PHÂN RÃ
Về mặt lịch sử, ví dụ đầu tiên về tương tác yếu là hiện tượng phân rã phóng xạ (gọi là phân rã của các hạt nhân nặng, kết quả là thu được hạt nhân có điện tích lớn hơn một đơn vị và một electron bay ra. Rutherford đã phát hiện ra các tia (các electron do các nguồn phóng xạ phát ra).
Vào những năm 20 của thế kỷ XX, người ta đã đo được khá chính xác năng lượng của electron bay ra trong phân rã đo được khối lượng của hạt nhân đầu và cuối. Hóa ra là năng lượng của các electron có bất kỳ giá trị nào, nằm trong một khoảng xác định. Nếu tham gia phản ứng chỉ có hạt nhân đầu và cuối cùng với electron, thì theo định luật bảo toàn năng lượng, tổng năng lượng của hạt nhân cuối và của electron phải bằng năng lượng của hạt nhân đầu.
Nhưng đẳng thức này không được thực hiện. Tất cả diễn ra như thể hình như một phần năng lượng đã biến mất tăm. Tình hình đã nghiêm trọng tới mức, có thời người ta còn tranh luận về ý tưởng ''điên rồ'' của Niels Bohr cho rằng trong phân rã không phải bao giờ cũng tuân theo định luật bảo toàn năng lượng!
Cuối cùng thì vào năm 1930, một người Thụy Sĩ tên là Wolfgang Pauli đã tìm ra lời giải đúng cho bài toán. Ông nêu ra ý nghĩ rằng một hạt trung hòa điện tương tác yếu với vật chất và do vậy không ghi được đã lấy mất phần năng lượng này. Fermi đề nghị gọi hạt này là nơtrinô (hạt nơtron bé). Nhưng điều đó đã xảy ra sau khi phát hiện ra nơtron. Khi đó mới hiểu rõ là phân rã là do sự phân rã một trong các nơtron của hạt nhân kết quả là sinh ra phản nơtrinô, electron, và tích lepton tổng cộng của e- và bằng không, đúng như đòi hỏi của định luật bảo toàn số lepton (0 = +l - l).