ông đi cấp cứu nhưng không kịp nữa. Dì không biết ông chết thế nào, nhưng cả xóm thì biết. Họ nói ông hộc ra một bụm máu đen, đen như thứ mực ngày xưa ông mài ra để viết chữ Nho. Bà nội sống thêm được ba năm, ba năm không nói năng. Bà không nói vì buồn, vì giận. Sau đó, không biết từ lúc nào, bà không nói vì bà đã quên mất tiếng người. Không còn buồn giận, trí nhớ cũng không còn.

Hai người con trai của cha, hai anh của chị Liên và của dì, đi làm ăn phương xa đã mười một năm. Đứa em gái lớn ở lại nhà giữ hương lửa bàn thờ tổ tiên đã để cho một người đàn ông làm nhục rồi ruồng bỏ, khiến ông nội uất mà chết. Vết thương đó chạy suốt chiều dài của xương sống, chạm đến tất cả các đầu dây thần kinh ngăn ngắt của một họ tộc đang đắm tàu giữa biển.

Một ngày nào đó dù con sẽ tha thứ cho ông ngoại con hay không, khi nghĩ tới ông như một người tàn ác, cùng lúc đó cũng hãy nghĩ rằng ông là một người thất bại quá lâu. Dì không biết con tha thứ cho ông thì dễ sống hơn hay là không tha thứ thì dễ sống hơn. Mọi thứ đã quá muộn màng và buồn bã.

Tháng tư cha mẹ sắp xếp để đưa chị Liên về nhà một người bà con xa của bà ngoại ở vùng trước đây là vùng kinh tế mới, nơi ai cũng là người tha hương, ít ai biết ai, càng không biết tới những thứ như dòng họ và danh giá. Dì xin tiền bà ngoại mua được mấy tấm vải thô gửi ở nhà một chị bạn của chị Liên; chiều tan học dì tới đó, bạn chị Liên chỉ cho dì may tã và áo cánh cho em bé để chị Liên mang theo lên vùng xa. May tã cũng phải giấu cha.

Hôm dì may xong, cuộn những cái tã và những chiếc áo nhỏ xíu vào giữa ba chiếc khăn lông, bó lại xong, dì về nhà thì chị Liên đã bỏ đi. Dì vừa chạy vừa hỏi kiếm khắp các bến xe, bảy giờ hai mươi tối ra đến được sân ga của chuyến xe Bắc Nam đi Hà Nội, dì chỉ còn kịp thấy chị Liên thấp thoáng giữa đám người chen nhau lên xuống xe. Chỉ đủ để sau này dì nhớ lại chị bới tóc gọn gàng nhưng gương mặt tái ngắt và đôi mắt ướt nước, không biết nước mắt tràn vì buồn tủi hay vì bụi và khói. Chị lên xe rồi hai mươi phút sau xe mới đi, nhưng trong hai mươi phút đó, dì chỉ biết khóc. Dì đi dọc theo các cửa sổ, kêu mãi không thấy chị Liên đâu nữa. Dì không dám bước lên xe, sợ nó có thể chạy bất cứ lúc nào không kịp chen xuống.

Tháng sáu dì trốn cha ra Hà Nội nuôi chị Liên sinh nở. May mà chị sinh vào dịp nghỉ hè, nên dì mới đi được. Mẹ dì vừa muốn đi, vừa không dám trái ý cha. Vừa không muốn cho con gái mười lăm tuổi đi xa một mình, vừa không đành để bỏ chị Liên bơ vơ vượt cạn lần đầu nơi thành phố lạ. Những tờ tiền giấy bà dấm dúi cho dì, tờ nào cũng âm ẩm vì mẹ gói trong chiếc khăn thấm nước mắt. Tiền đó để riêng mua vé tàu đi về rồi, cũng chẳng còn bao nhiêu.

Chị Liên ra Hà Nội để tìm cha con. Chị tìm được, nhưng cha con không muốn gặp chị nữa. Anh đưa tiền cho mấy căn hộ trong một căn biệt thự đã trở thành nhà tập thể ở phố Đội Cấn, để người ta cho phép chị kê một chiếc giường cuối hành lang trên lầu hai. Anh đưa chị ít tiền làm vốn bán rau. Đổi lại, chị Liên đã ký một tờ giấy nợ hay cam kết gì đó do cha con soạn dì không rõ. Sau ngày ký tờ giấy đó chị không bao giờ gặp anh ấy nữa, cũng không cho dì đi gặp. Nơi ở của cha con dì tìm được nhờ hỏi những người trong căn hộ mà cha con đã đưa tiền mua một góc hành lang. Sau này chị Liên xây thêm hai bức vách che cái góc ấy lại, nó mới trở thành căn hộ mẹ con con  ở bây giờ.

Giữa tháng sáu chị Liên sinh con.

 

 

Phía dưới còn một phần ba trang giấy trắng, nhưng dì Lan không viết gì vào đó nữa. Tôi đọc qua tờ kế. Dì Lan viết tiếp, bằng một cây bút khác, với màu mực nhạt hơn.

 

Một tuần rồi mà dì viết không xong một bức thư viết đã gần xong. Không dễ gì mà người ta kể một câu chuyện không kể đã hai mươi hai năm.

Chị Liên sinh đôi. Con ra trước, mẹ đặt tên Mai. Em con cũng con gái, tên Chi. Hai đứa chỉ trên hai ký một chút, nhưng đều khỏe mạnh.

Chị Liên không đủ sữa, mấy đứa khóc mãi vì bú không no. Dì phụ mẹ đi chợ, nhưng hai chị em vẫn không có tiền để mua thêm sữa bột. Đến hết tháng tám, dì phải về Huế tựu trường. Dì không biết làm sao đi cho đành. Để lại ba mẹ con không có ai phụ giúp, chắc sẽ chết hết cả ba. Ai cũng gầy guộc thiếu ăn, tay chân khẳng khiu, hai con mắt mở to nhưng thiếu ánh sáng. Dì nghĩ đã khổ còn sinh đôi làm chi làm sao nuôi con nổi.

Một ngày chị Liên đi chợ chưa về, hai đứa đang ngủ. Dì hỏi nhà cha con. Dì quấn bé Chi trong mấy lần tã. Dì ôm bé đến trao cho anh ấy nuôi một đứa, không thì chết cả. Dì gọi cổng căn biệt thự ở phố Tuệ Tĩnh. May mà anh ấy ra mở cổng. Dì bước vào sân, trao cái bọc có bé Chi cho anh ấy, nói chị Liên sinh hai đứa, anh là cha, em mang cho anh nuôi một đứa. Rồi dì quay ra. Dì nhớ trời hôm ấy mưa gió ngập trời, tiếng gió át cả tiếng khóc của con bé con. Đó là điều duy nhất mà dì nhớ. Ngoài ra dì không nhớ gì cả, không nhớ dì đã nói gì, anh ấy đã nói gì, chắc tại mưa gió phũ phàng.

Về đến nhà chị Liên hỏi bé Chi đâu. Dì nói dì mang bé đi giao cho cha nó nuôi bớt một đứa rồi. Chị Liên hỏi sao con tao mi ẵm đi mà không hỏi. Dì nói hôm qua hai chị em có bàn chuyện đó, chị đã đồng ý rồi. Chị nói mi nói láo. Chị chạy tới đánh dì. Dì ngồi thụp xuống đất ôm đầu. Rồi chị ấy bò ở sàn nhà khóc.

Mấy ngày sau chị dịu lại, bắt dì kể thật rõ từ việc nhỏ nhất. Mi mặc cho bé cái áo nào, quấn tã có cài kim hay không, tóc bé chải rẽ ngôi bên trái hay bên phải. Cứ như vậy chị muốn biết từng bước dì đã bước đi đến căn nhà ở Tuệ Tĩnh. Đến đoạn dì bước vào sân nhà, cái sân có cây gì, dì nói gì, cha con nói gì thì dì không nhớ. Chị Liên  hỏi sao không nhớ. Dì nói trời bỗng dưng vừa mưa vừa gió mịt mùng, át hết tiếng người. Chị gắt lên, từ đầu tháng đến giờ có ngày nào mưa đâu. Vậy là hai chị em cãi nhau, một người nói hôm ấy mưa to một người nói không có mưa. Chỉ có vậy mà hai người vừa cãi vừa khóc đến khuya.

Nhưng sau hôm đó thì chị Liên không khóc, cũng không nói một câu nào nữa. Chị Liên cứ im như thế cho đến lúc dì đi, và im suốt hai mươi hai năm sau đó. Ngày dì đi, chị ấy chỉ nói có một câu, rằng chị không còn muốn gặp dì. Tao với mi không nên chị em chi nữa. Dì lủi thủi về đến Huế, cha cũng giận không nói năng. Chị Liên gửi cho dì một phong thư, cũng qua địa chỉ nhà chị  bạn mà dì đã sang may tã nhờ cho các cháu. Dì mở phong thư ra, chỉ có mấy chữ: "Tao đi hỏi ở phố Tuệ Tĩnh người ta nói hôm đó có một người mẹ trẻ, quá trẻ, chỉ là một đứa con gái  khoảng mười bốn, mười lăm tuổi, đem cái bọc gói con mình đi bỏ bên vệ đường. Người ta mở bọc ra, thấy xác của một bé gái sơ sinh chừng hai tháng tuổi".

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/86801


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận