Bão Cát Chương 7

Chương 7
Ngày 2 tháng 12, 5 giờ 34 phút chiều Sân bay quốc tế Seeb

Painter rảo bước sau chiếc xe chở đầy dụng cụ và thiết bị. Cái nóng hầm hập trên đường băng dường như làm tan chảy lượng ô xy trong không khí, chỉ để lại chút ẩm ướt đủ cháy khô cả phổi. Painter lấy tay quạt quạt trước mặt. Không phải để cho mát, một việc làm không tưởng ở đây mà đơn giản chỉ làm khuấy động không khí đôi chút để dễ thở.

Cuối cùng thì họ cũng đi được. Họ đã bị giữ lại trong ba tiếng đồng hồ trong máy bay do việc tăng cường các biện pháp an ninh sau khi có âm mưu bắt cóc một trong những cộng sự của Kensington. Rõ ràng, vụ việc đã được giải quyết khiến họ được phép rời đi.

Coral bước sau họ, cặp mắt nhìn khắp nơi, băn khoăn. Dấu hiệu duy nhất của đợt nóng cuối chiều muộn mằn thấy được trên người cộng sự của anh là những giọt mồ hôi lấm tấm ở cặp lông mày. Cô đã dùng một tấm khăn màu be quấn lên che mái tóc vàng của mình; tấm khăn do Safia tặng được gọi là lihaf - một sản vật địa phương.

Painter vẫn rảo bước về phía trước.

Ánh nắng mặt trời chiếu xuống thấp tạo ra muôn vàn ảo ảnh trên bề mặt sân bay, với tới tất cả mọi chỗ, kể cả tòa nhà màu xám nơi họ đang hướng tới. Các quan chức hải quanOmantrong bộ đồng phục màu xanh sẫm tháp tùng họ trong khi nhóm đại diện do vị Suntan cử đến đi hai bên.

Những người đó đều ăn mặc theo kiểu truyền thống của đàn ôngOmanvới áo trắng dài không cổ có tay gọi là dishdasha, khoác bên ngoài là một chiếc áo màu đen thêu kim tuyến vàng. Họ cũng quấn khăn trên đầu và đeo thắt lưng da điểm bạc. Trên thắt lưng, mỗi người còn đeo một con dao truyền thống gọi là khanjar. Trong trường hợp này, nó là loại dao Saidi, bằng bạc hay vàng nguyên chất, một dấu hiệu của tước vị trong xã hộiOman.

Kara, bước sau Safia và cậu sinh viên mới tốt nghiệp đang tranh luận rất sôi nổi với những người kia. Hình như tốp tiền trạm của đoàn thám hiểm, tiến sỹ Omaha Dunn và cậu em trai đang bị cảnh sát tạm giữ. Chi tiết của vụ bắt cóc không thành này xem ra vẫn còn mờ nhạt.

"Thế Danny có sao không?" - Safia hỏi bằng tiếng A-rập.

"Ổn, ổn cả, thưa quý cô", một người tháp tùng trả lời, "mũi bị bầm giập, còn không sao cả. Anh ta đang được chăm sóc, tôi xin khẳng định với quý cô như vậy"

Kara nói với viên quan chức đứng đầu, "Vậy liệu bao lâu nữa chúng tôi có thể khởi hành?"

"Quốc vương Suntan Qaboos đích thân sắp xếp việc vận chuyển của các vị tới Salalah. Sẽ không có vấn đề gì bất trắc xảy ra. Nếu như chúng tôi biết sớm, các vị sẽ được đích thân tháp tùng bởi... ".

 

Kara chặn ngay câu nói của ông ta bằng tiếng A-rập


"Kif, kif… Thôi, thôi được rồi, chừng nào chúng tôi không bị chậm trễ".

Một cái cúi đầu thay câu trả lời. Thái độ nhẫn nhục của ông ta trước câu nói thô bạo của Kara chứng tỏ ảnh hưởng lớn của cô ởOman.

Quá quắt nếu gọi là không làm rùm beng, Painter ngẫm nghĩ.

Anh hướng sự chú ý sang người bạn đồng hành của Kara. Vẻ lo lắng hằn rõ trên đuôi mắt Safia. Cảm giác bình yên tạm thời vào cuối chuyến bay đã biến mất khi nghe kể về chuyện trục trặc xảy ra tại đây. Nàng nắm chặt món hành lý xách tay, nhất định không chịu đặt lên chiếc xe đẩy.

Tuy nhiên, nét quả cảm vẫn ánh lên trong đôi mắt nàng, hoặc chỉ là ánh vàng lấp lánh trong đôi mắt màu hổ phách. Anh nhớ lại lúc nàng treo lơ lửng trên mái vòm thủy tinh của Bảo tàng. Anh cảm nhận được sức mạnh tiềm tàng trong nàng, che giấu ở một nơi rất sâu nhưng vẫn có mặt. Ngay cả vùng đất này hình như cũng nhận ra điều đó. Mặt trời chiếu như thiêu đốt mọi thứ ở Oman, hắt lên nước da của Safia như chào đón nàng, biến những đường nét trên người nàng thành màu đồng. Vẻ đẹp của nàng vẫn thầm lặng như trước đây nay sáng lên rực rỡ giống như một viên ngọc quý được làm đẹp lên bằng khung cảnh
tuyệt vời.

Cuối cùng thì đám người cũng đã tới khu vực riêng biệt tại sân bay, tới những cánh cửa dẫn vào một ốc đảo mát mẻ có điều hòa nhiệt độ. Đó là khoang VIP. Tuy vậy, họ chỉ lưu lại ở c đảo một thời gian rất ngắn. Các thủ tục nhập cảnh được thực hiện chóng vánh. Người ta chỉ liếc qua hộ chiếu rồi cộp thị thực nhập cảnh, 5 người bọn họ tách ra trên hai chiếc Limousine: Safia và cậu sinh viên cùng Kara đi một xe còn Coral và Painter đi xe khác.

 

"Hình như sự có mặt của chúng ta không được hoan nghênh lắm thì phải," Painter bình luận khi ngồi xuống ghế. Coral ngồi xuống cạnh anh.

Phía trước, bên cạnh người lái xe là một gã người Ailen béo mập có một khẩu súng nhét trong ổ súng quàng trên vai. Painter cũng để ý thấy có hai chiếc xe tháp tùng, một chiếc chạy trước xe Limousine của Kara còn chiếc kia theo đuôi. Rõ ràng là sau khi xảy ra vụ bắt cóc, người ta không hề lơi lỏng việc an ninh.

Painter kéo chiếc điện thoại di động từ túi ra. Chiếc điện thoại có gắn con chíp định vị vệ tinh được kết nối vào hệ thống máy tính DoD có chứa một máy quay 16 megapixel kèm theo đèn flash hai chiều.

Anh không bao giờ rời khách sạn mà không mang theo.

Anh cũng lôi ra dây đeo tai nhỏ rồi cắm vào. Một chiếc míc nhỏ lủng lẳng dưới cằm. Anh chờ cho đến khi tín hiệu báo đã sẵn sàng liên lạc với một người.

"Chỉ huy Crowe," rồi thì cũng nghe thấy một giọng nói trả lời. Đó là tiến sỹ Sean McKnight, cấp trên trực tiếp của anh, giám đốc Sigma.

"Thưa ngài, chúng tôi đã hạ cánh xuốngMuscatvà đang đi về phía tòa nhà Kensington. Tôi gọi để hỏi xem ngài có nhận được tin tức gì về một âm mưu bắt cóc nhóm tiền trạm."

"Chúng tôi nhận được báo cáo đầu tiên của cảnh sát rồi. Họ bị bắt cóc ngay trên đường phố trên một chiếc taxi giả hiệu. Nghe có vẻ như một âm mưu bắt cóc đòi tiền chuộc. Một kiểu kiếm tiền thông thường ở đó."

Tuy nhiên, anh vẫn nhận ra vẻ nghi ngại qua giọng nói của tiến sỹ. Lúc đầu là những chuyện xảy ra ở Bảo tàng còn giờ thì... "Ngài có nghĩ điều này có liên hệ gì vớiLondonkhông?"

"Còn quá sớm để nói điều đó."

 

Painter hình dung lại cái bóng uyển chuyển biến mất sau bờ tường của Bảo tàng. Anh vẫn còn như cảm thấy rất rõ sức nặng của khẩu Sig Sauer của Cassandra trên tay. Hai ngày sau khi bị bắt tạiConnecticut, cô ta đã biến mất khỏi trại giam. Chiếc xe cảnh sát chở cô ta tới sân bay đã bị phục kích, hai người bị giết còn Cassandra Sanchez mất tăm. Painter chưa bao giờ nghĩ rằng anh có thể gặp lại cô ta. Vậy cô ta liên quan đến tất cả chuyện này thế nào? Và tại sao?

McKnight tiếp tục: "Đô đốc Rector đã phối hợp với NSA để thu thập tin tức tình báo. Chúng ta sẽ nhận được thêm trong hai giờ đồng hồ nữa."

"Thật tuyệt vời, thưa ngài."

"Chỉ huy, Tiến sỹ Novak có đi cùng với anh không?"

Painter liếc sang chỗ Coral trong khi cô đang mải ngắm cảnh vật bên đường. Cặp mắt của cô không thể đọc được nhưng anh tin là cô vẫn đang tìm cách để nhớ đường. Trong trường hợp bất trắc.

 "Vâng có ạ, thưa ngài, cô ta đang ở đây."

"Anh hãy nói với cô ấy rằng các nhà nghiên cứu ở Los Alamos đã có thể phát hiện ra những chất uranium phân hủy trong mẫu thiên thạch sắt hai người tìm thấy ở bảo tàng."

Anh nhớ lại vẻ băn khoăn của cô trong khi đọc kết quả trên máy scanner về mẫu đó.

"Họ chia sẻ quan điểm của cô ấy rằng tia phóng xạ từ chất uranium phân hủy có thể thực sự đã hoạt động như một loại hẹn giờ hạt nhân, từ từ làm mất ổn định chất phản vật chất cho đến khi nó dính phải sốc điện."

Painter ngồi thẳng lên rồi nói vào máy nghe. "Tiến sỹ Novak cũng đề xuất rằng sự phân hủy tương tự có thể xảy ra tại nguồn đầu tiên của chất phản vật chất, nếu như nó tồn tại."

 

"Chính xác là như vậy. Các nhà nghiên cứu ởLos Alamoscũng bày tỏ sự băn khoăn tương tự một cách độc lập. Chính vậy, phi vụ của hai người trở nên cấp thiết về mặt thời gian. Đã phân bổ được các nguồn lực bổ sung. Nếu như có được nguồn đầu tiên, cần phải nhanh chóng phát hiện, nếu không tất cả có thể sẽ bị mất hết."

"Hiểu rồi ạ, thưa ngài." Painter hình dung chỗ bị phá hủy tại gian trưng bày ở Bảo tàng Anh, bộ xương bị thiêu trụi của người gác. Và nếu như có cả motherlode trong chất phản vật chất này, sự mất mát có lẽ không còn chỉ là vấn đề khoa học.

"Chỉ huy, còn điều cuối cùng này nữa... chúng tôi nhận được thông tin khẩn cấp liên quan đến phi vụ của các bạn. NASA cho biết đã có một cơn bão lớn hình thành ở phía Nam Iraq đang phát triển về phíaNam."

"Bão ư?"

"Bão cát với tốc độ gió 60 dặm một giờ. Như vậy là rất lớn, nó sẽ đánh sập hết thị trấn này tới thị trấn khác, dịch chuyển các đụn cát dọc theo đường đi. NASA khẳng định đường đi của nó về phíaOman."

Painter chớp mắt. "NASA khẳng định ư, lớn đến mức nào?"

"Lớn đến mức có thể nhìn thấy từ vũ trụ. Tôi sẽ chuyển tin tức thu được từ vệ tinh."

Painter nhìn vào màn hình số trên chiếc điện thoại. Màn hình hiện dần lên bản đồ thời tiết ở khu vực Trung Đông và bán đảo A-rập. Những chi tiết thật đáng kinh ngạc: đường bờ biển, biển xanh với những đám mây; những thành phố nhỏ xíu. Trừ nơi có một vùng lớn màu sẫm bao bọc vịnh Ba Tư. Trông nó giống như một cơn bão ở trên đất liền. Một đợt sóng màu nâu đỏ đang loang dần ra khắp cả vùng vịnh.

"Dự báo thời tiết cho rằng cơn bão sẽ mạnh lên về c ờng độ và phạm vi ảnh hưởng khi chuyển dịch về phíaNam." McKnight kể lại khi hình ảnh lại xuất hiện mới trên màn hình. Lưỡi của cơn bão cát quét qua một thị trấn ven biển, phá trụi nó.

"Có tin rằng đây là cơn bão thế kỷ thổi vào đó. Một hệ thống áp lực cao ở Biển A-rập đã tạo ra những đợt gió nồm bị hút vào khu vực rỗng. Cơn bão cát sẽ thổi vào vùng sa mạc phíaNamnhư một chiếc tàu chở hàng bị va đập và nuôi dưỡng bởi những đợt mưa lớn tạo ra hệ thống mưa bão."

"Lạy Chúa"

"Nó sẽ ở đó một thời gian."

"Về thời gian biểu ra sao?"

"Cơn bão sẽ thổi vào biên giớiOmanngày kia. Những tính toán hiện nay cho thấy có thể nó sẽ kéo dài từ hai đến ba ngày."

"Hãy hoãn chuyến thám hiểm lại."

"Càng khẩn trương càng tốt."

Painter nghe thấy mệnh lệnh phía sau lời nói của giám đốc. Anh ngẩng đầu lên rồi liếc về phía chiếc Limousine chạy phía trước. Sự chậm trễ. Kara Kensington chắc sẽ không hài lòng.

 

 

7 giờ 48 phút chiều

 

"Hãy bình tĩnh nào" - Safia nói.

Tất cả bọn họ tụ tập ở vườn sau của tòa nhà Kensington. Những bức tường đá vôi cao chót vót có niên đại từ tận thế kỷ 16 cùng với những họa tiết trên tường vẽ những cây leo ngoằn ngoèo tạo nên một bức tranh phong cảnh tuyệt vời cả biển và đất. Ba năm trước đây công tác phục chế đã trả lại những bức họa trên tường vẻ đẹp tuyệt vời của nó. Đây cũng là lần đầu tiên chính mắt Safia được nhìn thấy những sản phẩm được hoàn tất. Các nghệ nhân từ Bảo tàng Anh đã tới đây giám sát mọi chi tiết trong khi Safia giám sát chúng từ London qua máy ảnh số và internet.

 

Tuy nhiên các tấm ảnh đã không thể nói hết được vẻ phong phú của màu sắc. Tất cả các họa tiết xanh, đỏ đủ loại được nhào trộn với nhau như thể được vẽ lần đầu tiên vào thế kỷ XVI.

Safia nghỉ ngơi trong vườn, nơi nàng vẫn chơi đùa hồi còn bé. Những viên ngói đỏ xếp ngay ngắn thành hàng trong khuôn viên giữa những thảm hoa hồng được xén tỉa công phu. Một cái vườn kiểu ăng lê nằm ở trung tâmMuscat. Tương phản, bốn cây chà và lớn ở bốn góc uốn cong tỏa bóng xuống khu vườn.

Những kỷ niệm cũ đã lấn át thực tế, gợi lại bởi hương thơm thoang thoảng của hoa nhài và mùi cát ẩm của thành phố cũ. Những hồn ma vẫn quẩn quanh từng hòn ngói, chơi trò tái diễn của quá khứ.

Nằm ở chính giữa khu vườn là một đài phun nước điển hình kiểuOmanvới một bồn nước sáng lấp lánh. Safia và Kara vẫn thường ngụp lặn trong bồn nước ặc biệt vào những ngày nóng bụi bẩm, một thói quen thường làm cho cha nàng cau mày. Safia vẫn nghe thấy tiếng ông huýt sáo vui vẻ vọng lại từ những bức tường của khu vườn khi trở về sau cuộc họp hội đồng, thấy chúng đang đùa giỡn trong bồn nước. "Hai đứa chúng mày trông giống như một đôi hải cẩu". Thỉnh thoảng ông lại cởi giày xuống lội với chúng.

Kara đi ngang qua bồn nước, chẳng buồn nhìn. Nỗi bực bội trong lời nói đã đưa cô về hiện tại. "Đầu tiên là cuộc phiêu lưu củaOmaha... giờ thì thời tiết tồi tệ. Đến khi chúng ta tiến hành thì một nửa thế giới A-rập sẽ biết về chuyến đi rồi; chúng ta sẽ không có được một giây phút bình yên."

Safia theo sau, để mặc chuyện tháo dỡ hành lý cho những người khác. Painter Crowe đã thông báo tin tức thời tiết ngay khi tới. Anh cố giữ bộ mặt bình thường. "Thật xấu hổ khi cô không thể mua được thời tiết tốt.", anh kết thúc câu nói một cách hóm hỉnh. Anh ta có vẻ như thích trêu chọc Kara. Tuy vậy, đằng sau tất cả các rào chắn mà cô đã dựng lên cố ngăn không cho hai người bọn họ tham gia chuyến mạo hiểm này, Safia chẳng thể nào trách cứ anh ta được.

Safia đuổi kịp Kara tại cổng vòm lâu đài cổ, một kiến trúc ba tầng bằng đá vôi khắc lợp ngói. Các tầng trên được trang trí bằng những ban công rợp bóng dựng trên các cây cột. Ngói màu xanh nước biển chạy dọc mặt tiền ban công tạo nên cảm giác dễ chịu dưới cái nắng chói chang.

Kara xem ra chả tìm thấy niềm ai ủi gì khi về đến nhà, khuôn mặt căng thẳng, các hàm vẫn như căng ra.

Safia nắm lấy tay cô, phân vân không hiểu tâm trạng cáu bẳn có phải do sự tuyệt vọng thực sự không hay do tác động của hóa học. "Cơn bão không thành vấn đề". Nàng trấn an bạn. "Chúng ta đã lập kế hoạch sẽ đi Salalah để kiểm tra ngôi mộ Nabi Imran trước tiên. Ngôi mộ nằm ở bờ biển, xa mọi cơn bão cát. Tôi nghĩ chúng ta sẽ phải ở đó ít nhất một tuần lễ."

"Tuy vậy vẫn còn mớ bòng bong vớiOmaha. Mình đã hy vọng có thể tránh không gây quá nhiều sự chú ý... "

Có tiếng lao xao ở cửa làm ngắt quãng câu nói. Cả hai người phụ nữ đều quay ra.

Một chiếc xe cảnh sátOman, ánh đèn nhấp nháy đỗ lại gần hai chiếc Limousine. Cánh cửa sau mở ra rồi hai người bước ra.

"Nói đến quỷ thì... " - Kara lẩm bẩm.

Đột nhiên Safia thấy như nghẹt thở, bầu không khí trở nên nặng nề.

Omaha...

Thời gian như trôi chậm lại, cùng nhịp đập của trái tim nàng như vẳng đến bên tai. Nàng nghĩ mình có nhiều thời gian hơn để chuẩn bị, ổn định và cứng cáp hơn cho cuộc gặp gỡ. Bỗng nhiên nàng muốn như chạy trốn, lui về phía sau.

 

Kara đặt một bàn tay lên gáy nàng an ủi. "Cậu sẽ ổn thôi mà," cô thì thầm.

Omahachờ cậu em mình rồi cả hai bước ngang qua hai chiếc xe Limousine màu đen. Khuôn mặt Danny với cặp mắt đen nhánh và cái mũi vẫn còn miếng băng dán.Omahakhoác tay lên vai cậu em, anh mặc bộ áo vét màu xanh nước biển, cái áo vẫn vắt trên tay, áo sơ mi trắng xắn lên tận khuỷu bê bết bụi bặm và vết máu khô. Đôi mắt anh ta dừng lại một chút ở chỗ Painter Crowe, nhìn từ đầu đến chân.Omahagật đầu chào với vẻ không mấy thiện cảm.

Rồi anh ta quay về phía Safia, đôi mắt mở to, bước chân như chậm lại. Khuôn mặt như đờ đẫn trong giây lát rồi một nụ cười chậm chạp hiện ra. Anh ta lấy tay vuốt mớ tóc màu cát xoã trên trán như thể không tin vào mắt mình nữa.

Đôi môi mấp máy tên nàng rồi đến lần thứ hai mới có thể nói to lên được. "Safia... Lạy Chúa." Anh đằng hắng rồi vội vã lao về phía trước, bỏ cậu em ở phía sau.

Trước khi nàng kịp ngăn lại, anh ta giơ tay ra ôm ghì, ngã vào lòng nàng. Người anh đầy mùi muối và mồ hôi, quen thuộc như mùi của sa mạc. Anh ôm nàng thật chặt. "Thật vui vì được thấy em," anh thì thào bên tai nàng.

Đôi tay nàng lúng túng chưa biết nên làm thế nào.

Anh ta đứng thẳng dậy rồi lui lại trước khi nàng có thể định thần. Một thoáng ửng hồng trên gò má anh.

Safia không tìm thấy lời nào lúc này cả. Cặp mắt nàng hơi chớp qua vai anh. Bước đến từ phía sau, Danny cười rạng rỡ. Cậu ta cười như thể bị lãng quên.

Bàn tay Safia xoa vào mũi mình, "Tôi nghĩ mũi cậu bị gẫy
cơ mà... ".

"Chỉ bị va đập thôi," cậu trấn an, một chút âm sắcNebraskatrong giọng nói, mới mẻ như vừa thoát khỏi trang trại gia đình. "Miếng băng keo để phòng ngừa thôi." Cái nhìn của cậu dịch chuyển từOmahasang Safia.

Một cảm giác không thoải mái bỗng đè nặng.

Painter bước tới, tay mở rộng. Anh tự giới thiệu, bắt tay hai người. Chỉ tới lúc này anh mới đưa mắt nhìn Safia xem liệu nàng có ổn không. Nàng kịp nhận ra anh đang muốn kéo dài thời gian để nàng kịp tự trấn tĩnh.

"Đây là đồng nghiệp của tôi, Tiến sỹ Coral Novak, nhà vật lý học từColumbia."

Danny thẳng người dậy, rõ ràng như nuốt lấy cái nhìn ngấu nghiến về thân hình cô. Cậu nói rất nhanh. "Đó là nơi tôi tốt nghiệp.Columbia, đúng vậy".

Coral liếc nhìn Painter như thể xin được phép nói. Không hề có sự khẳng định từ bên ngoài, nhưng cô chỉ nói. "Thế giới thật nhỏ".

Danny mở miệng định nói điều gì song lại thôi. Cặp mắt cậu vẫn dõi theo nhà vật lý khi cô bước sang một bên.

Clay Bishop bước tới bên họ. Safia giới thiệu, cảm thấy sự khuây khỏa qua những lề thói thông thường. "Còn đây là sinh viên mới tốt nghiệp Clay Bishop".

Cậu ta nắm chặt tayOmahabằng cả hai tay mình. "Thưa ngài, tôi đã đọc luận văn của ngài về con đường buôn bán Ba Tư dưới thời vua Alexandre đại đế. Tôi hy vọng có điều kiện thảo luận với ngài về một vài công trình thám hiểm dọc theo biên giới Iran-Afghanistan."

Omahaquay lại Safia và Kara. "Tại sao cậu ta chỉ gọi tôi là ngài?"

Kara dừng chuyện giới thiệu rồi vẫy mọi người bước tới chỗ cổng vòm lâu đài.

- Có đủ phòng cho mỗi người. Các vị có thể rửa mặt trước bữa ăn tối rồi thoải mái sau đó.

 

 Cô dẫn đường vào lâu đài. Đôi giày hàng hiệu Fendi gõ mạnh xuống sàn nhà cổ theo mỗi bước chân.

- Nhưng cũng không nên thoải mái quá ở đây vì chúng ta sẽ rời đi sau 4 giờ nữa.

- Một chuyến đi bằng máy bay nữa ư?

 Clay Bishop hỏi, cố che giấu vẻ bất mãn.

Omahavỗ vai cậu ta.

- Không hẳn vậy. Ít nhất sẽ có một điều hay từ mớ bòng bong chiều nay.

Anh ta gật đầu với Kara.

- Thật hay là có bạn bè ở những vị trí quan trọng, đặc biệt là những ông bạn có các loại đồ chơi đẹp.

Kara chau mày với anh ta.

- Thế nào, chuyện sắp xếp mọi thứ đã ổn hết chưa?

- Đồ thiết bị và hậu cần đã được tập kết rồi.

Safia nhìn họ. Trên đường tới đây, Kara đã có vài cuộc điện thoại gay gắt vớiOmaha, lãnh sự Anh và văn phòng của Quốc vương. Chả hiểu kết quả ra sao nhưng xem ra không làm cho Kara hài lòng nhưOmaha.

- Thế còn những Con ma thì sao? - Kara hỏi.

- Họ sẽ đợi chúng ta ở đó. -Omahanói với cái gật đầu.

- Những con ma ư? - Clay hỏi.

Trước khi mọi người kịp trả lời, họ đã tới một căn phòng lớn dẫn đến khu vực phíaNam, dành cho khách.

Kara gật đầu với người bồi rượu đang đứng chờ, mái tóc hoa râm chải bóng mượt, tay chắp sau lưng, mặc bộ đồ đen và trắng thuần túy ăng lê.

- Henry, liệu bác có thể dẫn khách vào phòng của họ được không? - Henry đã từng phụ trách đám người phục vụ ở đây từ khi Safia còn là một đứa trẻ.

- Xin mời đi theo lối này.

 

Cả nhóm theo sau.

Kara gọi với theo.

- Bữa tối sẽ ăn trên tầng thượng trong ba mươi phút nữa.

 Nghe như mệnh lệnh hơn là một lời mời.

Safia bước sau những người khác.

- Này, cậu làm gì vậy? - Kara hỏi, nắm lấy tay nàng. - Căn phòng cũ của cậu đã được lắp điều hòa sẵn sàng cho cậu rồi - rồi dẫn nàng về tòa nhà chính.

Safia nhìn xung quanh khi họ bước đi. Chả có mấy thay đổi. Ở nhiều khía cạnh tòa lâu đài trông giống như cái bảo tàng hơn. Những bức tranh sơn dầu trên tường, dòng họ Kensington đã có từ thế kỷ 14. Chính giữa căn phòng là một cái bàn ăn lớn bằng gỗ sồi nhập từ Pháp cũng như bộ đèn chùm Baccarat rất lâu đời treo phía trên. Safia đã từng tổ chức kỷ niệm sinh nhật lần thứ 12 của nàng ở đây. Nàng vẫn nhớ những ngọn nến, âm nhạc và không khí hội hè. Cùng với tiếng cười. Luôn luôn có những tiếng cười. Tiếng bước chân của nàng vọng lại trống rỗng khi đi vòng một lượt căn phòng dài.

Kara dẫn nàng đến khu vực riêng biệt của gia đình.

Khi lên 5 tuổi, Safia đã được dẫn từ trại mồ côi về lâu đài để đóng vai trò như một đứa trẻ cùng chơi với Kara. Đây cũng chính là căn phòng đầu tiên nàng có được của riêng mình với một bồn tắm riêng. Tuy vậy, hầu hết mọi đêm nàng đều ở trong phòng của Kara, hai đứa trẻ thì thào về chuyện tương lai chả bao giờ tới.

Họ dừng lại bên ngoài cửa phòng.

Bỗng nhiên, Kara ôm nàng thật chặt. "Thật là vui có cậu trở về nhà lần này."

Đáp lại cái ôm thật sự thân tình đó, Safia đã cảm nhận được cô gái phía sau người đàn bà, người bạn lâu nhất và cũng thân thiết nhất của mình. Về nhà. Và chính vào lúc này, nàng gần như tin vào điều đó.

 

Kara cựa quậy. Đôi mắt sáng rực phản chiếu ánh sáng từ bức tường

"Omaha..."

Safia hít một hơi thật dài. "Mình ổn. Mình nghĩ đã sẵn sàng. Nhưng khi nhìn thấy anh ta, anh ta chẳng thay đổi gì cả."

"Đúng vậy." Kara cau mày nói.

Safia cười rồi ôm bạn thật nhanh. "Mình thực sự ổn mà,
thật đấy."

Kara mở cửa. "Mình đã chuẩn bị nước tắm rồi, có quần áo sạch trong tủ quần áo. Hẹn gặp lại cậu ở bữa tối." Cô ta bước đi dọc theo gian sảnh, ngang qua căn phòng cũ của mình rồi tiếp tục ngang qua những cánh cửa khắc gỗ dẻ cho đến cuối bức tường, khu vực dành cho người chủ của lâu đài, những căn phòng trước đây của cha cô.

Safia quay lại rồi đẩy cửa bước vào phòng mình. Bên trong là một phòng hẹp có trần cao trước đây dùng để làm phòng chơi nhưng giờ đã là phòng học riêng. Nàng đã nghiên cứu để thi vấn đáp lấy bằng tiến sỹ tại căn phòng này. Vẫn thoang thoảng mùi hoa nhài, loại hoa ưa thích nhất của nàng.

Nàng đi qua căn phòng để bước tới phòng ngủ ở bên kia. Chiếc gi ường được phủ bằng vải lụa trông như thể chưa hề được sử dụng tới từ khi nàng rời nơi đây đi Tel Aviv bao lâu rồi. Những kỷ niệm đau đớn đó giờ đây như nhẹ đi khi nàng lấy tay vuốt phẳng một chỗ gập trên tấm lụa Ca-sơ-mia. Một cái tủ áo đứng ở phía đằng kia, gần những cửa sổ nhìn ra một khu vườn đầy bóng mát. Những thảm cây trồng xem ra có vẻ cao lên nhiều từ khi nàng thò đầu nhìn ra ngoài lần trước. Xen lẫn có cả những ngọn cỏ, tất cả làm nàng thấy như mình mất mát quá nhiều.

Tại sao mình lại trở lại đây? Tại sao lại ra đi?

Hình như nàng chẳng thể nào chắp nối được quá khứ và hiện tại.

 

Tiếng nước chảy bỗng thu hút sự chú ý của nàng đến căn phòng tắm liền kề. Không còn nhiều thời gian đến bữa ăn tối. Nàng cởi quần áo, vứt chúng lên trên sàn phía sau mình. Nước phun phì phì vào bồn tắm với tiếng thì thầm nhưng nghe vẫn rất rõ hoặc có thể do mùi hoa nhài thoang thoảng trong phòng.

Cảnh tượng này làm nàng nở một nụ cười mệt mỏi.

Nàng bước vào bồn tắm, nghĩ mình không thể nhìn thấy tận đáy bồn qua làn nước. Rồi nàng ngồi sụp xuống, nhúng cằm vào bồn nước đang bốc hơi nghi ngút, lưng dựa vào vách, tóc xoã trên mặt nước.

Có cái gì đó sâu thẳm hơn cả những cơ bắp mỏi nhừ, lúc này như lỏng ra, thoải mái.

Nàng nhắm mắt lại.

Về nhà...

 

 

8 giờ 2 phút tối

 

Người lính gác đi tuần dọc theo lối đi, đèn pin trong tay, rọi tia sáng vào con đường rải sỏi. Bàn tay kia của anh ta quẹt một cây diêm vào bức tường đá vôi phía ngoài tòa nhà Kensington. Ngọn lửa bùng ra nhỏ nhoi. Anh ta không để ý một bóng đen trùm áo khoác đen đang treo trong bóng tối, khuất sau tán lá rộng của cây chà và xòa xuống bờ tường.

Ánh sáng xua tan bóng tối, đe dọa chiếu tới kẻ đang trèo. Cassandra kéo cò chiếc súng bắn dây kéo. Tiếng động nhẹ phát ra từ khẩu súng được lau chùi cẩn thận làm một trong biết bao nhiêu con chó hoang chạy lang thang trên đường phốMuscattru lên. Đôi bàn chân ả xỏ trong giày trượt vọt lên bức tường khi người ả trượt lên theo sợi dây thép mảnh mai vừa được khẩu súng bắn ra. Lên đến bờ tường, ả nhoài người lao lên trên rồi nằm bẹp xuống.

 

Những mảnh thủy tinh sắc nhọn được cắm trên nóc bức tường để ngăn cản những kẻ trèo vào. Nhưng chúng không thể chọc xuyên qua bộ quần áo hạng nhẹ Kevlev màu đen và đôi găng tay. Tuy vậy, cô ả vẫn thấy có một vật sắc xoẹt qua thái dương bên phải. Chiếc mặt nạ đã che giấu và bảo vệ tất cả khuôn mặt cô ả trừ một phần nhỏ trước mũi. Đôi kính nhìn xuyên màn đêm vẫn ở trên trán, sẵn sàng được sử dụng. Ống kính của nó cho phép quay được 1 giờ băng và nối với tai nghe trộm rất nhạy.

Chính là thiết kế của Painter Crowe.

Ý nghĩ này làm cô ả mỉm cười. Ả thích chuyện hài hước. Dùng chính những gì của kẻ địch để đánh lại hắn.

Cassandra nhìn gã lính gác biến mất sau góc tòa lâu đài. Ả vặn tháo nòng khẩu súng compact rồi lăn ngửa người, rút một băng đạn từ thắt lưng lắp vào. Xong rồi, xoay người lại rồi bò dọc theo bức tường hướng về phía tòa nhà chính.

Bức tường ngoài không dẫn vào lâu đài nhưng bao bọc cả khu vực trong khoảng cách 10 mét. Những mảnh vườn nhỏ phủ lấp khoảng trống hoặc bị chia cắt thành những mẩu vườn nhỏ hơn, có những bụi cây lúp xúp, xen lẫn là những vòi phun nước. Tiếng nước rào rào nghe thật vui tai khi cô ả vẫn bò dọc theo bức tường.

Trước đó, ả đã thám thính lâu đài để bảo đảm những chi tiết an ninh do Hiệp hội cung cấp là chính xác. Tốt hơn hết không nên chỉ tin vào giấy mực. Chính ả cũng đã kiểm tra các vị trí lắp đặt ca-me-ra, quy luật lính gác và sơ đồ bố trí của tòa
lâu đài.

Nằm ẹp xuống tán lá xòa rộng của một cây chà và khác, ả bò chậm hơn tới khu vực lâu đài được thắp sáng rực rỡ. Một cái sân nhỏ với những cửa sổ vòm nhìn xuống một phòng ăn dài. Những ngọn nến cắm xen kẽ bông hoa rực rỡ trôi trên các chậu bằng bạc đặt trên bàn ăn. Ánh sáng chiếu rực rỡ vào những đồ vật pha lê và gốm bày ở đó. Những bóng người hòa vào nhau trước bàn ăn rải khăn lụa. Những người phục vụ chạy đi chạy lại bận rộn, rót nước và mời rượu vang.

Nằm bẹp xuống để giấu mình, Cassandra chụp đôi kính nhìn đêm vào mắt. Cô ả chưa cần dùng đến bộ phận xem đêm mà chỉ mở ống kính rộng và gần hơn. Bộ tai nghe truyền rất rõ những cuộc đối thoại được khuếch đại. Ả phải hướng cần ăngten về phía đó để có thể nghe rõ.

Ả biết hết những người có mặt tại đó.

Gã sinh viên tốt nghiệp cao kều, Clay Bishop đứng gần cửa sổ trông có vẻ bối rối. Một nữ tiếp viên trẻ đang rót rượu vang vào cốc nhưng anh ta lắc đầu nói từ chối bằng tiếng Oman.

Đằng sau anh ta, hai người đàn ông đang chọn món trên một khay đồ ăn truyền thống Oman với những món thịt, pho mát dê, ô liu và chà và. Tiến sỹ Omaha Dunn và em trai anh ta, Danny. Cassandra biết hết việc họ đã thoát được vụ bắt cóc trước đó.

Tuy vậy, ả vẫn quan sát hai kẻ đó. Ả biết rằng không nên đánh giá thấp đối thủ của mình. Sự thất bại nằm trên con đường đó. Ở hai gã này có sức mạnh nên cần phải giám sát.

Omahaăn một quả ô liu. "Trong khi cậu đi tắm, anh đã xem dự báo thời tiết trong bản tin địa phương. Bão cát đã ngưng trệ mọi hoạt động của thành phốKuwait, bốc cả một đụn cát xuống trục đường chính."

Cậu em nói câu gì đó nghe không rõ, hình như có vẻ không để ý lắm. Cặp mắt cậu ta dõi theo một người đàn bà tóc vàng ở phía bên kia phòng. Coral Novak, một điệp viên của Sigma thay thể ả.

Cassandra hướng sự chú ý tới địch thủ của mình. Sự lạnh lùng của cô ta xem ra hơi quá mức, nếu như nhớ lại việc cô ta bị hạ một cách quá dễ dàng và bất ngờ ở Bảo tàng. Cặp mắt của ả nheo lại với vẻ bực bội. Đây là kẻ thay thế ta bên cạnh Painter à? Một kẻ mới toanh ở Sigma? Chả có sự kỳ diệu nào xảy ra cả.

Theo gót người đàn bà, Painter xuất hiện. Cao, mặc quần và áo sơ mi màu đen vừa lịch sự vừa thoải mái. Ngay cả từ trên bức tường cao, ả cũng nhận ra anh đang quan sát căn phòng từ đuôi mắt. Anh ta đang ghi nhận mọi thứ, phân tích, tính toán.

Ngón tay ả túm chặt vào những mảnh thủy tinh lởm chởm gắn trên tường.

Anh ta vạch trần ả, đe dọa vị trí của ả ở Hiệp hội, đẩy ả xuống vị trí thấp kém. Ả đã mất hàng năm trời chui sâu, hoàn thiện vị trí của mình là điệp viên hàng đầu, giành được sự tin tưởng của đồng nghiệp... và cuối cùng thậm chí cả điều gì đó bên ngoài sự trung thành thuần túy.

Nỗi bực bội trào lên trong ngực ả, nhức nhối. Hắn đã cướp đi của ả tất cả, đẩy ả ra ngoài rìa cánh gà, giới hạn vai trò của ả khỏi những phi vụ yêu cầu hoàn toàn giấu tên. Ả nhô người lên rồi tiếp tục bò theo bức tường. Ả đang thực thi nhiệm vụ. Phi vụ đã bị Painter phá hỏng tại Bảo tàng và ả thừa biết sự may rủi kèm theo.

Đêm nay ả không thể thất bại được.

Không gì có thể ngăn cản ả được.

Cassandra đi vòng về phía góc xa của lâu đài, tới điểm sáng duy nhất ở sau tòa nhà. Ả nhỏm người dậy rồi chạy trong khoảng cách cuối cùng, không thể mạo hiểm trượt mục
tiêu được.

Cuối cùng thì ả cũng dừng lại ở một cánh cửa sổ nhìn xuống một cái vườn không được mấy chăm chút. Qua cánh cửa sổ, ả thấy hơi nước bốc lên mịt mù, một người đàn bà nằm trong bồn tắm. Cassandra quan sát căn phòng khác. Rỗng không. Ả lắng nghe. Không một tiếng động.

 

Hài lòng, Cassandra hướng khẩu súng bắn dây về phía ban công tầng trên. Bên tai trái, ả bỗng nghe người đàn bà lẩm bẩm, nghe rất lạ - một tiếng kêu như bị nghẹn lại. "Không... không
bao giờ."

Ả bóp cò. Sợi dây vụt đi trong gió kèm theo một tiếng động nhỏ. Móc câu bay lên trên tầng ba.

Kéo thử móc dây chắc chắn rồi ả lao từ bức tường về phía cái vườn phía dưới. Gió rít lên. Tiếng chó sủa ở con đường kề bên. Ả nhảy xuống nhẹ nhàng rồi tựa người vào bức tường có cửa sổ, tai lắng nghe tiếng báo động.

Im lặng.

Ả kiểm tra cửa sổ. Nó bị hở toang hoác có thể nhét ngón tay vào. Bên trong người đàn bà vẫn lẩm bẩm trong mơ.

Tuyệt.

 

 

8 giờ 18 phút tối

 

Safia đứng tại phòng chờ ở một bệnh viện lớn. Cô bé biết điều gì sắp xảy ra. Phía kia, cô phát hiện một người đàn bà lưng cúi gập tập tễnh đi vào. Khuôn mặt và cả thân hình đều bị che lấp bằng chiếc khăn trùm kín. Cái bọc dưới tấm áo choàng lúc này nhìn rất rõ... không giống như ban nãy.

Safia lao ngang qua phòng chờ, cố ngăn chặn điều sắp xảy ra. Nhưng trẻ con vẫn chật cứng dưới chân cô, túm lấy cô, giật tay cô. Cô cố gắng gạt ra nhưng chúng vẫn kêu khóc.

Cô khựng lại, không biết nên dỗ hay đẩy chúng.

Phía trước, người đàn bà biến mất vào đám đông ở chỗ bàn. Safia không còn nhìn thấy mặt bà ta nữa. Nhưng người y tá
bệnh viện đã giơ tay lên chỉ vào Safia, tên cô được gọi... giống như trước.

 

Đám đông tản ra. Người đàn bà đó được phát hiện khoác cái áo choàng mỏng, hai bên xòe ra như những cái cánh.

Không, Safia hét lên. Cô không đủ không khí để nói, để cảnh báo.

Rồi một tiếng nổ kinh hoàng, ánh sáng chói lòa, và không nghe thấy gì nữa.

Mọi vật trở lại trong giây lát nhưng không nghe được nữa.

Cô nằm ngửa nhìn những ngọn lửa chạy dọc trên trần. Cô cố lấy tay che mặt tránh cái nóng nhưng nó ở khắp nơi. Quay đầu lại, cô thấy trẻ em nằm la liệt, một vài đứa bị cháy như ngọn đuốc, đứa khác đập vào đá. Một đứa ngồi, lưng tựa vào một cái bàn lộn ngược. Không thấy khuôn mặt của nó đâu cả. Một đứa khác với lấy cô nhưng không thấy tay, chỉ toàn máu.

Giờ đây, Safia hình dung ra tại sao cô không nghe được. Thế giới đã biến thành một con suối chảy về nơi vô định. Những tiếng thét không phải từ mồm lũ trẻ mà chính từ mồm cô.

Rồi có một cái gì đó... chạm vào cô.

Safia bừng tỉnh trong bồn tắm, vẫn bị nghẹn lại bởi tiếng hét. Nó luôn luôn ở trong nàng, cố thoát ra. Nàng lấy tay bịt miệng lại, cố không khóc, giữ những thứ gì ở bên trong. Nàng rùng mình trước dòng nước mát, cánh tay ôm chặt trước ngực. Thật chặt. Chờ cho đến khi tiếng vọng của cuộc tấn công dịu đi.

Chỉ là giấc mơ.

Nàng ước gì có thể tin điều đó, nhưng giấc mơ vẫn chờ đợi, cách đó chưa đầy gang tay. Nó không giản đơn chỉ là một cơn ác mộng. Tất cả những điều đó đã xảy ra. Tất cả do lỗi tại nàng. Vị lãnh t ụ hồi giáo địa phương đã cố ngăn cản nàng không khai quật những ngôi mộ trên các ngọn đồi bên ngoài thành Qumram. Nàng không chịu lắng nghe. Quá tự tin vào sự chở che của công cuộc nghiên cứu thuần túy.

 

Năm trước đó, Safia đã mất 6 tháng để giải mã một khu đất duy nhất. Nó cho thấy một đống những văn bản có thể được chôn cất ở đó, có thể chính là nơi cất giữ của những tờ gấp Biển chết nổi tiếng. Hai tháng khai quật chứng tỏ mình nói đúng. Nàng đã khai quật được 40 cái vò chứa đựng một thư viện tiềm tàng những văn bản tiếng A-rập cổ, trở thành một phát hiện
của năm.

Nhưng nó phải trả giá quá đắt.

Một nhóm quá khích đã tức tối trước việc đào bới các di tích thánh địa hồi giáo thiêng liêng. Đặc biệt do một người phụ nữ có dòng máu pha trộn quan hệ gần gũi với phương Tây. Hoàn toàn không biết gì, Safia đã trở thành mục tiêu.

Chính là máu và mạng sống của những đứa trẻ vô tội đã trả giá cho sự nhiệt tình của nàng. Nàng chỉ là một trong ba nạn nhân sống sót.

Safia đã cầu nguyện đừng có những phép màu như vậy nữa trong cuộc sống của mình. Nó phải trả bằng một cái giá quá đắt.

Safia mở mắt ra, những ngón tay vẫn đan vào nhau. Sự bực bội đã sưởi ấm nỗi đau và cảm giác tội lỗi. Bác sỹ điều trị cho nàng nói điều đó hoàn toàn là phản ứng tự nhiên. Nàng cần cho phép mình cảm thấy sự bực bội đó. Tuy vậy, nàng vẫn cảm thấy xót xa về sự bực bội của mình.

Nàng ngồi thẳng dậy, nước bắn tóe vào thành chậu và những phiến đá để lại những dòng nước đầy mùi hương nhài trên sàn. Dưới nước có vật gì đó cọ vào đầu gối nàng, cái gì đó mềm mại như một đóa hoa nhưng nặng hơn. Safia bỗng thấy thật căng thẳng như một con thỏ phải đứng trước ánh đèn pha.

Nước trong bồn rút hết chỉ còn lại những cánh hoa nhài vương lại trên đáy bồn. Rồi chậm chạp một hình hài chữ S uốn lượn hiện ra.

Safia lạnh cứng người.

 

Đầu con rắn nhô lên từ đám cánh hoa, vẫn còn vài cánh hoa vướng vào cái đầu màu nâu sẫm của nó. Đôi mắt của nó chuyển sang màu đen như thể đang nhìn chằm chằm vào nàng.

Safia hiểu rõ về loại rắn đang ở trước mặt mình. Nó có tên khoa học là Echis pyramidum. Tất cả trẻ con ởOmanđều biết cách tìm ra những dấu vết của loài rắn này. Trên mình nó có hình chữ thập, ở đây có nghĩa là chết chóc chứ không phải cứu rỗi như trong kinh thánh. Loại rắn này là độc nhất vô nhị ở khu vực, thường trú ngụ trong bóng râm, treo lủng lẳng ở những thân cây. Nọc độc của nó khi ngấm vào có thể làm cho người bị rắn cắn chết ngay trong vòng 10 phút. Con rắn di chuyển rất nhanh và đớp mạnh nên người ta vẫn cho là nó có thể bay được.

Con rắn dài tới một mét trườn qua bồn tắm về phía Safia. Nàng không dám động đậy hoặc làm gì khiêu khích nó cả. Chắc nó trườn vào bồn nước khi nàng đang ngủ, tìm chỗ ẩm ướt. Nó chạm tới bụng nàng, đầu ngóc lên, lưỡi phun phì phì. Safia cảm thấy nó chạm vào làn da của mình khi con rắn áp tới sát hơn.

Như cảm thấy không có gì nguy hiểm nó lại bò tới bụng nàng, trườn lên ngực trái dừng lại thè lưỡi ra. Làn da nó ấm chứ không lạnh lẽo, con rắn dịch chuyển thật nhẹ nhàng. Safia không dám thở mạnh, nàng cố giữ thật yên, nhưng liệu có thể nín thở được bao lâu?

Con rắn có vẻ như tìm thấy nơi ẩn nấp lý tưởng, nằm chềnh ềnh trên ngực nàng. Biểu hiện của nó thật kỳ quặc, tại sao nó không đánh hơi rồi nghe tim nàng ra sao.

Đi đi... nàng cầu mong. Nếu như nó có thể lui về căn phòng tìm một góc nào đó ẩn nấp cho nàng cơ hội trèo ra ngoài
bồn tắm.

Nàng thấy nhu cầu cần có không khí trở thành một vết đau nhói trong ngực và một áp lực sau đôi mắt. Thôi hãy đi đi...

 

Con rắn lại thở phì phì với cái lưỡi đỏ của nó. Bất cứ nó cảm giác được điều gì, có vẻ như làm nó hài lòng rồi lại nằm yên
tại chỗ.

Những ngôi sao nhỏ như nhảy múa trong mắt, làm nàng thật căng thẳng vì thiếu ô xy. Chỉ cần khẽ động đậy, nàng sẽ chết ngay, thậm chí ngay cả nếu như thở...

Rồi một bóng đen chuyển động ngoài cửa sổ thu hút sự chú ý của nàng. Hơi nước bám vào cửa kính làm cho hình ảnh mờ hẳn đi. Nhưng không còn nghi ngờ gì nữa.

Có ai ở ngoài đó.

 

Nguồn: truyen8.mobi/t86755-bao-cat-chuong-7.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận