Việt Nam năm đầu sau đại thắng mùa xuân (1975-1976)
1. Tình hình hai miền Bắc - Nam sau mùa Xuân 1975
Đại thắng mùa Xuân 1975 đã đưa đất nước ta bướu vào kỉ nguyên độc lập thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Để xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước mắt chúng ta phải nỗ lực khắc phục hậu quả của 20 năm chiến tranh, ổn định và khôi phục kinh tế - văn hóa, hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
Trải qua hơn hai chục năm (1954-1975) tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc đã đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện, đã xây dựng được những cơ sở vật chất kĩ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội. Đó là kết quả của sự lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu kiên cường, dũng cảm của quân dân cả nước, trực tiếp là của quân dân miền Bắc. Nhưng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mĩ kéo dài và hết sức ác liệt đã tàn phá nặng nề, gây hậu quả lâu dài đối với miền Bắc. Cuộc chiến tranh phá hoại của Mĩ đã phá hủy hầu hết những cái mà nhân dân ta đã tốn biết bao công sức để xây dựng nên, làm cho quá trình tiến lên sản xuất lớn bị chậm lại trong nhiều năm và làm đảo lộn cả nền nếp quản lí kinh tế của chúng ta.
Gần như toàn bộ các thành phố, thị xã đều bị đánh phá, trong đó 12 thị xã, 51 thị trấn bị phá hủy hoàn toàn; 4.000 xã (trong tổng số 5.799 xã) bị đánh phá, trong đó 30 xã bị phá hủy hoàn toàn. Tất cả các khu công nghiệp bị đánh phá, nhiều khu bị đánh với mức độ hủy diệt. Tất cả các nhà máy điện đều bị đánh hỏng, 5 triệu mét vuông nhà ở (chưa kể ở nông thôn) bị phá huỷ. Tất cả các tuyến đường sắt, 100% cầu, toàn bộ hệ thống bến cảng, đường biển, đường sông và kho tàng đều bị bắn phá. Địch gây tổn thất cho 1.600 công trình thủy lợi, hầu hết các nông trường và hàng trăm nghìn hecta ruộng vườn, giết hại 40.000 trâu bò. Mĩ đã đánh phá 3.000, trường học, 350 bệnh viện, trong đó 10 bệnh viện bị san bằng.
Miền Nam đã hoàn toàn giải phóng. Cơ đồ chủ nghĩa thực dân mới của Mĩ bị sụp đổ đã để lại cho chúng ta những di hại nặng nề cả về chính trị, kinh tế, xã hội.
Về đội ngũ nhân viên của chính quyền cũ, ngoài một số ít tướng lĩnh, nhân viên ngụy quyền cao cấp chạy ra nước ngoài, còn số đông vẫn ở lại các địa phương. Không kể các phần tử ngoan cố, phản động ẩn giấu, nằm im chờ thời cơ để hoạt động chống lại chế độ mới, chống lại nhân dân, phần đông các nhân viên, sĩ quan, binh lính của chế độ sài Gòn cũ mang nặng hệ tư tưởng chính trị của chế độ thực dân mới của Mĩ, mặc cảm với chế độ mới, không có công ăn việc làm.
Các tệ nạn xã hội như xì ke, ma túy, lưu manh, bụi đời, đĩ điếm khá nặng nề. Riêng ở Sài Gòn, số người mù chữ chiếm tỉ lệ lớn trong cư dân, đội ngũ thất nghiệp lên tới 1.500.000 người.
Miền Nam có nền kinh tế trong chừng mực nhất định phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, song vẫn mang tính chất của nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phố biến, phát triển mất cân đối, lệ thuộc nặng nề vào viện trợ từ bên ngoài.
Trong hơn hai chục năm đó (1954-1975), chính quyền Sài Gòn đã nhận trên 26 tỉ đôla viện trợ - gồm 16 tỉ viện trợ quân sự, 6 tỉ viện trợ khoa học – kĩ thuật, 1,6 tỉ viện trợ nông phẩm, 2,4 tỉ dưới hình thức đổi lấy tiền ngụy để chi tiêu tại chỗ. Khoản viện trợ không hoàn lại hết sức to lớn đó đã đẩy nền kinh tế miền Nam ngày càng lệ thuộc hoàn toàn vào kinh tế Mĩ.
Hàng năm, miền Nam nhập khẩu (chủ yếu của Mĩ, hoặc Mĩ cung cấp đôla để mua hàng của các nước): 90% nhiên liệu dùng cho các ngành công nghiệp, nông nghiệp, vận tải và cho sinh hoạt; 70% nguyên liệu dùng cho các ngành công nghiệp; toàn bộ phân hóa học dùng trong nông nghiệp (hầu hết dùng phân hóa học, 3.000.000 tấn/năm); toàn bộ sắt thép (trên 100.000 tấn/năm) và 2/3 nhu cầu về xi măng (500.000 tấn/năm) dùng trong ngạnh xây dựng; hầu hết máy móc và phụ tùng thay thế dùng trong các ngành sản xuất, xây dựng, vận tải,... tốn ít nhất 50 triệu đôla/năm,
Nhờ nguồn nhập khẩu máy móc, nguyên liệu, nhiên liệu, kĩ thuật... của nước ngoài mà nền công nghiệp miền Nam có bước phát triển so với trước. Nhiều ngành nghề mới xuất hiện. Hàng chục xí nghiệp lớn được xây dựng với sự cộng tác của các công ti tư bản nước ngoài, trang bị tương đối hiện đại. Một khu công nghiệp tương đối hoàn chỉnh được xây dựng ở Biên Hòa. Đội ngũ công nhân công nghiệp trên 10.000 người, trong đó có nhiều người tay nghề vững. Nhưng do chủ nghĩa tư bản mới bắt đầu phát triển ở miền Nam nên 90% cơ sở sản xuất là thuộc loại nhỏ. Giá trị sản phẩm công nghiệp hàng năm chỉ bằng 1/20 sản phẩm quốc gia. Ngành chế tạo cơ khí non kém, không có khả năng tự trang bị cũng như thúc đẩy các ngành khác phát triển. Vốn đầu tư vào công nghiệp không nhiều, lại bị phân tán bởi hàng vạn cơ sở nhỏ.
Nông nghiệp miền Nam vẫn là nền sản xuất nhỏ, ruộng đất manh mún, phân tán trong gần một triệu hộ nông dân làm ăn riêng lẻ, lao động thủ công. Từ cuối những năm 60, chính quyền Sài Gòn cho nhập nhiều máy móc nông nghiệp. Nhưng những máy móc này phần lớn thuộc quyền sở hữu của tư bản nông thôn, của phú nông, một phần của trung nông lớp trên và cũng chỉ thích hợp với quy mô sản xuất nhỏ của nông dân cá thể. Vì thế, nông nghiệp miền Nam tuy có tiềm năng phong phú, có nguồn lao động dồi dào, sản xuất vẫn không đủ tiêu dùng. Nông nghiệp miền Nam bị nông nghiệp nhập khẩu cạnh tranh, lại thêm chiến tranh tàn phá (trên 1 triệu hécta ruộng bị bỏ hoang hóa, hàng chục vạn trâu bò bị giết hại... ) làm cho sản xuất đình trệ.
Thương nghiệp miền Nam lại phát triển quá mức cần thiết khiến cho tình trạng què quặt của nền kinh tế thêm nghiêm trọng. Miền Nam trước ngày giải phóng có chừng 500,000 hộ kinh doanh. Số môn bài cấp cho các ngành kinh doanh tăng nhanh từ 50.000 môn bài được cấp trong năm 1955, tăng lên 219.000 trong năm 1972 (gấp 4 lần). Đó là chưa kể mạng lưới dày đặc những người buôn bán nhỏ, không có cửa hiệu, sạp hàng và không đăng kí kinh doanh.
Nhìn chung, trong hơn hai chục năm dưới chế độ thực dân mới của Mĩ, ở miền Nam đã hình thành một cơ cấu kinh tế mang tính lệ thuộc kinh tế nước ngoài và bị tư bản nước ngoài khống chế, lũng đoạn. Trong một số lĩnh vực, kinh tế miền Nam có bước phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, nhưng sự phát triển đó không bình thường, chủ yếu không phải dựa vào sức của mình, mà dựa vào viện trợ từ bên ngoài. Kinh tế miền Nam chủ yếu vẫn là kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ, còn công nghiệp giữ vị trí thứ yếu và chỉ phát triển trong một số ngành không cơ bản, cơ sở vật chất không nhiều và không đồng bộ.
2. Ổn định tình hình miền Nam, khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triền kinh tế - văn hóa ở hai miền đất nước
Ở miền Bắc, tuy chiến tranh đã chấm dứt sau Hiệp định Pari 1973 về Việt Nam, nhưng do sự tàn phá nặng nề của hai lần chiến tranh phá hoại, nên nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế đến giữa năm 1976 mới căn bản hoàn thành.
Trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước 6 tháng cuối năm 1975 và 6 tháng đầu năm 1976, miền Bắc đã có những tiến bộ đáng kể.
Mặc dù thời tiết thất thường, thiên tai dồn đập, miền Bắc thu hoạch vụ đông - xuân 1975-1976 khá tốt. Diện tích trống lúa, hoa màu, cây công nghiệp năm 1976 đều tăng hơn năm 1975. Phong trào hoàn chỉnh thủy nông được đẩy mạnh, nâng khối lượng công trình trong 6 tháng đầu năm 1976 lên gấp 3 lần cả năm 1975. Nhiều công trình, nhà máy được xây dựng và mở rộng thêm. Trong một số xí nghiệp đã xuất hiện khí thế mới, có sự chuyển biến bước đầu về quản lí kinh tế, quản lí lao động cũng như năng suất lao động. Sản lượng phần lớn các sản phẩm quan trọng đều đạt và vượt mức trước chiến tranh. Đội ngũ cán bộ và công nhân kĩ thuật tăng nhanh; sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, nghệ thuật phát triển mạnh.
Đồng thời với việc tiếp tục khôi phục và phát triển kinh tế, hoàn thiện sản xuất, đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc ra sức làm tròn nghĩa vụ của căn cứ địa cách mạng cả nước và nghĩa vụ quốc tế đối với Lào và Campuchia trong giai đoạn mới.
Miền Bắc đã điều động vào miền Nam một khối lượng lớn vật chất và hàng vạn cán bộ, công nhân để tăng cường cho các địa phương, các cơ sở sản xuất, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế..., góp phần vào việc tiếp quản vùng mới giải phóng và ổn định tình hình chính trị - xã hội, thực hiện bước chuyển biến cách mạng từ sau đại thắng mùa Xuân 1975.
Ở miền Nam, tiếp quản vùng mới giải phóng là nhiệm vụ được tiến hành từ rất sớm. Trước ngày 1-4-1975, công việc tiếp quản vùng mới giải phóng ở từng địa phương, cơ bản là do địa phương tiến hành trên cơ sở áp dụng Chính sách Mười điểm của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (công bố năm 1973, trước khi kí Hiệp định Pari về Việt Nam). Từ giữa tháng 3-1975, chiến sự diễn ra dồn dập, vùng giải phóng mới được mở ra hàng loạt ở rừng núi, nông thôn, đồng bằng, đô thị. Để đáp ứng yêu cầu phát triển của tình hình và để cụ thể hơn chủ trương tiếp quản vùng mới giải phóng, ngày 1-4-1975, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam công bố Chính sách Mười điểm đối với vùng mới giải phóng.
Quán triệt chủ trương của Chính phủ cách mạng lâm thời, tại các vùng mới giải phóng, các Ban tiếp quản triển khai công việc tiếp nhận những cơ sở vật chất - kĩ thuật, cơ sở kinh tế, văn hóa của chế độ cũ. Các căn cứ quân sự, các cơ sở sản xuất, các công trình công cộng... đều có kế hoạch phân công tiếp nhận cụ thể. Nhờ ý thức cảnh giác cao của giai cấp công nhân, tinh thần đấu tranh kiên quyết của các tầng lớp nhân dân cung sức mạnh tiến công của các lực lượng vũ trang giải phóng, nên công tác tiếp quản vùng mới giải phóng từ thành thị đến nông thôn, từ đất liền đến hải đảo, từ các căn cứ quân sự đến các cơ sở sản xuất, hành chính, văn hóa được tiến hành khẩn trương và kết quả thu nhận được gần như nguyên vẹn. Tuy nhiên, cũng có một số ít bị hư hại, một phần do địch phá hoại khi rút chạy, do bom đạn hai bên tàn phá, phần khác do bọn người xấu lợi dụng cướp phá lúc “hỗn quân hỗn quan” vào thời điểm chiến tranh sắp kết thúc.
Ở những vùng mới giải phóng, việc thành lập chính quyền cách mạng và đoàn thể quần chúng các cấp nhanh chóng được thực hiện. Tại các thành phố lớn như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng..., chính quyền cách mạng chính thức tuyên bố thành lập chỉ vài ngày sau khi hoàn toàn giải phóng.
Thành phố Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên hoàn toàn giải phóng ngày 26-3-1975, nhưng chỉ hai ngày sau, chính quyền cách mạng từ cấp tỉnh đến các huyện, xã đã hoàn tất công việc thành lập. Sài Gòn, thành phố lớn nhất của miền Nam, hoàn toàn giải phóng ngày 30-4-1975 và sang những ngày đầu tháng 5-1975, hệ thống chính quyền cách mạng ở thành phố và trên toàn bộ vùng giải phóng miền Nam được thành lập. Một hệ thống chính quyền cách mạng từ trung ương, tức Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đến các cấp cơ sở ở tỉnh, huyện, xã được hình thành và giữ quyên kiểm soát toàn bộ lãnh thổ miền Nam Việt Nam.
Các thành viên của chính quyền cách mạng do cơ quan chính quyền cấp trên chỉ định hoặc do tổ chức Đảng, đoàn thể cùng cấp cử ra. Mới đầu tại các thành phố lớn, các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, chính quyền cách mạng duy trì chế độ quân quản, do đại diện quân nhân nắm giữ. Tại các cấp cơ sở (xã, thôn), chính quyền cách mạng được thành lập dưới hình thức các Ban tự quản. Sau một thời gian, khi tình hình tương đối ổn định, các hoạt động xã hội đã dần dần trở lại bình thường, các ủy ban nhân dân cách mạng được thành lập để thay thế các ủy ban quân quản và ủy ban tự quản. Tại Sài Gòn, ngày 21-1-1976, ủy ban nhân dân cách mạng thành phố, do Võ Văn Kiệt làm Chủ tịch, tiếp nhận sự bàn giao của ủy ban quân quản thành phố.
Đồng thời với việc xây dựng chính quyền cách mạng các cấp, các đoàn thể quần chúng cách mạng cũng được thành lập và phát triển trong các vùng mới giải phóng. Ở những nơi đã có các đoàn thể hoạt động bí mật từ trước thì nay đều ra hoạt động công khai và được củng cố, mỡ rộng thêm đội ngũ. Ở những nơi chưa có cơ sở cách mạng, trong không khí phấn khởi sau ngày giải phóng, đồng bào ta từ thành thị đến nông thôn, nô nức gia nhập các đoàn thể cách mạng, hăng hái tham gia các hoạt động xây dựng cuộc sống mới. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam phát triển nhanh, mở rộng phạm vi tới mọi ngành, mọi giới trong xã hội.
Chính quyền cách mạng các cấp cùng các đoàn thể quần chúng đã thực hiện những biện pháp nhanh chóng ổn định tình hình chính trị - xã hội, giữ vững và phát huy những thành quả cách mạng đã giành được.
Ngày 25-3-1975, một ngày sau khi Tây Nguyên được giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam công bố Chính sách Bảy điểm nhằm giải thích rõ Chính sách Mười điểm (được công bố tháng 1-1972) về thái độ của cách mạng đối với binh lính , sĩ quan các cấp trong quân đội Sài Gòn và gia đình của họ. Chính sách khẳng định: chỉ trừ số ít những kẻ ngoan cố, cam tâm bán nước, làm tay sai cho Mĩ, gây nhiều tội ác đối với nước, với dân - đại diện là tập đoàn thống trị Nguyễn Văn Thiệu, còn phần lớn anh em binh lính, sĩ quan bị lừa hoặc bị cưỡng bức. Cách mạng hoan nghênh những ai quay trở về với dân tộc, ghi nhận những người có công và khen thưởng tùy theo mức độ, không phân biệt đối xử. Ai có công đặc biệt sẽ được thăng cấp. Ai vì lợi ích dân tộc mà gặp khó khăn sẽ được cách mạng giúp giải quyết khó khăn. Ai đưa vốn ra kinh doanh, cách mạng khuyến khích. Về với cách mạng, ai muốn có việc làm, cách mạng tạo cho việc làm, ai muốn tham gia công tác cách mạng, sẽ được cách mạng giao cho công tác thích hợp.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, chính quyền kêu gọi tất cả những người làm việc trong bộ máy chính quyền và quân đội của chế độ thực dân của Mĩ ra trình diện hoặc đăng kí trình diện và tạo mọi điều kiện thuận lợi cả về phép lí, tâm lí, dư luận xã hội để họ tự giác thực hiện. Đại bộ phận trong họ đã ra tình diện với chính quyền cách mạng. Bộ phận lớn nhân viên trong bộ máy chính quyền Sài Gòn được bố trí trở lại làm việc theo ngành nghề, nghiệp vụ cũ. Có nơi, như Sở Bưu điện thành phố Huế, hầu hết nhân viên cũ xin ở lại tiếp tục làm việc. Song có bộ phận nhỏ nhân viên còn mặc cảm, nghi ngại; bộ phận nhỏ khác thì ngoan cố lẩn trốn, tìm cách chống lại. Chính quyền cách mạng một mặt kiên trì thuyết phục, mặt khác kiên quyết trừng trị những kẻ chống lại và truy tìm những kẻ ngoan cố lẩn trốn.
Ngày 25-5-1976, một năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam công bố toàn bộ chính sách đối với những người làm việc trong quân đội, chính quyền và các đảng phái, tổ chức chính trị của chế độ cũ. Chính sách này, ngoài việc khẳng định lại những điều đã công bố từ trước, còn nêu cụ thể hơn những điều quy định về việc khôi phục quyền công dân đối với những người không thuộc diện “ác ôn nguy hiểm” đã học tập, cải tạo tốt, hoặc được hưởng chế độ quản thúc từ 6 tháng đến 1 năm đối với những người không thuộc diện “ác ôn nguy hiểm” được cơ quan hoặc gia đình bảo lãnh. Số còn lại, trừ những trường hợp xử lí theo pháp luật, phải qua cải tạo tập trung.
Mặt khác, chính quyền cách mạng được hậu thuẫn của nhân dân, đã tiến hành những biện pháp kiên quyết, có hiệu quả nhằm trấn áp bọn phản cách mạng và đập tan từ trong trứng mọi âm mưu gây bạo loạn của chúng, đồng thời kiên quyết trừng trị những chủ tư sản mại bản đầu cơ tích trữ, lũng đoạn thị trường gây hại cho sản xuất, cùng bọn gây tội ác về chính trị và có hành động phá hoại hiện hành. Nhờ đó mà vấn đề an ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững, mọi sinh hoạt của nhân dân ở các vùng nông thôn và thành thị, ở Sài Gòn và các thành phố khác, nhanh chóng trở lại bình thường.
Được sự hướng dẫn và giúp đỡ của Nhà nước, hàng triệu đồng bào trong thời gian chiến tranh bị dồn vào các “ấp chiến lược” hay bỏ chạy vào các thành phố, không có công ăn việc làm, cùng hàng chục vạn đồng bào khác trong những ngày quân ta tổng tiến công, phải di cư từ vùng này sang vùng khác... được hồi hương, chuyển về nông thôn tham gia sản xuất hoặc đi xây dựng vùng kinh tế mới.
Tính đến tháng 7-1976, riêng ở Sài Gòn, ủy ban nhân dân cách mạng đã giúp khoảng 50 vạn đồng bào trở về quê cũ làm ăn. Ở những vùng mới giải phóng, có hàng chục vạn người thất nghiệp được thu xếp việc làm, hàng vạn nạn nhân của lối sống và văn hóa đồi trụy dưới chế độ cũ được phục hồi nhân phẩm cũng được thu xếp việc làm.
Để từng bước giải quyết nạn thất nghiệp, chính quyền cách mạng tổ chức cho dân đi xây dựng vùng kinh tế mới, chủ yếu là dân thành thị. Chúng ta chủ trương đưa cả một bộ phận dân cư miền Bắc vào khai phá các vùng đất đai chưa được khai phá ở miền Nam. Đây là sự phân bố lại lực lượng lao động sản xuất, tạo ra một sự kết hợp hợp lí giữa lao động và đất đai. Chỉ trong vài năm, chúng ta đã đưa được 1.300.000 người từ các nơi trong cả nước đến các vùng kinh tế mới và đã khai hoang, phục hóa được ngót một triệu hecta đất. Ủy ban nhân dân thành phố Sài Gòn vạch kế hoạch đưa trên một triệu đồng bào không trực tiếp lao động sản xuất đi xây dựng vùng kinh tế mới. Hơn một năm sau, đến tháng 6-1976, Sài Gòn đã tổ chức cho gần 30 vạn dân đi các vùng kinh tế mới, lập thành 94 xã, trong đó 82 xã đã ổn định về đất canh tác và thổ cư. Hàng vạn thanh niên gia nhập các đội thanh niên xung phong, đi giúp các vùng di dân an định đời sống và xây dựng vùng quê hương mới.
Sự thiếu đói trong nhân dân vốn có từ trước, đến giai đoạn kết thúc chiến tranh càng trầm trọng. Chính quyền cách mạng đã sử dụng mọi biện pháp tập trung lương thực, kịp thời chống đói. Chỉ tính riêng thành phố Sài Gòn, ủy ban nhân, dân đã tổ chức cứu trợ cho trên 3.260.000 lượt người với 25.448 tấn gạo.
Chính quyền cách mạng đã thực hiện một loạt biện pháp nhằm khuyến khích sản xuất, phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân. Chính quyền cho tịch thu toàn bộ tài sản và ruộng đất của các phần tử phản động, tư sản mại bản và của những người chạy trốn ra nước ngoài. Những tài sản tịch thu được đã chuyển sang quyền sở hữu của Nhà nước, còn ruộng đất thì đem chia cho nông dân thiếu ruộng và cho các tập đoàn sản xuất. Chính quyền cách mạng cho quốc hữu hóa ngân hàng, giải thể tất cả các ngân hàng tư nhân, tập trung toàn bộ tín dụng vào tay Nhà nước; xóa bỏ tiền ngụy, thay bằng đồng tiền cách mạng (22-9-1975); tuyên bố xóa bỏ chế độ bóc lột theo kiểu phong kiến, tiến hành điều chỉnh ruộng đất trong nội bộ nông dân. Chính quyền cách mạng nắm giữ, quản lí các cơ sở kinh tế lớn có ý nghĩa then chốt, giữ độc quyền đường biển, đường sắt, đường không; nắm toàn bộ ngành xuất khẩu quản lí vật tư, hàng hóa thiết yếu như xăng dầu, sắt thép, phân bón... và bước đầu quản lí lương thực.
Chính quyền cách mạng rất chú trọng khôi phục sản xuất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu cấp bách trước mắt và lâu dài của nhân dân về lương thực.
Hưởng ứng chủ trương đó của cách mạng, ở hầu khắp các vùng nông thôn miền Nam dấy lên phong trào của quần chúng tháo gỡ bom mìn, khai hoang, phục hóa, làm thủy lợi, thâm canh, tăng vụ. Nông dân được tổ chức thành lập các tập đoàn sản xuất, các tổ đổi công, vần công... Kết quả là “từ chỗ miền Nam có năm nhập tới 800.000 tấn lương thực, đã có thể vươn lên bảo đảm lương thực đủ ăn cho số dân đã tăng lên 24 triệu người”.
Các cơ sở sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp của Nhà nước và tư nhân được Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để trở lại hoạt động và đã có những cố gắng trong việc khắc phục khó khăn về nguyên liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế... Đến năm 1976, gần 400 xí nghiệp lớn nhỏ ở Sài Gòn trở lại hoạt động.
Các ngành sản xuất khác cũng dần dần hoạt động trở lại. Ngày 21-4-1975, đường điện báo, điện thoại Huế - Hà Nội được thông suốt. Ngày 10-6-1975, bưu điện thành phố Sài Gòn bắt đầu nhận chuyển thư đi các nơi trong và ngoài nước.
Các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội cũng được tiến hành khẩn trương ngay từ những ngày đầu mới giải phóng. Đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, báo chí được kịp thời sử dụng vào công tác thông tin, tuyên truyền cổ động. Những biểu hiện của văn hóa phản động, đồi trụy bị lên án và nghiêm cấm. Những tệ nạn xã hội cũ, như mê tín dị đoan, cô đầu, gái điếm, nghiện ma túy... bị bài trừ. Các hoạt động văn hóa lành mạnh được đẩy mạnh và lan rộng. Ngành giáo dục phổ thông, giáo dục và đào tạo đại học, trung học chuyên nghiệp được chấn chỉnh, tổ chức lại và bước đầu phát triển. Các trường phổ thông cấp 1, 2, 3 trên toàn miền Nam lần lượt được mở lại. Hệ thống trường tư bị xóa bỏ, chuyển thành trường công của Nhà nước. Việc xóa nạn mù chữ được chú trọng và phong trào bình dân học vụ được phát động, các lớp bổ túc văn hóa được mở ở khắp nơi. Chỉ riêng ở Sài Gòn, tính đến tháng 4 - 1976 có hơn 80.000 người thoát nạn mù chữ. Ngành y tế được chấn chỉnh và đẩy mạnh hoạt động. Nhiều đội y tế lưu động được phải xuống các thôn, xã tổ chức tiêm phòng, khám chữa bệnh cho nhân dân, kịp thời dập tắt những ổ dịch. Công tác vệ sinh phòng bệnh, hoạt động thể dục thể thao cũng được chú ý phát động thành phong trào quần chúng.
Những hoạt động trên nhằm ổn định tình hình, khắc phục hậu quả chiến tranh trong hơn năm đầu sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, tuy giành được thắng lợi to lớn song mới chỉ là bước đầu. Những nhiệm vụ đó còn phải tiếp tục thực hiện nhiều năm trong quá trình vừa cải tạo, vừa xây dựng. Tuy nhiên, đó là bước đầu cơ bản, bởi vì những nhiệm vụ có tính cấp bách trước mắt đã được thực hiện nhanh chóng, có hiệu quả, trên thực tế đã có tác dụng đến việc ổn định sớm tình hình chính trị, kính tế, xã hội miền Nam, làm cho nhân dân (trực tiếp là nhân dân ở những vùng mới giải phóng) yên tâm, tin tưởng vào chế độ mới.
3. Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước
Nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân ta trong cuội kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954-1975) là giành lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chấm dứt tình trạng đất nước bị chia cắt.
Về mặt lãnh thổ, Tổ quốc Việt Nam trên thực tế đã được thống nhất từ sau chiến thắng lịch sử 30-4-1975, song ở mỗi miền lại tồn tại một hình thức tổ chức nhà nước khác nhau. Ở miền Bắc, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Còn chính quyền các cấp là Hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính địa phương. Ở miền Nam, có Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa lên Nam Việt Nam và Hội đồng cố vấn của chính phủ. Các cấp là ủy ban nhân dân cách mạng ở địa phương.
Từ thực tế đó, sau khi miền Nam được giải phóng, một trong những nguyện vọng thiết tha trước mắt, đồng thời là tình cảm thiêng liêng nhất của nhân dân hai miền Nam-Bắc là sớm được sum họp trong một đại gia đình, mong muốn có một chính phủ thống nhất, một cơ quan đại diện quyền lực chung của nhân dân cả nước.
Đáp lại nguyện vọng chính đáng đó của nhân dân cả nước, đồng thời cũng phù hợp với thực tế lịch sử của dân tộc - “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành Trung ương Đảng họp trong tháng 9 - 1975 đề ra nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước. Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh: “Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng tha thiết nhất của nhân dân cả nước, vừa là quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam”. Từ đó, những công việc nhằm tiến tới hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước được gấp rút triển khai.
Trong hai ngày 5 và 6 - 11 - 1975, ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Hội đồng cố vấn của Chính phủ cùng đại diện các nhân sĩ, trí thức yêu nước, dân chủ, đã mở Hội nghị liên tịch (mở rộng) tại Sài Gòn. Hội nghị tiến hành thảo luận và đã đi đến nhất trí về sự cần thiết sớm hoàn thành thống nhất đất nước, trước hết là về mặt Nhà nước. Hội nghị cũng đã đề xuất những nguyên tắc và biện pháp tiến hành hiệp thương giữa hai miền Nam - Bắc và cử đoàn đại biểu miền Nam tham dự hội nghị hiệp thương với đoàn đại biểu miền Bắc.
Từ ngày 15 đến 21-11-1975, Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất đất nước được tổ chức tại Sài Gòn. Hai đoàn đại biểu đại diện cho hai miền tham dự Hội nghị. Đoàn miền Bắc gồm 25 đại biểu, do Trường Chinh làm trưởng đoàn; đoàn miền Nam gồm 25 đại biểu, do Phạm Hùng làm trưởng đoàn.
Hội nghị tiến hành thảo luận và đi đến nhất trí hoàn toàn mọi vấn đề thuộc về chủ trương, bước đi, biện pháp nhằm thống nhất đất nước về mặt Nhà nước.
Hội nghị nhận định: “Cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước cùng làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cần hoàn thành thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là sự thống nhất trọn vẹn và vững chắc nhất.”
Hội nghị nhấn mạnh: “Cần tổ chức sớm cuộc Tổng tuyển cử trên toàn lãnh thổ Việt Nam để bầu ra Quốc hội chung cho cả nước. Là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của Việt Nam hoàn toàn độc lập và chủ nghĩa xã hội, Quốc hội đó sẽ xác định thể chế Nhà nước, bầu ra các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và quy định Hiến pháp mới của nước Việt Nam thống nhất”.
Hội nghị không chỉ đạt được sự nhất trí cao về chủ trương, phương hướng, mà còn đề ra được những biện pháp cụ thể để thực hiện ý nguyện của toàn dân. Chủ trương, nghị quyết của Hội nghị được triển khai ngay sau khi Hội nghị kết thúc.
Từ tháng 2-1976, công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tiến tới cuộc Tổng tuyển cử được triển khai trong phạm vi cả nước.
Ngày 25-4-1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tổ chức trên toàn quốc. Đây là lần thứ hai cuộc Tổng tuyển cử được tổ chức trong cả nước, sau lần đầu tổ chức ngày 6-1-1946. Hơn 23 triệu cử tri (98,8% tổng số cử tri) đi bầu và bầu ra 492 đại biểu. Kết quả của Tổng tuyển cử là một thắng lợi có ý nghĩa quyết định trên con đường tiến tới hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước.
Cuối tháng 6 đấu tháng 7-1976, Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất với 492 đại biểu, được gọi là Quốc hội khóa VI với ý nghĩa kế tục sự nghiệp của 5 khóa Quốc hội trước, họp kì đầu tiên tại Hà Nội. Kì họp lịch sử này của Quốc hội là kì họp hoàn thành thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước.
Quốc hội thông qua chính sách đối nội và đối ngoại của nước Việt Nam thống nhất. Về nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, Quốc hội nêu rõ: “Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Quốc hội quyết định lấy tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ 2-7-1976). Quốc kì là lá cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là bài Tiến quân ca, Quốc huy mang dòng chữ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam thống nhất, thành phố Sài Gòn đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh.
Quốc hội bầu các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước, ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Chính phủ, Hội đồng Quốc phòng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Tôn Đức Thắng được bầu làm Chủ tịch nước . Nguyễn Lương Bằng và Nguyễn Hữu Thọ là Phó Chủ tịch nước, Trường Chinh làm Chủ tịch ủy ban Thường vụ Quốc hội, Phạm Văn Đồng làm Thủ tướng Chính phủ, các Phó thủ tướng là Phạm Hùng, Huỳnh Tấn Phát, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Võ Chí Công, Đỗ Mười và về sau được bổ sung thêm: Tố Hữu (1980), Nguyễn Lam (1980), Trần Quỳnh (1981).
Ở địa phương, Quốc hội ra quyết định tổ chức thành 3 cấp chính quyền: cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương; cấp huyện và tương đương; cấp xã và tương đương. Ở mỗi cấp chính quyền này đều có Hội đồng nhân dân được bầu theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín và ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, do Hội đồng nhân dân bầu ra.
Quốc hội còn bầu ủy ban dự thảo Hiến pháp và quyết định trong khi chưa có Hiến pháp mới thì nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Với kết quả của kì họp thứ nhất Quốc hội khóa VI, công việc thống nhất đất nước về mặt Nhà nước đã hoàn thành. Từ đây, việc tiếp tục hoàn thành thống nhất đất nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội sẽ gắn liền với việc thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước.
Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước là yêu cầu tất yếu, khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam và kết quả giành được đó thể hiện lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, ý chí thống nhất Tổ quốc, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam độc lập và thống nhất của toàn thể nhân dân ta.
Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước đã tạo nên những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh toàn diện đất nước, những điều kiện thuận lợi để cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, những khả năng to lớn để bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới.
Nước Việt Nam thống nhất có diện tích phần đất liền rộng gần 38 vạn km2, trải dài trên 15 vĩ tuyến - từ mỏm Lũng Cú (Hà Giang) đến mũi Cà Mau, với các đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long màu mở, với hơn 16 triệu hecta rừng và đất rừng, trên dưới 10 triệu hecta đất nông nghiệp (mới khai thác trên một nửa), trên 3.200 cây số bờ biển, các hải đảo và một thềm lục địa còn rộng hơn cả đất liền. Đó là chưa kể nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng ở cả hai miền hỗ trợ cho nhau. Nhưng đáng quý hơn cả là nguồn nhân lực của nước ta dồi dào, hiện tại (giữa năm 1976) có hơn 52 triệu người Việt Nam yêu nước đã dũng cảm trong chiến đấu và cũng sẽ cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất, xây dựng đất nước trong kỉ nguyên mới.