Tài liệu: Franz (Peter) Shubert (1797 - 1828)

Tài liệu
Franz (Peter) Shubert (1797 - 1828)

Nội dung

FRANZ (PETER) SCHUBERT (1797 - 1828)

 

FRANZ (PETER) SCHUBERT, nhà soạn nhạc vĩ đại người Áo, chủ nhân của những giai điệu tuyệt vời và nhiều bài thơ trữ tình. Ông ra đời tại Himmelpfort - Grund nước áo ngày 31-1-1797 và mất tại Vienna ngày 19-1-1828. Schubert bắt đầu sáng tác khi còn học ở trường, ông đã viết bản Fantasie dành cho song tấu piano, nhiều nhạc phẩm thính phòng, khúc dạo đầu và bản Singspiel chưa hoàn thành. Der Spiegelritter Hagars Klage là bài hát đầu tiên của ông được viết ngày 30-3- 1811. Mặc dầu còn rất trẻ nhưng ông đã bắt đầu sáng tác nhiều thể loại. Giữa những năm 1813 - 1816, ông đã sáng tác 5 bản hòa tấu, 4 bản thánh ca, nhiều khúc tứ tấu dành cho đàn dây, vài vở nhạc kịch và viết vở opera đầu tiên. Sau đó ông cho ra đời một số bài thơ nổi tiếng. Schubert viết Gretchen am Sinnrade khi mới 17 tuổi; 18 tuổi, ông đã có tác phẩm thanh nhạc Erlkonig bi tráng đầy sức cuốn hút. Schubert chưa phát huy hết khả năng kỳ lạ có thể sáng tác dễ dàng; trong suốt năm 1815, ông đã sáng tác khoảng 140 bài hát, và chỉ riêng trong ngày 15- 10 năm đó, ông đã viết được 8 bài thơ. Từ những phác thảo của mình, ông có thể dễ dàng phổ nhạc. Đầu tiên, ông viết giai điệu bản nhạc, trình bày sơ qua cách hòa âm và sau đó viết lại bài hát một cách hoàn chỉnh, ông thường buộc phải hoàn thiện các nhạc phẩm khác cùng một lúc. Schubert thân với các nhà thơ Johann Mayrhofer, Franz Vonschober và đã phổ nhạc một số bài thơ của họ. Năm 1817, ông ở với Schober và bà mẹ góa của Schober, người đã giúp ông thu xếp để trả các khoản chi tiêu sinh hoạt.

Một số tác phẩm đã phổ nhạc đáng chú ý cho giai đoạn này gồm Three Harfenspieler, Der Wanderer, Der Tod und Das madchen, Ganymed, An die Musik Die Forene. Năm 1820, một bản hợp tấu ngẫu nhiên của ông dành cho vở kịch Die Zauberharfe được biểu diễn tại Nhà hát Ander Wien, bản hợp tấu này với phần mở màn sau đó đã trở nên phổ biến trong các buổi hòa nhạc dưới cái tên Rosamunde Ouverture (Khúc mở màn Rosamunde), mặc dầu nó không phải là bản hợp tấu sáng tác cho sân khấu kịch.

Tuy gặp rất nhiều khó khăn trong việc kiếm sống, Schubert vẫn tập họp một nhóm những người bạn có thế lực ở Vienna và xuất hiện trong vai trò nghệ sĩ piano ở các buổi hòa nhạc quý tộc. Thỉnh thoảng ông cũng hát những bài hát do mình sáng tác và tự đệm đàn. Một điều bí ẩn được gán cho tác phẩm nổi tiếng của ông, bắt đầu vào năm 1822, Bản hòa tấu cung Si thứ được phổ biến như là bản hòa tấu “chưa hoàn chỉnh”. Chỉ có hai phần được biết là còn tồn tại, đoạn trích của phần thứ ba, khúc Scherzo còn lại trong bản thảo viết tay của ông. Cái gì đã cản trở ông hoàn thành tác phẩm này? Nhiều lời đồn đại cho rằng chúng không có giá trị, đặc biệt từ đó ông thường xuyên cẩn thận hoàn thiện tác phẩm trước khi đem công diễn trong các buổi hòa nhạc. Năm 1823, ông hoàn thành một tập bài hát có tên Die Shore Mullerin. Năm 1827, Schubert hoàn thành tập bài hát đáng chú ý khác Die Winterreise. Ngày 26-3-1828, ông giới thiệu tại Vienna một buổi hòa nhạc công khai những tác phẩm của mình. Kể từ năm đó, những tác phẩm cuối cùng của ông được coi là những kiệt tác như: Bản Sonata cung La trưởng, bản Sonata cung Si giáng trưởng, bản Tứ tấu dành cho đàn dây cung Đô trưởng và 2 quyển sách tập hợp những bài hát nổi tiếng như Schwanen-gesang. Lúc này sức khỏe của ông đã suy yếu và ông chuyển về sống với anh trai tên là Ferdinand. Vào chiều ngày 19-11-1828, ông đã qua đời khi mới 31 tuổi.

Schubert luôn được miêu tả như người sáng tạo ra thể loại Stropic lieder (bài hát dành cho piano độc tấu); tuy nhiên chính Carl Fiedrich Zelter mới là người sáng tạo ra thể loại Stropic lieder trước Schubert. Cái mà Schubert thật sự sáng tạo là một tuyển tập những bài ca đẹp không gì so sánh được, tiêu biểu cho kỷ nguyên của sự bày tỏ tình cảm và truyền đạt sâu sắc những tình cảm xúc động, từ những cảm xúc vui vẻ thái bình cho tới nhu cầu thoát khỏi nỗi sầu cảm, từ suy nghĩ triết học cho đến nghệ thuật sôi động.

Nói một cách khác, những tác phẩm Moment musicaux, Impromptus của Schubert và các tác phẩm dành cho piano là những bài hát không có nội dung. Trong nhiều trường hợp, ông sử dụng chất liệu âm nhạc trong các bài hát của mình để sáng tác các tác phẩm nhạc khí. Ví dụ như tác phẩm Wanderer Fantasia cho piano được ông viết dựa trên bài hát Die Forellen. Chương hai của bản tứ tấu cho đàn dây cung Rê thứ là các biến tấu trong bài hát Der Tod  und das Madchen của ông. Nhưng ông không có các tác phẩm lớn dành cho sân khấu hay các khúc thánh ca (oratorios).

Mặc dù các bản sonata của ông được viết rất dài, nhưng không được công nhận rộng rãi và được xây dựng dựa trên sự tóm tắt đối xứng. Âm nhạc của ông cuốn hút thính giả không bởi việc hồi tưởng những trạng thái khác nhau, mà bằng sự hồi tưởng niềm vui hạnh phúc.

Có những bất đồng lớn giữa Schubert và Robert Schumann, cả hai là những nhà thơ theo trường phái lãng mạn của nền âm nhạc. Schubert luôn làm thoả mãn cùng với sự gợi nhớ cho thính giả về những đoạn họ đã nghe, còn Tobert Schumann luôn thay đổi chúng. Thực vậy, Schubert là một nhà sáng tác giỏi nhất trong kỷ nguyên thơ và phần lớn bài hát theo thể tự do không theo nhịp.

Có sự nhầm lẫn về các bản hòa tấu của Schubert. Tác phẩm cuối cùng hiện nay được xếp vào danh sách là bản hòa tấu số 9; còn bản hòa tấu số 7 thì bị quên không liệt kê, nó tồn tại như một bản thảo đầy đủ trong bốn phần có 110 nhịp đầu tiên là đầy đủ nguyên văn bản nhạc. Chính vì vậy đã xuất hiện nhiều sự bổ khuyết, tác phẩm số 3 được coi mang đậm phong cách âm nhạc của Schubert nhất thì lại bị cho là của Gian Newbould viết năm 1977, bắt chước khéo léo phong cách sáng tác của Schubert. Tiếp đó là bản giao hưởng số 8 chưa hoàn chỉnh. Ngoài ra còn có các bản giao hưởng khác mang tên là Gmunden hoặc Gastein, vì ông đã sáng tác ở Gastein Tirol năm 1825. Một tác phẩm nữa không được xác định trong một thời gian dài, cuối cùng đã được công nhận là một bản hòa tấu cung Đô trưởng vĩ đại. Không thể tin được rằng cho đến tận năm 1978, điều đó mới được làm sáng tỏ bằng cách này hay cách khác. Người ta đã bỏ lỡ một phần của âm nhạc trong những văn bản tại thư viện bản thảo ở Vienna. Một phác họa khác trong bản giao hưởng của Schubert được sáng tác trong suốt những ngày tháng cuối đời của ông. Tác phẩm này không có thật, nhưng sự hấp dẫn diệu kỳ của thiên tài Schbert đã được Brian Newbould hoàn thành, nó được coi như tác phẩm thứ 10 của ông.

Việc thừa nhận tầm quan trọng của Schubert chậm chạp một cách đáng kinh ngạc. 40 năm trời qua trước khi tìm thấy bản viết tay của bản giao hưởng chưa hoàn chỉnh và thực hiện xuất bản các tác phẩm sau khi tác giả qua đời là quá chậm trễ. Nhạc sĩ Schumann là một người rất nhạy cảm với thiên tài vĩ đại Schubert. Ông đã rất sốt sắng công nhận tài năng xuất chúng trong các bản giao hưởng của Schubert mà ông đã phát biểu với lòng ngưỡng mộ về độ dài tuyệt vời của các bản giao hưởng này. Nhưng phải nửa thế kỷ sau, Schubert mới được chính thức công nhận là một nhạc sĩ vĩ đại trong lịch sử âm nhạc (trong đó có cả Chopin).




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1055-02-633389209178940778/Am-nhac/Franz-Peter-Shubert-1797---1828.h...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận