TRIẾT LÝ VÔ NGÔN CỦA NHÀ PHẬT
Triết lý vô ngôn của nhà Phật bắt đầu từ hội Linh Sơn, khi Đức Phật cầm cành hoa sen đưa lên có ý khai thị, cả hội chúng đều im lặng, chỉ có mình Maha Ca Diếp (Mahakasyapa) mỉm cười. Phật liền nói:''Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, pháp môn màu nhiệm, nay ta phó chúc cho ngươi”. Ấy là Phật di tâm truyền tâm cho Ca Diếp. Phép đó từ Ca Diếp truyền xuống trải qua 28 đời đến Bồ Đề Đạt Ma (Bod-hidharma), vị đại sư này vượt biển sang Trung Quốc ở Chùa Thiếu Lâm, sáng lập ra phái Thiền tông, Bod-hidharma trước khi viên tịch có đề nghị các môn đồ nói lên chỗ sở đắc của mình, riêng chỉ có Huệ Khả là không nói năng gì cả (vô ngôn) chỉ bước ra đành lễ ngài ba lạy rồi trở lại đứng y chỗ cũ. Bod-hidhama nói: ''Ngươi được phần cốt tuỷ của Đạo ta rồi''. Đó là sự nối tiếp phương châm ''dĩ tâm truyền tâm'' vì Đạo bản vô ngôn, ngôn sinh ly tán.
Triết lý vô ngôn tức triết lý không lời, triết lý về sự im lặng. Cái đó có vẻ mâu thuẫn, vì đã triết lý thì phải có sự lập luận, chứng cứ rõ ràng, lôgic chặt chẽ, nhưng ở đây tất cả đều yên lặng, giống như một con thuyền trống không vượt biển dưới ánh trăng huyền ảo như trong câu thơ của một vị Thiền sư:
Tịnh tịnh lăng già nguyệt
Không không độ hải chu.
Nhưng người ta cũng thường nói: lúc yên lặng (vô ngôn) chính là lúc nói nhiều nhất. Theo đó mà xét thì, triết lý vô ngôn còn phong phú hơn cả triết lý hữu ngôn. Học triết lý vô ngôn mới khó. Cái đó giống như điều Gamzatov nói: ''Người ta cần hai năm để học nói, nhưng cần đến sáu mươi năm để học yên lặng''. Mỗi con người trong cuộc đời đều trải qua ba giai đoạn: vô ngôn - hữu ngôn - vô ngôn (yên lặng). Cái vô ngôn ban đầu là con người chưa biết nói. Trải qua giai đoạn hữu ngôn ồn ào, diễn thuyết, tuyên truyền, cổ động, con người đã đạt tới mức viên mãn cả về cuộc đời lẫn kinh nghiệm sống, đã có một bề dày kiến thức cũng như tri thức và khi ánh hoàng hôn cuộc đời đang từ từ tắt dần thì con người mới hiểu ra cuộc sống con người thật ngắn ngủi, mọi cái điều vô nghĩa, ngôn ngữ cũng chẳng giúp ích được gì nhiều hơn, và họ mang theo bao điều bí ẩn trở về với cát bụi. Cái vô ngôn sau không phải là hoàn toàn không nói, yên lặng tuyệt đối mà theo nghĩa ngày càng tiến dần tới nấm mồ, con người ngày càng ít nói, ngày càng yên lặng.
Trước khi tìm hiểu triết lý vô ngôn của nhà Phật, ta hãy tìm hiểu ngôn (ngữ) là gì? Trước hết, ngôn ngữ là một dạng thông tin mà con người dùng để giao tiếp, biểu lộ tâm tư tình cảm và để phản ánh hiện thực. Sự xuất hiện của ngôn ngữ đã đánh đấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử tiến hoá văn minh của loài người. Ngôn ngữ là một trong những tiêu chí phân biệt giữa người và động vật. Nhờ có ngôn ngữ và lao động mà tư duy con người đã vượt xa động vật, quan hệ giữa người được mở rộng, sự trao đổi thông tin của con người với môi trường xung quanh được thay đổi căn bản. Nhưng cũng như bao hiện tượng khác, ngôn ngữ cũng có mặt trái của nó.
Về mặt nhận thức, ngôn ngữ là công cụ phản ánh hiện thực. Đã là phản ánh hiện thực thì có phản ánh đúng, phản ánh sai, thậm chí hư ảo nữa. Điều đó thể hiện trong lý thuyết khoa học một số học thuyết tôn giáo. Ở đây ta thấy một điều: phản ánh hiện thực không đồng nhất với bản thân hiện thực, cũng như mọi phân tích suy lý trong đầu, mọi văn tự ngôn ngữ ở mọi dạng, chúng không phải là thực tế khách quan bên ngoài. Ngôn ngữ, khái niệm đã phân biệt hiện thực thành những mảnh nhỏ, bởi lẽ mỗi khái niệm đều có giới hạn phạm vi, có nội hàm, ngoại diện nhất định. Khoa học đã chẻ hiện thực thành những mảnh nhỏ đó để phân tích sau đó lại tổng hợp lại. Hiện thực ở đây giống như quả cam. Khi không biết quả cam là gì thì không thể nghiên cứu quả cam nếu không bổ nó ra phân tích xem xét. Sau thao tác đó, việc tổng hợp ghép các mảnh lại, thì quả cam bây giờ không còn là quả cam nguyên si ban đầu. Theo cách nói này thì việc phân tích, mổ xẻ làm mất đi hương thơm của cuộc sống. Nhưng thử hỏi, nếu không phân tích mổ xẻ thì khoa học, kỹ thuật sẽ đi đến đâu? Nhờ có phương châm phân tích mà cơ khí máy móc mới ra đời, khoa học mới lần lượt phát hiện hết cái này đến cái khác, từ bản chất cấp một đến bản chất cấp hai và đến vô hạn.
Ngôn ngữ, một mặt làm cho con người hiểu biết nhau, thông cảm và giúp đỡ nhau; mặt khác còn làm cho mọi người hiểu lầm nhau, càng xa nhau. Ngôn ngữ có thể sinh ra hoà bình ổn định, cuộc sống yên vui, nhưng cũng có thể gây nên chiến tranh, bất hoà và sự đổ nát.
Ngoài ra, ngôn ngữ còn có những hạn chế của mình. Nó chỉ diễn tả được hiện tượng giới, còn khi nói đến bản thể, cái tuyệt đối thì nó tỏ ra bất lực. Càng bám bíu vào ngôn ngữ, càng xa rời bản thể. Dùng cái có hạn để mô tả cái vô hạn là không thể được. Cho nên thái độ đúng đắn nhất là để trực nhận bản thể, là im lặng (vô ngôn), lìa xa ngôn ngữ, văn tự. Đó là thái độ mà Đức Phật đã áp dụng sau khi chứng Đạo dưới gốc bồ đề và khi các đệ tử hỏi Ngài về những vấn đề siêu hình: Im lặng cũng là một cách trả lời dựa trên một quan điểm hoàn toàn xác định. Ngài cho rằng, vấn đề cấp bách không phải là những vấn đề siêu hình không thể giải quyết được từ hết thế hệ này sang thế hệ khác mà là vấn đề cứu khổ. Việc cứu khổ cấp bách như mũi tên thuốc độc đang cắm vào người đời. Lúc này, phải ngay lập tức rút mũi tên ra, chứ không phải là đứng hỏi những vấn đề như mũi tên làm bằng gì, nó đi từ đâu đến, ai bắn, tại sao lại bắn ta v.v... Nếu hỏi như vậy, ta e rằng chưa kịp hỏi xong thì ta đã tắt thở. Những vấn đề siêu hình chỉ có lợi khi ta tách rời khỏi cuộc sống, còn khi ta hoà mình với cuộc sống, ta với cuộc sống làm một, thì tự bản thân chúng ta sẽ biến mất. Điều này cũng giống như con trâu đất đứng trên bờ biển hỏi: Vũ trụ sinh ra từ đâu, nó đi về đâu, ta sinh ra để làm gì, cho ai v.v... Nhưng khi vừa bước chân xuống uống nước thì nó lập tức hoà tan với nước.
Mặt khác, nếu im lặng (vô ngôn) thì làm sao có thể dẫn dắt người đời, cho họ nhận ra chân lý tối hậu. Nên cuối cùng Đức Phật đã nói. Nhưng chỉ khi nói đến điều khó nhất - bản thể, thì Ngài không thể dùng lối nói thông thường được. Do đó, ta thấy trong Kinh có những câu nói mà ta có cảm giác vô cùng phi lý, đầy mâu thuẫn. Chẳng hạn, bài kệ mà Đức Phật phó chúc cho ngài Ca Diếp:
Pháp bản pháp vô pháp
Vô pháp pháp diệu pháp
Kim phó vô pháp thời
Pháp pháp hà tằng pháp.
Mặc dù nói như thế nhưng Đức Phật vẫn sợ người đời chấp vào những câu nói đó, nên Ngài lại phải hỏi thêm rằng chân lý như Mặt trăng, giáo lý của ta như ngón tay chỉ Mặt trăng; rằng Như Lai suốt đời chưa hề nói một chữ. Theo Ngài, y theo kinh điển mà giải thích nghĩa thì oan cho Tam thế chư Phật, nhưng lìa kinh điển ra một chữ thì lại đồng với ma thuyết.
Trong các tông phái Phật giáo, Thiền tông là khuynh hướng đi theo phương châm Vô ngôn tương đối triệt để. Nếu ở Ấn Độ, phương pháp ''Dĩ tâm truyền tâm'' được thể hiện một cách tế nhị như “Nghiêm hoa vi tiếu” thì ở Trung Hoa, nó được bổ sung bởi nhiều hình thức khác vô cùng phong phú như hét, đánh, cấu véo, đạp và nói những lời cực kỳ vô lý. Phương pháp ''Dĩ tâm truyền tâm'' được Bodhidharma mang sang Trung Hoa và được cụ thể hoá bằng bốn nguyên tắc: ''Bất lập văn tự, giáo ngoại việt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”. Ông giải thích giáo lý chỉ có thể giúp đỡ người ta chuẩn bị, giáo lý không thể tạo ra sự giác ngộ, không có bất cứ một cuốn Kinh nào hay bất kỳ một sự tu khổ hạnh nào có thể đưa ta ra khỏi luân hồi. Sự học Kinh và sự tu khổ hạnh hoàn toàn vô ích, phù phiếm. Không có quyển sách nào đáng cho ta mở ra đọc. Chỉ học nhìn thấy Phật tính mới là điều duy nhất đáng học. Tất cả những hình tượng khác đều chỉ là mây mù và ảo ảnh. Hãy nhìn Phật nơi mình, đó mới là sự nhìn thấy chân thực duy nhất thôi, Phật tính, tâm ta không diễn tả được cũng không thể giải thích bằng những lời nói. Vì không thể nói ra nên tất cả những Kinh luận là vô ích. Mỗi người hãy tự chiêm ngưỡng, lĩnh hội Phật tính nơi mình. Không thể dùng ngôn ngữ hệ có thể mô tả và truyền đạt được. Mộng không thể học được, chết không thể học được, lãnh hội Phật tính nơi mình, lại càng không thể học được. Muốn kiến tính thì không còn cách nào khác là chỉ thẳng vào tâm “Trực chỉ nhân tâm”, bởi vì Tâm là Phật và Phật chính là Tâm, không có Phật ngoài Tâm. Vậy phải nhìn vào trong chứ không phải nhìn ra ngoài: Phải tự lắng mình vào mình và tự nhìn thấy Phật tính nơi mình. Kiến tính là một hành động giản dị vì sự kiến tính không gồm những thành phần vì thế không thể tri và hành từng thành phần một. Sự kiến tính cũng như nuốt đồ ăn, nó giản dị và lập tức như thế, người ta không bao giờ thuyết giảng viển vông xung quanh sự nuốt đồ ăn ấy; ta biết nuốt hay không biết nuốt, chỉ có thế thôi.
Nếu nợ nần về tinh thần, tình cảm, thực sự chỉ có thể trả bằng tinh thần tình cảm, vì truyền chân lý tuyệt đối thực sự chỉ có thể từ tâm sang tâm. Nói là truyền nhưng không phải truyền mới thực sự là truyền. Ngôn ngữ chỉ là vật cản trên con đường thực chứng thể nhập. Ở Việt Nam, ông Tổ của phái Thiền đầu tiên Vinitaruci được truyền tâm ấn từ Tam Tổ Tăng Xán bằng con đường vô ngôn, khi Tổ tiến lên ba bước, vái lạy ba lạy và Tăng Xán gật đầu ba cái. Phái Thiền thứ hai ở Việt Nam mang tên ''Vô ngôn thông'' (Vô ngôn, không có ngôn ngữ, im lặng mà thông hiểu). Một Thiền sư của giòng này nói:
Nực cười đội khác Thiền gia
Sao đem ngôn ngữ để mà truyền tâm
Triết lý vô ngôn là triết lý về sự im lặng. Sự im lặng bên ngoài là sự phản ánh im lặng bên trong. Chỉ có những người đạt tới một trình độ nhất định mới có sự im lặng, còn đại đa số là ầm ĩ, ồn ào, khuếch trương, lăng nhăng lít nhít. Dân ta thường nói: "Thùng rỗng kêu to'' là vậy. Nếu lời nói là quý thì im lặng còn quý hơn nhiều. Tục ngữ Thế giới cũng có câu ''Ngôn ngữ là bạc, im lặng là vàng”. Những nơi yên lặng nhất là những nơi sâu thẳm nhất. Nguyễn Du cho rằng Chân Kinh là Kinh không chữ. Đường Huyền Trang sang Tây Trúc lấy Kinh lần đầu toàn Kinh không chữ. Để kết luận tôi xin dẫn ra lời của một vị Thiền sư: ''Bầy chim hót giữa những bông hoa hương thơm ngào ngạt, tiếng chim hót của bầy chim ở đâu, đó là lời, còn hương thơm ngào ngạt đó là sự im lặng, nơi đó trú ngụ chân lý”.
MINH KHÔNG