Tài liệu: Australia - Văn chương

Tài liệu

Tóm tắt nội dung

Văn chương Úc là một trong những nhánh sinh động nhất của dòng văn học đương đại viết bằng tiếng Anh.
Australia - Văn chương

Nội dung

Văn chương

Văn chương Úc là một trong những nhánh sinh động nhất của dòng văn học đương đại viết bằng tiếng Anh. Những nhà văn của Úc đã có một sự đóng góp trọng tâm vào sự hiểu biết và khẳng định nền văn hóa Úc.

Kể từ khi Patrick White đoạt giải Nobel văn chương năm 1973, những nhà văn Úc đã giành được nhiều giải thưởng quốc tế, trong số đó có các tiểu thuyết gia Thomas Keneally (giải thường Prestgious Booker) và nhà thơ Les Murray (giải thưởng Petrarch). Ngoài ra còn có Helen Garner, David Malouf, Elizabeth Jolley, Archie Weller và Tim Winton đều nằm trong số những nhà văn Úc được giải thường. Những nhà thơ hàng đầu của thời quá khứ và thời hiện tại có A.B Paterson, A.D. Hope, Judith Wright, Bruce Dawe và Geoff Page.

Những tác giả có nguồn gốc là người nhập cư như Brian Castro, Fotini Epanomitis và Beth Yahp đã đóng góp những khía cạnh quốc tế vào văn chương Úc. Những tác giả có sách bán chạy nhất thế giới bao gồm Morris West, Collen McCullough và Bryce Courtenay. Tim Winton, Kate Grenville, Janette Turner Hospital và David Malouf là một số trong số những tác giả văn xuôi khác đã hình thành được uy tín quốc tế trong vòng 20 năm qua.

Những tác giả như Oodgeroo Noonuccal và Sally Morgan đã giúp đưa những kinh nghiệm của thổ dân vào tâm trí những người Úc không phải là thổ dân.

NỀN VĂN HÓA THỔ DÂN

Những người thổ dân Úc đã cư ngụ trên lục địa này từ lâu, trước khi những nền văn minh cổ của Trung Đông, Châu Âu và Mỹ hưng thịnh, có nghĩa là hơn 50.000 năm trước khi những nhà hàng hải châu Âu đến bờ biển của 'Mảnh đất Vĩ đại Phía Nam' này. Những truyền thống cổ xưa của người thổ dân đã phát triển từ mối quan hệ và ràng buộc với tất cả mọi sinh vật và cả với những vật vô tri giác như đá, sông và các vật thể địa khác. Dreamtime (hay Dreaming) là từ tiếng Anh dùng để chỉ hệ thống luật pháp và niềm tin của thổ dân. Hệ thống này là cơ sở cho tất cả các tư tưởng và hành động của của người thổ dân xưa kia. Nói một cách cụ thể hơn thì đó là những di sản về văn hóa, lịch sử và tổ tiên của họ. Dreamtime là bình minh của tất cả sự sáng tạo khi đất đai, sông núi, mưa gió và tất cả các sinh vật được tạo ra.

Người thổ dân tin rằng mỗi người có hai linh hồn. Một linh hồn có thể chết và một linh hồn bất từ, và những linh hồn này được kết nối với linh hồn của tổ tiên họ. Người ta cũng tin rằng mỗi một thị tộc đều là con cháu của cùng một tổ tiên. Các linh hồn có thể vừa che chở vừa gây ra tai họa. Do đó một số người trong thị tộc được chỉ định chịu trách nhiệm duy trì các điểm linh thiêng và nếu như nhiệm vụ này bị xao lãng, người đó sẽ chịu hình phạt nghiêm khắc.

Qua nhiều ngàn năm những người thổ dân là một dân tộc du cư sống bằng nghề săn bắn. Những loại công cụ nhẹ nhưng rất linh hoạt, chẳng hạn như chiếc bumerang, được sử dụng cho việc săn bắn. Mặc dù sống thành từng nhóm nhỏ trong một mảnh đất rộng lớn, xã hội thổ dân này sau đó đã chia ra thành vô số thị tộc ngăn cách với nhau bằng ngôn ngữ và phong tục khác nhau. Họ sống thành những thị tộc từ 10 đến 50 người. Người ta đã thống kê được là có một thời người thổ dân đã nói 500 thứ ngôn ngữ khác nhau, được chia thành 31 nhóm có quan hệ với nhau, mỗi một nhóm ngôn ngữ này đều phong phú và phức tạp như các ngôn ngữ châu Âu.

Không có một xã hội thổ dân đơn lẻ, đồng nhất. Những nhóm người này khác nhau cả về văn hóa lẫn xã hợi. Chỉ riêng trong hạt Northern đã có trên 100 thứ ngôn ngữ khác nhau. Đây là những ngôn ngữ hoàn toàn cách biệt, như thể tiếng Pháp với tiếng Nga vậy.

Cũng như vậy, âm nhạc và múa, hệ thống gia tộc, các loại hình nghệ thuật khác và các nghi lễ cũng khác nhau rất nhiều giữa các vùng. Tuy nhiên những khác biệt này lại không quan trọng bằng sự đồng nhất đã đưa các nhóm người này đến với nhau trong các lễ nghi, trong trao đổi mậu dịch, và trong hôn nhân. Từ đó có sự duy trì những huyền thoại, những bài hát được phổ biến rộng ra trong hàng trăm cây số. Cho đến ngày nay những sự khác biệt về địa phương vẫn tồn tại, nhưng không có một xã hội hay một cá nhân nào ở các địa phương khác nhau có ý nhấn mạnh những sự khác biệt và bản sắc riêng của họ.

Những người sống trong cùng một thị tộc luôn luôn hợp tác với nhau để khai thác những tài nguyên phong phú vào những mùa thuận lợi, và cùng chia sẻ sự xơ xác với nhau vào những mùa hạn hán hay những trận lụt. Sự liên hệ giữa các thị tộc với nhau dựa trên mối quan hệ họ hàng và hôn nhân, trên sự gần gũi về các nghi lễ và trên các địa điểm linh thiêng mà họ sở hữu chung hay chịu trách nhiệm bảo tồn chung.

Sự phân bố người theo khu vực địa lý thường liên quan đến mức độ nước, thực phẩm và các nguồn tài nguyên khác. Thông thường, số lượng người trong một thị tộc tùy thuộc vào số lượng đất đai cần thiết để họ sinh sống. Trong các vùng sa mạc chẳng hạn, dân số rất thưa với mật độ khoảng 1 người/100 km2 để thích nghi với nguồn tài nguyên khắc nghiệt ở đây. Ở đây, thị tộc Walpiri cư ngụ trên một diện tích gần 40.000 km2.

Cuộc sống Săn bắt và Hái lượm

Nền kinh tế của thổ dân dựa trên một sự quản lý ổn định và một sự tổ chức lao động hiệu quả. Đàn ông và phụ nữ làm những công việc khác nhau. Phụ nữ chủ yếu là hái lượm các loại rau, củ, quả và hạt, trứng, mật ong và bắt các loại động vật nhỏ như rắn và con nhông. Đàn ông là người săn bắt những loài thú lớn và các loài chim và cũng hợp tác với nhau để tổ chức các cuộc săn bắt đà điểu sa mạc và kanguru ở qui mô lớn.

Việc săn bắt và hái lượm những loại thực phẩm hoang dã này đòi hỏi phải có sự phát triển những kỹ thuật hiệu quả và đa năng, những kỹ năng đáng kể và sự thích ứng theo từng mùa. Một số loài thực phẩm thực vật rất dễ thu hái nhưng lại đòi hỏi một quá trình chế biến phức tạp trước khi có thể ăn được

Chỗ ở

Một đời sống du cư nay đây mai đó, cùng với một thời tiết nắng ấm của các khu vực này có nghĩa là không có nhu cầu phải xây dựng nhà ở kiên cố. Chỗ ở của thổ dân thường là các lán trại được làm bằng những cây non và hợp các loại 1á sẵn có ở địa phương.

Niềm tin

Dreaming (hay Dreamtime) là một từ dùng để diễn đạt tất cả kiến thức, niềm tin và sự thực hành các niềm tin đó liên quan đến tổ tiên của họ và những giá trị trong đời sống của người thổ dân.

Những tôn giáo và các nghi lễ sinh động của thổ dân ở hạt Northern đã tạo ra hàng loạt những loại hình nghệ thuật, trong đó có nghệ thuật vẽ trên người và làm các đồ trang sức cá nhân, những hình điêu khắc bằng đất, những bức vẽ trên vỏ cây, các bức chạm khắc trên gỗ, cùng với những bức họa và khắc trên đá. Sự sáng tạo nghệ thuật được truyền cảm hứng từ niềm tin. Những thiết kế và các chủ đề bao hàm nhiều ý nghĩa về việc đồng sở hữu đất đai và các mối quan hệ với tổ tiên của họ. Những sự diễn đạt này cùng với những bài hát và các điệu múa được coi như là sự biểu lộ sức mạnh sáng tạo nguyên thủy của tổ tiên. Mỗi một thế hệ nhận lĩnh nhiệm vụ truyền lại nền kinh tế, xã hội, những kiến thức về tôn giáo, các niềm tin và hành động nhằm đảm bảo một sự tái hiện các xã hội và các nền văn hóa thổ dân của các thế hệ về sau.

Những người thổ dân tin rằng trước lúc bình minh của thời đại ngày nay là thời kỳ Dreaming, trong đó tổ tiên của họ đi lang thang qua những vùng đất xác xơ. Những vị tổ tiên này không giống như người ngày nay: họ có một sức mạnh đặc biệt và có mối quan hệ mật thiết với một số loài thú vật và cây cỏ. Khi tổ tiên của họ đi qua một vùng đất nào là tạo ra những vật thể thiên nhiên như sông, núi ở những nơi đó. Mảnh đất mà họ hình thành nên và nơi con cháu của họ ngày nay đang cư ngụ. Trong cuộc hành trình của họ, những vị tổ tiên này mang theo một hoặc nhiều những hình tượng thiêng liêng, gọi là tjurunga, mỗi một tjurunga có 1iên quan với một phần linh hồn của một số người nào đó. Có nhiều tjurunga đã được đem chôn, và mỗi một bãi chôn cất tjurunga được đánh dấu bằng một vật thể thiên nhiên như một tảng đá hay một cái cây. Khi những vị tổ tiên này chết đi, linh hồn của họ vẫn tồn tại với những tjurunga được chôn.

Ngày nay, trên khắp những vùng lãnh thổ của thổ dân, nhiều nơi có liên quan với linh hồn của các vị tổ tiên, được hội tụ thành từng nhóm với tên của các sinh vật thiên nhiên, nơi thì với kanguru, nơi thì với đà điểu sa mạc, chỗ thì với cây hakea, v.v... Khi một phụ nữ có thai có nghĩa là một trong những linh hồn này đã nhập vào người bà ta. Đúa trẻ khi sinh ra được coi như sự tái sinh của một linh hồn tổ tiên gắn liền với khu vực đó.

Mua bán - Trao đổi

Những người thổ dân trao đổi với nhau những nguồn tài nguyên thiên nhiên, chẳng hạn như đất hoàng thổ, các loại công cụ như rìu đá và những chiếc bumerang, từ đó thành một mạng lưới mậu dịch rộng lớn. Các loại hàng hóa này đã đi hàng trăm cây số từ nơi xuất xứ của chúng. Chẳng hạn như những chiếc bumerang được làm ở vùng trung tâm nước Úc có thể được mang đến khu vực Arhem hay những hòn đảo xung quanh. Ngọc trai từ vùng Kimberley được mang đến vùng trung tâm nước Úc và miền Nam để trao đổi.

Mạng lưới trao đổi này thường được tổ chức thành một hệ thống rất trịnh trọng. Người ta tụ tập với nhau thành những nhóm người rất đông và tiến hành các nghi thức trao đổi. Những đồ dùng nghi lễ cá nhân, những vật linh thiêng, các bản nhạc và các điệu múa cũng được truyền từ nhóm người này sang nhóm người khác trong các cuộc tụ tập theo nghi thức đó.

Bumerang

Chiếc bumerang của thổ dân Úc là một thứ vũ khí, một vật dụng thể thao và là một món quà tân gia đầy ý nghĩa ở đây. Chiến bumerang này chứa đựng tinh thần và văn hóa của một nền văn minh xưa nhất trái đất. Tất cả các bumerang đều được làm thủ công và sơn phết tại Úc. Chúng được chế tạo từ những loại cây bản xứ được chọn lọc tại Úc - cây brigalow, cây mulga, cây keo và những loại cây có nhựa đỏ. Những hình vẽ trên bumerang thể hiện các biểu tượng về tôn giáo và truyền thống của văn hóa thổ dân. Có nhiều loại bumerang khác nhau nhưng tất cả đều được dùng trong săn bắn và trong các nghi lễ khi hai chiếc bumerang chạm vào nhau tạo thành một tiếng nhạc.

Sự hiện diện của chiếc bumerang được giới hạn trong khu vực miền Đông và miền Nam nước Úc. Loại dụng cụ này không được phổ biến bằng miếng gỗ ném và thường được sử dụng với gỗ ném. Về hình dạng, bumerang hơi khác với gỗ ném và ngay cả người bản xứ nhiều khi cũng phải ném thử để phân biệt.

Để ném bumerang, bạn cầm nó bằng tay phải theo chiều thẳng đứng, với cánh tay hướng thẳng lên trời. Nắm gần đầu chiếc bumerang với cạnh tròn hướng về phía mặt bạn. Ném bumelang theo một góc khoảng 30 độ so với hướng gió với một động tác giật. Khi ném bạn hãy đưa mặt lồi ra phía sau đầu bạn và phóng ra theo một đường quét bằng cử động của vai với cổ tay vặn lại trước khi thả bumerang ra. Đây và một phần của mẹo làm cho chiếc bumerang quay trở lại với người ném.

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/2285-02-633501632643437500/Van-hoa---Xa-hoi/Van-chuong.htm


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận