Tài liệu: Đất nước bước đầu đi lên chủ nghĩa xã hội (1976-1986)

Tài liệu

Tóm tắt nội dung

Ngay trong tháng 9-1975, bốn tháng sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, khi nhân dân trên cả hai miền đất nước đang tập trung sức khắc phục hậu quả của chiến tranh
Đất nước bước đầu đi lên chủ nghĩa xã hội (1976-1986)

Nội dung

Đất nước bước đầu đi lên chủ nghĩa xã hội (1976-1986)

Ngay trong tháng 9-1975, bốn tháng sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, khi nhân dân trên cả hai miền đất nước đang tập trung sức khắc phục hậu quả của chiến tranh, ổn định tình hình miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, Đảng họp Hội nghị toàn thể Ban chấp hành Trung ương lần thứ 24 để quyết định những nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới, nhằm đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Hội nghị của Đảng nêu rõ: “Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”[1].

Cả nước có chung nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhưng như Hội nghị của Đảng đã nêu rõ, trong thời kì đầu, do có những nét đặc trưng riêng, mà cách mạng mỗi miền có những yêu cầu khác nhau. Cụ thể là: “Miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội”[2].

Điểm nhấn mạnh trong việc vận dụng đường lối chung của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đối với miền Bắc “trong giai đoạn mới phải có những cố gắng rất lớn để khắc phục mọi khó khăn, đồng thời tiếp tục phát huy tác dụng tích cực của miền Bắc đối với sự nghiệp phát triển cách mạng cả nước”, đối với miền Nam là “kết hợp chặt chẽ cải tạo và xây dựng trong cả quá trình cách mạng và trên các mặt: chính trị, kinh tế, kĩ thuật, văn hóa, tư tưởng trong phạm vi toàn xã hội và từng đơn vị”[3], và “trong một thời gian nhất định ở miền Nam còn nhiều thành phần kinh tế”.

Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong bước đầu của thời kì quá độ được Đảng đề ra chính thức từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV năm 1976 và được bổ sung, sửa đổi và phát triển tại các Đại hội đại biểu toàn quốc về sau của Đảng.

1. 1976-1980

a) Đại hội lần thứ IV - Đại hội mở đầu thời kì cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 14 đến 20-12-1976.

Đại hội nêu sự tất yếu và tầm quan trọng của việc đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội: “Ngày nay, Tổ quốc ta đã hoàn toàn độc lập thì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một”, vì “Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thực hiện được ước mơ lâu đời của nhân dân lao động và vĩnh viễn thoát khỏi cảnh bị áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, để sống một cuộc đời no cơm, ấm áo, ngày mai được bảo đảm một cuộc đời văn minh, hạnh phúc... Có chủ nghĩa xã hội, Tổ quốc ta mới có kinh tế hiện đại, văn hóa, khoa học tiên tiến, quốc phòng vững mạnh do đó bảo đảm cho đất nước ta vĩnh viễn độc lập, tự do và ngày càng phát triển phồn vinh”[4].

Đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kì quá độ được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đề ra dựa trên cơ sở kinh nghiệm của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc (1954-1975), đồng thời xuất phát từ đặc điểm tình hình đất nước và thế giới trong giai đoạn cách mạng mới.

Ba đặc điểm lớn của tình hình nước ta được Đại hội phân tích và nhận thức ngày càng sâu sắc:

Đặc điểm thứ nhất - “Nước ta vẫn ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”[5]. Đây là đặc điểm lớn nhất, nói lên thực chất của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và quy định nội dung chủ yếu của quá trình đó.

Đặc điểm thứ hai - Đất nước có nhiều thuận lợi là cả nước hòa bình, độc lập, thống nhất; nhân dân ta giàu lòng yêu nước, lao động cần cù, sáng tạo, tự lực tự cường; có Đảng kiên cường lãnh đạo; có Nhà nước vững mạnh đã qua thử thách; chúng ta lại có lực lượng lao động dồi dào và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi chúng ta cũng còn nhiều khó khăn, trong đó khó khăn lớn nhất là nền kinh tế vốn lạc hậu lại bị 30 năm chiến tranh tàn phá đã để lại bao hậu quả nặng nề; cơ cấu kinh tế ở hai miền có những mặt chưa đồng nhất đáng kể; âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch mới...

Đặc điểm thứ ba nêu rõ bối cảnh quốc tế của cách mạng nước ta là: “Trên thế giới cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa một bên là chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình với một bên là chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, hiếu chiến đang diễn ra quyết liệt và phức tạp”. Nhưng mặt khác, “trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng mới về khoa học kĩ thuật. Quan hệ về kinh tế và khoa học - kĩ thuật giữa các nước ngày càng mở rộng”.

Những đặc điểm trên, nhất là đặc điểm nước ta “từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”, đã quy định cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình biến đổi cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để, đồng thời cũng quy định tính chất lâu dài, khó khăn và phức tạp trong quá trình đó.

Quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là quá trình kết hợp giữa cải tạo và xây dựng (trong đó xây dựng là chủ yếu), là quá trình vừa xóa bỏ cái cũ, vừa xây dựng cái mới. Trong quá trình đó, cách mạng xã hội chủ nghĩa phải tạo ra cả lực lượng sản xuất mới, cả cơ sở kinh tế mới lẫn kiến trúc thượng tầng mới, cả đời sống vật chất mới lẫn đời sống tinh thần và văn hóa mới. Đồng thời, cách mạng nước ta vẫn còn phải tiếp tục cuộc đấu tranh chống mọi âm mưu và hành động phá hoại, lật đổ, thôn tính của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế, nhằm bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và góp phần bảo vệ hòa bình thế giới.

Xuất phát từ những đặc điểm đó của tình hình đất nước, Đại hội vạch ra đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn mới là “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kĩ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu, không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”[6].

Đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn mới là “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học, kĩ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc”[7].

Vận dụng đường lối chung và đường lối xây dựng kinh tế của Đảng trong tình hình cụ thể, Đại hội quyết định phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch nhà nước 5 năm (1976-1980).

Đại hội đã bầu Ban chấp hành Trung ương Đảng - gồm 101 ủy viên chính thức và 32 ủy viên dự khuyết; bầu Bộ Chính trị - gồm 14 ủy viên chính thức, 3 ủy viên dự khuyết. Lê Duẩn được bầu làm Tổng bí thư của Đảng, Đại hội lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, đại hội thống nhất Tổ quốc, đại hội đưa cả nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.

b) Thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội của kế hoạch 5 năm (1976-1980).

Kế hoạch 5 năm 1976-1980 đã đề ra nhiệm vụ “phát triển và cải tạo kinh tế, văn hóa, phát triển khoa học, kĩ thuật” nhằm xây dựng một bước cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp, cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động.

Hướng vào hai mục tiêu cơ bản đó, Đảng ta đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể thực hiện trong 5 năm, trong đó nhiệm vụ hàng đầu là “Tập trung cao độ sức của cả nước, của các ngành, các cấp, tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp; ra sức đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm (bao gồm cả thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp) nhằm giải quyết vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và một phần quan trọng hàng tiêu dùng thông dụng; cải tiến một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, tạo tích lũy cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa”.

Đây là kế hoạch mở đầu thời kì cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Kế hoạch này có vị trí hết sức quan trọng, vì “nó vừa giải quyết những hậu quả nặng nề của ba mươi năm chiến tranh và của chủ nghĩa thực dân mới, vừa phải tổ chức lại nên kinh tế vốn nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng một bước nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong cả nước, đặt nền móng cho sự nghiệp công nghiệp hóa nước nhà”.

Kế hoạch 5 năm (1976-1980) được thực hiện trong hoàn cảnh nước ta còn nhiều khó khăn: nhân dân ta vừa trải qua cuộc chiến tranh chống Mĩ hai chục năm, nay lại tiếp tục đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược lấn chiếm ở biên giới Tây - Nam và phía bắc Tổ quốc, chưa kể những hoạt động khống chế, phá hoại của các lực lượng thù địch cùng chính sách “cấm vận” của Mĩ làm cản trở quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước; thiên tai lớn liên tiếp xảy ra trong các năm 1977-1978 cũng đã gây cho ta nhiều thiệt hại và khó khăn chồng chất.

Vượt qua khó khăn, nhân dân ta quyết tâm thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch 5 năm ( 1976-1980) và đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực khôi phục và phát triển kinh tế, cải tạo quan hệ sản xuất, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế.

+ ) Khôi phục và phát triển kinh tế

Sau 5 năm phấn đấu gian khổ, chúng ta đã khắc phục được những hậu quả nặng nề do chiến tranh xâm lược và thiên tai bão lụt, úng hạn gây ra. Các cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải bị địch bắn phá, về cơ bản đã được phục hồi và bước đầu phát triển.

Lao động xã hội giữa các vùng bước đầu được phân bố lại, thu hút hàng triệu lao động ở các vùng đông dân (chủ yếu là dân cư ở các thành thị miền Nam và ở vùng đồng bằng Bắc Bộ) đi xây dựng các vùng kinh tế mới, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên.

Trong công nghiệp, có nhiều nhà máy được gấp rút xây dựng, như nhà máy xi măng, điện, cơ khí động lực, đường, giấy, kéo sợi... Công nghiệp được bổ sung thêm 10 vạn kilôoat điện, 2 triệu tấn than, 50 vạn tấn xi măng. Ngành giao thông vận tải được khôi phục và xây dựng với 1.700 kilômet đường sắt, 3.800 kilômet đường bộ, 30.000 mét cầu, 4.000 mét bến cảng, bổ sung thêm nhiều phương tiện vận tải. Tuyến đường sắt thống nhất từ Hà Nội đi Thành phố Hồ Chí Minh, sau 80 năm bị gián đoạn, đã hoạt động trở lại.

Trong nông nghiệp, nhờ đẩy mạnh nhiều biện pháp khai hoang, thâm canh, tăng vụ mà diện tích gieo trồng tăng thêm gần 2 triệu hecta. Nông nghiệp được trang bị thêm 18 nghìn máy kéo các loại, đưa tỉ lệ cơ giới hóa làm đất lên 25% diện tích gieo trồng. Diện tích trồng rừng đạt 580 nghìn hecta.

+ Cải tạo quan hệ sản xuất

Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa cũng được đẩy mạnh trong các vùng mới giải phóng ở miền Nam.

Tiếp sau cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ bộ phận tư sản mại bản ở miền Nam, được triển khai từ cuối năm 1975 đến giữa năm 1976, là công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, và từ đầu năm 1978 tiến hành cùng một lúc trên quy mô toàn miền, theo phương châm cải tạo kết hợp với xây dựng và tổ chức lại sản xuất. Kết quả là đến giữa năm 1979, chúng ta đã căn bản hoàn thành việc chuyển các cơ sở tư bản tư doanh trong các ngành công nghiệp, thương nghiệp, vận tải, xây dựng và dịch vụ quan trọng thành các xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh, đồng thời sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở đó theo quy hoạch từng ngành.

Trong ngành công nghiệp, chúng ta đã chuyển quyền sở hữu của 1.500 xí nghiệp tư bản loại lớn và vừa, rồi sắp xếp lại thành 650 xí nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh, chiếm 70% tổng giá trị sản lượng công nghiệp ở miền Nam. Ngành thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng được sắp xếp và tổ chức lại.

Đại bộ phận nông dân miền Nam đi vào con đường làm ăn tập thể, tham gia vào các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, như tổ đoàn kết sản xuất, tập đoàn sản xuất, hợp tác xã sản xuất... Tính đến cuối năm 1979, trên toàn miền Nam đã xây dựng được hơn 600 hợp tác xã sản xuất, 9.000 tập đoàn sản xuất và hàng nghìn tổ đoàn kết sản xuất,

+ Văn hóa, giáo dục, y tế

Ngành giáo dục mẫu giáo, giáo dục phổ thông, đại học và trung học chuyên nghiệp phát triển mạnh. Chỉ tính riêng trong năm học cuối cùng (1979-1980) của kế hoạch 5 năm, cả nước đã có gần 1,5 triệu học sinh mẫu giáo, 11,7 triệu học sinh phổ thông các cấp, trên 13 vạn học sinh trung học chuyên nghiệp, 15 vạn sinh viên đại học. Như vậy, số người đi học thuộc các đối tượng trong cả nước vào năm học 1979-1980 là 15 triệu, bằng 1/3 số dân, tăng hơn năm học 1976-1977 là 2 triệu. Đặc biệt trong những vùng mới giải phóng ở miền Nam, phong trào bình dân học vụ đã thu hút được nhiều người tham gia.

Mạng lưới các bệnh viện, phòng khám bệnh, trạm y tế, nhà hộ sinh, cơ sở điều dưỡng được mở rộng; các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao thể dục có nhiều tiến bộ, gây thành phong trào quần chúng trong các địa phương, xí nghiệp, trường học. Hoạt động thuộc các ngành văn học, nghệ thuật, khoa học xã hội, báo chí, thông tin, xuất bản đã phản ánh kịp thời nhiệm vụ chính trị, làm rõ quan điểm, đường lối của Đảng.

Những thành tựu và tiến bộ trong việc thực hiện kế hoạch 5 năm 1976-1980 là to lớn. Nhờ đó mà cách mạng nước ta vượt qua được những khó khăn chồng chất, “phát triển lên một thế chiến lược mới, vững chắc hơn so với trước đây, tạo ra khả năng to lớn hơn để bảo vệ Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”[8].

Trên cơ sở những thắng lợi đó, ngày 18-12-1980, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp mới gồm có Lời nói đầu, 12 chương và 147 điều. Hiến pháp này tổng kết và xác định những thành quả đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam trong nửa thế kỉ qua, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, bảo đảm bước phát triển rực rỡ của xã hội trong thời gian tới.

Bên cạnh những thành tựu và tiến bộ, chúng ta còn gặp không ít khó khăn và hạn chế. Trên mặt trận kinh tế, đất nước ta đang đứng trước những vấn đề gay gắt: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể trong sản xuất luôn bị thua lỗ, không phát huy được tác dụng, kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể bị ngăn cấm, không thể phát triển lên được. Tình trạng mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân vẫn chưa được thu hẹp. Thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Nền kinh tế chưa tạo được tích lũy. Lương thực, vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu khác đều thiếu. Tình hình cung ứng năng lượng, vật tư và tình hình giao thông vận tải rất căng thẳng, Nhiều xí nghiệp còn sử dụng công suất ở mức thấp. Chênh lệch giữa thu và chi về tài chính, giữa xuất và nhập còn lớn. Thị trường và vật giá không ổn định. Số người lao động chưa được sử dụng còn đông. Đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn, nhất là đời sống công nhân, viên chức và nông dân ở những vùng bị thiên tai địch họa. Trong đời sống kinh tế, văn hóa, trong nếp sống an toàn xã hội có những biểu hiện tiêu cực kéo dài.

Nguyên nhân của thực trạng kinh tế - xã hội đó, bên cạnh những yếu tố khách quan, còn do “khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ Trung ương đến cơ sở về lãnh đạo và quản lí kinh tế, quản lí xã hội”, đó là “Trong 5 năm 1976 - 1980, trên thực tế đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ tiền đề cần thiết; vừa nóng vội, vừa buông lỏng trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa; chậm đồi mới cơ chế quản lí kinh tế không còn phù hợp”.

2. 1981-1985

a) Đại hội lần thứ V - Đại hội tiếp tục đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 27 đến 31-3-1982.

Đại hội V được tiến hành trong hoàn cảnh đất nước đã qua hơn 5 năm thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa với những kết quả đạt được trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:

- Nhanh chóng thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, thiết lập hệ thống chuyên chính vô sản trong cả nước và thực hiện nhiều chính sách thúc đẩy quá trình thống nhất mọi mặt của đất nước.

- Sớm ổn định tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, bước đầu khắc phục hậu quả chiến tranh và hậu quả của chủ nghĩa thực dân mới Mĩ; đạt được những thành tựu đáng kể trong sản xuất, chiến đấu, trong cải tạo quan hệ sản xuất, bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục.

- Thắng lợi giành được trong chiến đấu bảo vệ biên giới Tây - Nam và biên giới phía bắc Tổ quốc đã làm thất bại bước đầu âm mưu và hành động của những thế lực thù địch mới đối với cách mạng nước ta, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với Lào và Campuchia.

- Cùng với thắng lợi trong chiến đấu giữ nước, và gắn với thắng lợi đó, là việc nước ta gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế; kí với Liên Xô, Lào, Campuchia và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác nhiều hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác, nhiều hiệp định, hiệp nghị kinh tế, văn hóa... nhằm tăng cường và mở rộng quan hệ với các nước.

Đó là những sự kiện có ý nghĩa to lớn mở đầu thời kì mới. Nhưng, như Đại hội của Đàng đã chỉ rõ, ý nghĩa to lớn “không chỉ xét trên tầm vóc các sự kiện lịch sử” mà “còn ở những kinh nghiệm rất bổ ích... tích lũy được”[9]. Đó là “Đảng thấy rõ hơn ưu điểm và khuyết điểm, nhược điểm của mình, nắm đường lối chắc hơn, nắm thực tế cụ thể hơn”. “Về phòng thủ đất nước, chúng ta có lực lượng lớn mạnh, có thể bố phòng vững chắc hơn và có nhiều kinh nghiệm hơn. Vế quản lí kinh tế, đã bắt đầu có những chuyển biến theo hướng đúng, khí thế mới và nhân tố mới đang từng bước đẩy lùi các biểu hiện tiêu cực trong sản xuất”[10].

Tuy nhiên, trong thời kì tiếp theo này (1981-1985), cách mạng nước ta vẫn chưa giảm bớt được khó khăn. Ngoài những khó khăn bắt nguồn từ nền sản xuất nhỏ, kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc và khó khăn do hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh chống Pháp, chống Mĩ, chiến tranh biên giới Tây - Nam và phía bắc, hậu quả của chế độ thực dân phong kiến chưa giải quyết xong lại nảy sinh thêm những khó khăn mới:

- Kinh tế - xã hội nước ta đang đặt ra những vấn đề gay gắt đòi hỏi giải quyết: đời sống nhân dân (nhất là những người ăn lương) gặp nhiều khó khăn, nguồn cung ứng năng lượng và nguyên liệu, lực lượng giao thông vận tải không bào đảm phát huy các năng lực sản xuất sẵn có, xuất khẩu không bù đắp được nhập khẩu, thị trường giá cả diễn biến phức tạp, cơ chế quản lí và kế hoạch hóa mang nặng tính chất quan liêu bao cấp, hiện tượng tiêu cực trong đời sống kinh tế và xã hội kéo dài, chính sách cấm vận của Mĩ cùng với những hoạt động khống chế phá hoại của các lực lượng thù địch cũng đã làm tăng thêm khó khăn cho nền kinh tế của ta.

- Nước ta đang ở trong tình thế vừa hòa bình để xây dựng, vừa có nguy cơ xảy ra chiến tranh, và trong thực tế đang phải đương đầu với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các lực lượng thù địch chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên thế giới và trong khu vực. Tình hình đó đặt ra yêu cầu đấu tranh chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt; đồng thời phải củng cố quốc phòng và an ninh, chuẩn bị sẵn sàng đối phó khi xảy ra cuộc chiến tranh xâm lược lớn từ bên ngoài.

- Quan hệ giữa nước ta với nhiều nước trong khối ASEAN và một số nước trên thế giới sau “Sự kiện Campuchia” có những vướng mắc làm ảnh hưởng đến quá trình cách mạng nước ta.

Trong Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã nêu rõ: “chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh quốc tế đang diễn biến phức tạp, trong tình hình đất nước đang có nhiều khó khăn nghiêm trọng ... Phải thấy rằng xây dựng chủ nghĩa xã hội về nhiều phương diện là một công việc mới mẻ, chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Chúng ta không chút nào coi nhẹ khuyết điểm, sai lầm của mình song có những khuyết điểm, sai lầm muốn khắc phục được phải có thời gian”[11].

Xuất phát từ đặc điểm tình hình nêu trên, Đại hội của Đảng đi đến quyết định: “Trong giai đoạn mới của cách mạng, toàn dân toàn quân ta... đoàn kết một lòng, ra sức phấn đấu làm hai nhiệm vụ chiến lược: một là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; hai là sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc. Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Hai nhiệm vụ chiến lược đó quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng “trong khi không một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, chủ nghĩa xã hội không những là mục đích của toàn bộ sự nghiệp của chúng ta, mà còn vì chủ nghĩa xã hội, sự vững mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa là bảo đảm cho độc lập và tự do của Tổ quốc”.

Đại hội V khẳng định tiếp tục đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa trong thời kì quá độ do Đại hội IV đề ra. Tuy nhiên, đến Đại hội V, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì quá độ của Đảng bắt đầu có sự điều chỉnh, bổ sung, phát triển, cụ thể hóa cho từng chặng đường, từng giai đoạn phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể.

Đại hội xác định thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải trải qua nhiều chặng. Chặng đường trước mắt (chặng đường đầu) gồm 5 năm đầu (1981 - 1985) và những năm còn lại của thập niên 80. Trong chặng đường đầu, gồm 10 năm (1981 - 1990), cách mạng thực hiện những nhiệm vụ tổng quát: “Tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa, tăng cường hơn nữa sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân, giảm bớt và khắc phục khó khăn, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, chặn đứng và loại trừ các biểu hiện tiêu cực, đạt những tiến bộ quan trọng trong mọi lĩnh vực, tạo ra thế cân đối mới của nền kinh tế, đồng thời chuẩn bị cho những bước tiến vững chắc và mạnh mẽ hơn trong chặng đường tiếp theo.

Riêng về kinh tế - xã hội, Đại hội đã xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu tổng quát là:

- Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định, tiến tới cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, trước hết giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, thực phẩm; đáp ứng tốt những nhu cầu về mặc, về học hành, chữa bệnh, về nhà ở, đi lại, về chăm sóc trẻ em và các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu khác.

- Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đồng thời tăng thêm trang bị kĩ thuật cho các ngành kinh tế khác và chuẩn bị cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của công nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo.

- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam, tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước.

- Đáp ứng các nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh, trật tự.[12]

Thực hiện bốn mục tiêu tổng quát nói trên đòi hỏi có bước chuyển biến cơ bản về thực trạng kinh tế, bảo đảm thu nhập quốc dân từ chỗ thiếu tiến tới đủ tiêu dùng xã hội và có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Bảo đảm tổng sản phẩm xã hội không ngừng tăng lên và giảm đáng kể tình trạng mất cân đối nặng nề của nền kinh tế quốc dân.

Muốn vậy, phải thực hiện đồng bộ nhiều chủ trương, biện pháp kinh tế - xã hội, nhằm kết hợp đúng đắn công nghiệp và nông nghiệp; kết hợp đúng đắn xây dựng kinh tế trung ương với phát triển mạnh kinh tế địa phương; bảo đảm sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế; kết hợp phát triển kinh tế trong nước với mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, mở rộng phân công lao động, phân bố lại và sử dụng tốt lao động cả nước để tăng năng suất lao động; đẩy mạnh công tác khoa học - kĩ thuật; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tích, lũy và tiêu dùng; thiết lập trật tự mới xã hội chủ nghĩa trên mặt trận phân phối lưu thông; xác lập chế độ quản lí “kế hoạch hóa” đúng đắn.

Việc xác định thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trải qua nhiều chặng đường và việc nêu nội dung của chặng đường đầu tiên là bước tiến của Đại hội V, đó là một đóng góp quan trọng về lí luận và thực tiễn của Đại hội. Những nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế - xã hội của chặng đường đầu 10 năm (1981 - 1990) cũng được Đại hội cụ thể hóa và đề ra nhiệm vụ, mục tiêu kế hoạch Nhà nước 5 năm (1981 - 1985).

Đại hội đã bầu Ban chấp hành Trung ương mới của Đảng - gồm 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng bí thư của Đảng.

b) Thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội của kế hoạch 5 năm (1981 - 1985) .

Kế hoạch này có nhiệm vụ “phát triển thêm một bước, sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân” nhằm cơ bản ổn định tình hình kinh tế và xã hội, đáp ứng những yêu cầu cấp bách và thiết yếu nhất của đời sống nhân dân, giảm nhẹ sự mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế, khắc phục một bước đáng kể tình trạng không bình thường về phân phối, lưu thông, tăng thêm tiền đề và điều kiện để tiến lên mạnh mẽ và vững chắc hơn trong những năm sau.

Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch 5 năm (1981 - 1985), nhân dân ta đã đạt được những thành tựu và tiến bộ quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

+ Trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, chúng ta đã chặn được đà giảm sút của những năm 1976 - 1980, Nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,9% so với 1,9% hàng năm của thời kì 1976 - 1980. Sản xuất lương thực từ 13,4 triệu tấn (trong thời kì 1976 - 1980), tăng lên 17 triệu tấn (trong thời kì 1981 - 1985). Sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 9,5% so với 0,6% hàng năm trong thời kì 1976 - 1980. Thu nhập quốc dân tăng bình quân 6,4% so với 0,4% trong 5 năm trước.

Nhà máy thủy điện sông Đà (Hòa Bình) (Ảnh của VNTTX)

+ Về xây dựng cơ sở vật chất – kỉ thuật, trong 5 năm chúng ta đã hoàn thành mấy trăm công trình tương đối lớn và hàng nghìn công trình vừa và nhỏ, trong đó có những cơ sở quan trọng về điện và dầu khí, xi măng, cơ khí, dệt, đường, thủy lợi, giao thông... Các hoạt động khoa học – kĩ thuật được triển khai, góp phần thúc đẩy sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp. Về năng lực sản xuất, tăng thêm 456 nghìn kilôoat điện, 2,5 triệu tấn than, 2,4 triệu tấn xi măng, 33 nghìn tấn sợi, 58 nghìn tấn giấy. Trong lĩnh vực nông nghiệp, thêm 309 nghìn hecta được tưới nước, 186 nghìn hecta được tiêu úng, 241 nghìn hecta được khai hoang đưa vào sản xuất. Dầu mỏ bắt đầu được khai thác các công trình thủy điện Hòa Bình, Trị An đang được xây dựng, chuẩn bị đưa vào hoạt động trong những năm tới.

+ Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, đại bộ phận nông dân Nam Bộ đi vào con đường làm ăn tập thể và đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã có nhiều tiến bộ trong sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới. Cùng với việc áp dụng những thành tựu về khoa học - kĩ thuật, việc thực hiện rộng rãi phương thức khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động, tuy chưa hoàn thiện và còn nhiều thiếu sót, song đã góp một phần quan trọng tạo nên bước phát triển sản xuất nông nghiệp, mở ra phương hướng đúng đắn cho việc củng cố quan hệ kinh tế mới ở nông thôn.

+ Chăm lo đời sống của nhân dân là một nhiệm vụ thường xuyên và hết sức khó khăn của Đảng và Nhà nước ta trong hoàn cảnh nền kinh tế còn yếu kém, thiên tai dồn đập, dân số tăng nhanh. Các ngành kinh tế quốc dân đã thu hút thêm 4 triệu lao động. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao, thể dục, văn hóa, nghệ thuật phát triển và có những đóng góp nhất định vào việc xây dựng nền văn hóa mới, con người mới.

+ Tổ chức cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa VII. Ngày 26-4-1981, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa VII đã diễn ra trong cả nước và bầu được 496 đại biểu. Từ ngày 25-6 đến 4-7-1981, Quốc hội khóa VII đã họp kì thứ nhất, bầu Hội đồng Nhà nước do Trường Chinh làm Chủ tịch; Nguyễn Hữu Thọ - Chủ tịch Quốc hội, Phạm Văn Đồng - Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, bầu Chánh án Tòa án tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các Phó chủ tịch là Tố Hữu, Phạm Hùng, Võ Nguyễn Giáp, Huỳnh Tấn Phát, Võ Chí Công, Đỗ Mười, Nguyễn Lam, Trần Quỳnh, đến năm 1982, được bổ sung thêm Võ Văn Kiệt, Đồng Sĩ Nguyên, Vũ Đình Liệu, Trần Phương; và năm 1987, bổ sung Nguyễn Cơ Thạch, Nguyễn Ngọc Trìu, Trần Đức Lương, Nguyễn Khánh, Đoàn Duy Thành, Nguyễn Văn Chính.

Nhà nước ta còn chăm lo bảo đảm các nhu cầu của quốc phòng và an ninh, thi hành chính sách hậu phương quân đội. Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và làm nghĩa vụ quốc tế giành thêm những thắng lợi to lớn. Chúng ta đã làm thất bại một bước chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng phản động FULRO ở vùng Tây Nguyên, bắt gọn nhiều nhóm phản động khác cùng bọn gián điệp, thám báo, đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Trên cả nước, đã xuất hiện nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh khá, nhiều đơn vị chiến đấu giỏi, nhiều huyện làm ăn tốt; một số địa phương và ngành biết cách làm ăn năng động, sáng tạo.,. Thực tiễn sinh động của các cơ sở, các địa phương, các ngành đã cung cấp kinh nghiệm quý báu cho sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta.

Khẳng định những thành tựu đạt được, đồng thời cũng thấy rõ mặt khó khăn, yếu kém, trước hết trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, cũng là những khó khăn, yếu kém của thời kì trước đó do không được hạn chế, khắc phục, thậm chí có mặt trầm trọng thêm.

- Sản xuất tuy có tăng, nhưng còn chậm so với khả năng sẵn có và công sức bỏ ra, so với yêu cầu cần nhanh chóng ổn định đời sống của nhân dân, có tích lũy để công nghiệp hóa và củng cố quốc phòng. Một số chỉ tiêu quan trọng  của kế hoạch 5 năm, như sản xuất lương thực, than, xi măng, gỗ, vải, hàng xuất khẩu..., không đạt đã ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động kinh tế và đời sống của nhân dân lao động.

- Hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp. Các xí nghiệp nói chung chỉ sử dụng được khoảng một nửa công suất thiết kế, năng suất lao động giảm, chất lượng sản phẩm sút kém.

- Tài nguyên của đất nước chưa được khai thác tốt, lại bị sử dụng lãng phí, nhất là đất nông nghiệp và tài nguyên rừng; môi trường sinh thái bị phá hoại.

- Lưu thông chưa thông suốt, phân phối rối ren, vật giá tăng nhanh, gây tác động tiêu cực đến sản xuất, đời sống và xã hội.

- Những mất cân đối lớn trong nền kinh tế giữa cung và cầu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, năng lượng, nguyên liệu, vận tải,.., giữa thu và chi, xuất khẩu và nhập khẩu... chậm được giảm nhẹ, có mặt lại gay gắt hơn trước.

- Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố. Vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh suy yếu. Các thành phần kinh tế khác chưa được sử dụng và cải tạo tốt.

- Đời sống của nhân dân, nhất là công nhân viên chức, còn nhiều khó khăn. Nhiều người lao động chưa có hoặc chưa đủ việc làm. Nhiều nhu cầu chính đáng tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất và văn hóa chưa được bảo đảm. Nông thôn thiếu hàng tiêu dùng thông thường và thuốc men; nhà ở, điều kiện vệ sinh, sinh hoạt văn hóa ở nhiều nơi còn thiếu thốn, nghèo nàn.

- Hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển. Công bằng xã hội bị vi phạm. Pháp luật, kỉ cương không nghiêm. Những hành vi lộng quyền, tham nhũng của một số căn bộ và nhân viên nhà nước, những hoạt động của bọn làm ăn phi pháp... chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời[13].

Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân”[14].

Thực trạng kinh tế - xã hội nói trên đã “làm giảm lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của các cơ quan Nhà nước”[15].

Nguyên nhân của thực trạng kinh tế - xã hội, cũng như thực trạng đó, đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) của Đảng phân tích sâu sắc, khách quan và thẳng thắn là: “Trong 5 năm 1981-1985, đã không nghiêm chỉnh thực hiện những kết luận đúng đắn của Đại hội lần thứ V của Đảng về cụ thể hóa đường lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên, chưa kiên quyết khắc phục chủ quan nóng vội và bảo thủ trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lí kinh tế, lại phạm những sai lầm mới, nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối, lưu thông; đã buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lí kinh tế, xã hội, trong đấu tranh tư tưởng, văn hóa, trong việc chống lại những âm mưu, thủ đoạn phá hoại thâm độc của kẻ thù”[16].

 

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/4660-02-633921720420935000/Viet-Nam-xay-dung-lai-dat-nuoc-1975---198...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận