Tài liệu: Các văn bản trên giấy cói ở Oxyrhynchus: Tìm kiếm các tác phẩm cổ điển

Tài liệu
Các văn bản trên giấy cói ở Oxyrhynchus: Tìm kiếm các tác phẩm cổ điển

Nội dung

1896 – 1906

Các văn bản trên giấy cói ở Oxyrhynchus: Tìm kiếm các tác phẩm cổ điển

Khám phá / khai quật 1896 – 1906 bởi Bernard P. Grenfell và Arthur S. Hunt

Địa điểm el-Bahnasa Oxyrhynchus)

Thời kỳ Thời kỳ La Mã 30 TCN - 395 SCN

“Một công nhân, tức giận vì kết quả quá ít ỏi, lấy thuổng hất  mạnh một trong các xác ướp cá sấu. Nó vỡ tan từng mảnh và cho thấy được bọc trong những mảnh giấy cói có chữ viết. Khi Hunt  nêu vấn đề này trong các bài diễn thuyết của mình, kho dự trữ cá  sấu, được chiết khấu trước, tăng ngay tức khắc tiền đóng bảo hiểm”.

HAROLD IDRIS BELL

Mặc dù đã có những giao dịch rất sớm, nhưng văn hóa và tri thức của thế giới Hy Lạp được chính thức du nhập vào Ai Cập từ thời Alexandre Đại đế và các người kế nhiệm thuộc Ptolêmê . Truyền thống cổ điển bám rễ, và trong thời kỳ La Mã, Ai Cập nổi tiếng là ngôi nhà của thư viện lớn nhất thời cổ đại, do các vị vua triều Ptolêmê ở Alexandria thiết lập. Buồn thay thiết chế này bị phá hủy trong thời Julius Caesar chiếm đóng thành phố, bị người Thiên Chúa loại bỏ triệt để vào cuối thế kỷ thứ 4 sau CN, và những gì còn sót lại cuối cùng cũng bị những ngọn lửa của người Ả Rập xâm lăng Amr ibn el-As thiêu rụi vào 250 năm sau. Kết quả là bộ sưu tập tuyệt vời này không còn gì cả.

(Trái) Công vực tinh tế trong vực gỡ (tách) những mảnh giấy cói từ những đống chất thải xưa của Oxyrhynchus của La Mã được giao phó cho những công nhân Ai Cập được huấn luyện đặc biệt. (Phải) Một mảnh của Logia Lesou, hay “những lời nói của Jesus”, tìm thấy ở Oxyrhynchus vào những năm 1896 -  97 và nhận được sự quan tâm to lớn của công chúng -  30.000 bản sao của bản công bố lần đầu được bán ra. Kể từ khoảng 1950, người ta thừa nhận là bản Logia sự thật thuộc bản Tân ước của Thomas không chính kinh.

Nhưng những phát hiện rời rạc, lác đác của những văn bản cổ điển trên giấy cói được  làm ở ngoài Alexandria từ thế kỷ thứ 18 - một nhóm 40, 50 văn bản, chẳng hạn, xuất hiện ở Cairo vào 1778, trong đám đó, chỉ có một tìm thấy người mua và phần còn lại được đem đốt vì mùi thơm của chúng. Số lượng các văn bản được đem ra ánh sáng ngày càng nhiều là nhờ Sebakhin trong khoảng năm 1870; nhiều văn bản, tìm thấy ở Meir, được thủ đắc và xuất đi với sự mưu trí đặc biệt của Wallis Budge cho các chủ nhân Bảo tàng Anh Quốc vào năm 1888 và 1889, và cho thấy gồm cả một bản sao “Hiến pháp của Athènes” của Aristotle, cùng những công trình quan trọng của Herodas và Bacchylides.

Flinders Petrie hình như là người đầu tiên tìm các tài liệu của thời kỳ cổ điển theo  mạch văn: ở Hawara vào 1888 - một cuộn Iliad của Homer, Quyển II - và ở Kom Medinet  Ghurab vào năm 1889, từ đồ bọc bằng giấy bìa, ông đã tìm thấy những mảnh của “Laches” và  “Phaedo” của Plato (sao chép lại trong cùng thế kỷ khi tác giả qua đời) và cuốn Antiope bị  thất lạc của Euripides. Thư viện cháy ra tro được Edouard Naville tìm thấy ở Mendes vào  năm 1892 đang ở vào tình trạng thảm hại trong tay một học giả không chuyên. Với sự xuất  hiện liên tục các văn bản trên thị trường - gồm cả, vào năm 1894, một cuộn đầu tiên chứa những luật lệ về lợi tức của Ptolemy II Philadelplus - các học giả cuối cùng nhận thức ra tiềm  năng đầy kinh ngạc của Ai Cập như là một kho tàng cho văn học và ịch sử của thế giới Hy  Lạp và La Mã.

Đó là bối cảnh của địa điểm - khảo sát đầu tiên, tổ chức vào năm 1895 ở Kom Aushim  (Karanis) và Kom el-asl (Bacchias cổ xưa) bởi Bernard P. Grenfell, Arthur S. Hunt và D.G.  Hogarth dưới sự tài trợ của quỹ thăm dò Ai Cập. Đây là thành quả đầu tiên trong nhiều đợt  săn tìm văn bản viết trên giấy cói. Suốt 18 năm sau Quỹ thăm dò Ai Cập, dưới sự chỉ huy của Crenfell và Hunt, tìm thấy một khối (mười, nếu không là một trăm ngàn) tài liệu và mảnh rách  cả về văn học lẫn hành chánh, từ ba địa điểm chính: el-Bahnasa - được mọi người ngày nay  biết đến dưới cái tên Hy Lạp, Oxyrhynchus; Umm el-Baragat (Tebtunis xưa), nơi trú nghĩa  địa cá sấu đã nói ở trên, sau này được người ý đào xới; và el-Hiba.

Một giấy cói của thế kỷ thứ 2 sau CN Oxyrhynchus nêu danh sách của những giám đốc ban đầu của thư viện Alexandria nổi tiếng.

Trong các địa điểm này, chỉ có Oxyrhynchus là gây được sự quan tâm lớn. “Một trong những nơi phát hiện giấy cói lớn nhất và quan trọng nhất ở Ai Cập”, đó là nhận định của “Báo Times”về đợt công tác của Grenfell và Hunt ở đây năm 1896 - 97:

“Địa điểm...gần như không được các nhà buôn bán và tìm kiếm cổ vật đụng đến, và giao cho các nhà khai quật - mọi thứ ở vùng cao Ai Cập giờ hầu như là một vật của quá khứ - một  vùng còn trinh nguyên. Một ít tàn tích của công trình kiến trúc được khám phá, địa điểm được sử dụng như một nơi khai thác đá và gạch, nhưng vô số các ụ rác chứa một cửa hàng phong  phú các giấy cói, trong chỉ ba ụ, số lượng cuộn giấy cói tìm thấy đủ để đảm bảo tóm phần của  kho lưu trữ đã được ném ra đó trong nhiều thời kỳ.

Giấy cói sắp xếp có thứ tự từ thời La Mã chiếm đóng đến buổi đầu Ả Rập, mỗi thế kỷ được miêu tả rộng lớn, và phần được viết bằng chữ Hy Lạp, với rải rác chữ La Tinh, Cốp và Ả Rập. Giám đốc của ông Grenfell hy vọng rằng khi đào bới di chỉ Oxyrhynchus - kỳ vọng tìm thấy tài liệu sớm nhất của Thiên Chúa giáo - hình như có thể thực hiện. Trong đám giấy cói tìm  thấy ở buổi đầu các cuộc khai quật là một lá của cuốn sách bằng giấy cói của thế kỷ thứ ba, có lẻ chứa một sưu tập của Logia, hay lời nói của Chúa. Một vài lời tìm thấy trong mảnh vụn không có ở trong Tân ước. Tuổi, đặc tính và giá trị của những Logia này giống như là chủ đề  tư biện.

Phần tinh túy của bộ sưu tập là ở kích cỡ và điều kiện, bao gồm 150 cuộn giấy cói lớn và nguyên vẹn, trong nhiều trường hợp dài bằng thước (feet) được bảo quản ở Bảo tàng Gizeh; phần còn lại của bộ sưu tập, có phần lớn hơn, tất nhiên, ở trong tình trạng những mảnh vụn, trên đường sang Anh quốc...”

Một khởi đầu ấn tượng, nhưng một vài phát hiện tốt nhất vẫn còn tiếp tục diễn ra: “gần đến hoàng hôn ngày 13/01/1906, chúng tôi chạm đến một nơi, khoảng 6 feet dưới mặt đất, mà vào thế kỷ thứ 3 sau CN là một cái rổ chứa những cuộn giấy cói vứt bỏ đi”. Các văn bản gồm có Paeans (Bài tán ca) của Pindar, một văn bản vô danh “sử gia Oxyrhynchus”, Hypsipyle của Earipides, On Truth (về sự thật)  của Antiphon, và nhiều công trình thất lạc trước đây, như các văn bản của Plato, Thucydides và Isocrates.

Việc sinh viên John Johnson của Hunt khám phá những mảnh giấy thuộc loại hiếm và  có minh họa, ở Antinoe vào năm 1913 - 14 minh chứng thành tựu cao nhất thích đáng cho hai  thập niên tìm tòi để cứu vớt những di sản khổng lồ. Với sự bùng nổ của Đệ nhất thế chiến,  những ngày dành cho người săn giấy cói, cho Quỹ thăm dò Ai Cập đã khép lại và công việc  nghiên cứu sâu việc công bố các phát hiện bắt đầu đi vào hoạt động nghiêm túc.

Arthur Hunt nghiêm trang chụp cùng với Bernard Grenfell ngoài lều dùng làm nơi làm việc ở Oxyrhynchus. Những người bạn vĩ đại, “cùng với nhau họ công bố khá nhiều về số lượng và với một độ chính xác, nhạy bén cao hơn họ làm một mình”.

CÁC VĂN BẢN VĂN HỌC CÓ TIẾNG

Tìm thấy ở các ụ rác ở Oxyrhynchus

TÁC GIẢ

VĂN BẢN TÌM THÂY

Aeschylus

những phần của nhiều vở kịch thất lạc

Alcaeus

những mảnh mới

Vô danh

lịch sử Hy Lạp thế kỷ thứ 4 trước CN

Callimacchus

mảnh

Cercidas

Meliambi

Euripides

Hypsipyle

Pindar

những bài tán ca, các bài thơ thất lạc khác

Sappho

mảnh mới

Sophocles

Ichneutae

Vô danh

Logia hay những lời nói của Jesus

Vô danh

Tân ước của Thánh John

 

 

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/215-02-633353876197735000/Nhung-nam-thang-Vinh-quang-1881-1914/Cac-v...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận