Người ta hiểu gì về phôi?
Vỏ trứng với kích thước hạn chế thực ra là giới hạn của lượng thông tin có thể thu thập bằng mắt thường. Ngay cả trong những năm gần đây, khi các nhà phôi học phát hiện ra một đồng minh mới là cá bơn sọc Danio rerio có phôi trong suốt ở tất cả các giai đoạn phát triền của nó cũng vậy. Về mặt lịch sử, phải đợi đến thế kỷ XVII với sự ra đời của kính hiển vi, người ta mới hy vọng nhìn thấy phôi. Giữa thế kỷ XIX, các tiến bộ về phôi học đã được thúc đầy nhờ việc hoàn chỉnh các kỹ thuật nghiên cứu mô: thành tựu cắt mô, cố định và nhuộm mô đã giúp khắc phục những khó khăn do thời gian của các quá trình sử dụng quy định. Sau hết, nhiều kỹ thuật xuất hiện ở thế kỷ XX đã cho phép quan sát phôi mà không cần phải tách phôi ra khỏi môi trường của nó. Các kỹ thuật này có lợi về mặt y học, vì chúng được thực hiện vào những lúc phôi phát triển quan trọng, nhất là thai (như phôi người từ tám tuần tuổi). Trong những năm 1950, phép ghi siêu âm sản phụ đã phát triển, là kỹ thuật sử dụng dao động cao tần của siêu âm. Siêu âm có thể xuyên qua các mô, phản hồi (dội lại) khi gặp giới hạn của một cơ quan, các mô khác hoặc thành mạch máu. Khi ấy chúng được chuyển thành tín hiệu điện, rồi thành hình ảnh. Vào cuối những năm 1970, công nghệ chụp ảnh động cũng dựa vào sử dụng siêu âm, đã giúp dựng lại các chuyển động ngẫu nhiên của những cấu tạo được khảo sát theo thời gian thực. Đôi khi công nghệ này được bổ sung bằng phương pháp phân tích Doppler cho phép nghiên cứu mạch máu và sự tuần hoàn của máu.