“CUỘC CÁCH MẠNG THÁNG 11 NĂM 1974
Mô hình quark dự đoán sự tồn tại của các trạng thái liên kết gồm các quark và phản quark giống nhau
. Hai trạng thái đầu đã được biết từ lâu: đó chính là meson lao với khối lượng 140 MeV. Trong những năm l960, đã phát hiện meson với khối lượng 1020 MeV mà thành phần quark của nó là
. Tháng 11 năm 1974 đã diễn ra sự kiện làm xốn xang giới vật lý, được gọi là ''cuộc cách mạng tháng Mười một''. Vào cùng một thời kỳ trên hai máy gia tốc (ở Brookhaven và Stanford) đã phát hiện một hạt cơ bản mới có spin l và khối lượng 3100 MeV, có các tính chất kỳ lạ, mà trước hết là thời gian sống rất lớn (theo các quy mô hạt nhân).
Nhiều nhà lý thuyết đã phân tích chi tiết diễn biến của hạt mới này, và ''cuộc tấn công bằng trí não'' đã chứng tỏ khả năng duy nhất để giải thích các tính chất của nó là phải cho rằng hạt tìm được là trạng thái liên kết của quark thứ tư với phản quark tương ứng:
.
Hạt này có hai cách ký hiệu
được hai nhóm vật lý phát hiện đồng thời, do vậy những người lãnh đạo hai nhóm này là Samuel Ting tức Đinh Triệu Trung (sinh năm 1936) và Berton Richter (sinh năm 1931) đã được nhận giải thưởng Nobel vào năm 1976.
Việc các nhà vật lý xốn xang vì phát hiện hạt
cũng dễ hiểu: điều đó đã chứng minh được sự tồn tại của quark thứ tư quark c. Về mặt tâm lý, điều đó rất quan trọng, vì mô hình quark đã được xem chỉ như là một trong nhiều phương án lựa chọn. Sau ''cuộc cách mạng tháng 11'' mô hình này đã được mọi người thừa nhận.
Cũng thời đó, vào những năm 1970, với việc các máy gia tốc mới được đưa vào hoạt động ở Mỹ (Phòng thí nghiệm mang tên E. Fermi, Chicago) và ở Thụy Sĩ (CERN = Trung tâm nghiên cứu hạt nhân châu Âu, Geneva), các nhà bác học đã có khả năng ''nhìn thấy'' nếu không phải là các quark, thì cũng là ''cái bóng'' của chúng trong thí nghiệm kinh điển về tán xạ của các hạt năng lượng lớn trên bia (thực ra là giống với thí nghiệm của Rutherford).
Ai cũng biết rằng năng lượng của hạt thử càng lớn thì ''khả năng phân giải'' của nó càng cao. Chẳng hạn giả sử proton bị bắn phá bởi electron. Tương tác giữa chúng diễn ra nhờ trao đổi lượng tử
. Năng lượng và xung lượng của electron ban đầu càng lớn thì xung truyền cho proton cũng càng lớn. Photon đóng vai trò que dò tìm kiếm các quark trong proton. Nếu bước sóng tương ứng đủ nhỏ (nghĩa là năng lượng và xung lượng electron đủ lớn), thì có thể phân biệt được tán xạ lên một hạt quark này với tán xạ lên hạt quark khác. Xuất phát từ giả thiết cho rằng các photon tán xạ lên các thành phần riêng lẻ của proton, dựa vào các số liệu tán xạ, người ta đã tính được giá trị điện tích của các quark. Nó bằng hoặc 2/3e hoặc 1/3e, hoàn toàn phù hợp với giả thiết của Gell-Mann. Dần dần, những hoài nghi về sự tồn tại của các quark cung mất dần.