Bên Cạnh Thiên Đường Chương 16.1


Chương 16.1
Nietzsche còn nói: "hi vọng" ngược lại chính là thứ tai họa lớn nhất bay ra từ chiếc hộp Pandora,

bởi vì nó kéo dài sự đau khổ của con người. Muốn kết thúc đau khổ của chính mình, giờ tôi bắt đầu không hi vọng nữa. 

Không làm ra vẻ đang âm thầm chịu đựng. 

Không đem tương lai của mình gửi gắm cho người khác một cách không chắc chắn.   

Thời gian, thực ra là thứ vô tâm nhất trên đời này. 

Những chuyện đã trải qua, bất kể là cảm động thế nào, tất cả đều bị thời gian xóa nhòa, tất cả đều từ từ bị thời gian nhấn chìm từng chút một. Người kiên cường đến mấy rồi cũng bị ép phải lựa chọn để trở thành một kẻ vô tâm, cố gắng học cách quên đi, học cách ngụy trang, học cách dùng tương lai tươi đẹp để lừa gạt hiện tại khó khăn trước mắt. 



Tôi cũng chỉ biết làm vậy, cố gắng học cách tạm thời quên Trát Ba đi.   

Vác hành lý trên vai trở về nhà, trống huếch trống hoác. 

Không biết Lông Mi đã đi đâu mất rồi. 

Thở dài một tiếng, vào bếp kiếm mấy gói mì ăn liền, cho vào nồi nấu với mấy gói rau cải khô, rồi lặng lẽ ngồi ăn một mình. 

Quan sát trong phòng, kinh ngạc nhận ra chiếc kính thiên văn của Lông Mi đã biến mất. Tiếp tục quan sát, tất cả đồ vật của em đều đã không còn nữa. Hình như em đã đi rồi ? Cả một mảnh giấy để lại cũng không có. Chắc là tại quá thất vọng vì tôi đã bỏ đi không lý do ? Cảm thấy hơi khó chịu. Trát Ba đã chết, vốn hi vọng có thể tìm chút ấm áp ở chỗ Lông Mi, giờ thì hi vọng đã tắt ngấm. 

Ngồi trên sofa, chẳng muốn làm gì. 

Bật máy DVD lên xem, là phim "Lola chạy mau", chắc là phim cuối cùng mà Lông Mi xem ở nhà. Buồn chán ngồi nhìn màn hình TV, dòng suy nghĩ như một chậu cát khô, không thể hòa nhập. Câu chuyện trên phim kể về một cô gái tên là Lola điên cuồng chạy khắp nơi để giúp bạn trai tìm lại một món tiền đã mất. Số tiền này là tiền của bọn xã hội đen, nếu tìm không thấy, bạn trai cô sẽ phải lấy mạng ra để đền bù. Nhưng biển người mênh mông, biết đi đâu mà tìm bây giờ ? 

Bạn trai Lola phát cáu lên với cô: 

- Em cứ nói tình yêu là vạn năng, thế tình yêu có biến ra được một trăm nghìn Mark trong hai mươi phút không ? 

Cuối cùng không ngờ bọn họ cũng tìm thấy được số tiền đó, xem ra tình yêu đúng là vạn năng thật. 

Câu nói đó đúng là làm người ta phải suy nghĩ nhiều, tôi ngồi thần ra trên ghế trằn trọc một lúc lâu. 

Nghĩ mãi rồi cũng chán, tôi đứng dậy dọn dẹp đồ đạc, xuống nhà lấy xe.   

Tìm đến phòng tranh lần trước. 

Ông chủ đang treo bức tranh "Mẹ" lên tường. Tôi hỏi thăm ông chủ về Lông Mi thì anh ta nói gần đây em không đến. Thất vọng đi ra ngoài, rồi lại vòng lại mua bức "Mẹ" kia về, tiện thể hỏi luôn địa chỉ mấy phòng tranh khác, qua đó xem thử, cũng không có tin tức gì của Lông Mi hết. Một họa sĩ quen Lông Mi nói hình như em đã đi Tây Đệ.   

Xem ra thì không thể tìm thấy Lông Mi trong 20 phút được rồi. 

Có lẽ 20 tiếng sẽ đủ chăng ? 

Lái xe đi thẳng đến Tây Đệ, đến chiều tối thì đến nơi. 

Lượn lờ khắp thị trấn cổ đến tận nửa đêm, đi khắp các khách sạn, cũng không thấy bóng em đâu. 

Có lẽ 20 tiếng cũng không tìm được Lông Mi đâu. Biết đâu 200 tiếng được thì sao ? 

Quyết định ở lại. 

Ngày hôm sau tiếp tục tìm kiếm, nhưng vẫn không có kết quả. Đằng nào thì cũng không có chuyện gì, tôi liền ở đó luôn một tuần. Đến khi hi vọng biến thành tuyệt vọng. Rốt cuộc thì tôi cũng không thể tiếp tục như vậy, không thể tiếp tục một cuộc tìm kiếm 2000 tiếng đồng hồ nữa. Cuộc đời còn lại của tôi, liệu còn được bao nhiêu cái 2000 tiếng đồng hồ tội nghiệp kia mà phung phí ?   

Tôi trọ trong khách sạn lần trước. 

Bà lão đã bất ngờ mắc bệnh qua đời. Khách sạn mất đi linh hồn, trở lên vắng vẻ lạnh lẽo đi nhiều. 

Ông già lại càng trầm mặc ít lời. Lạ một điều là, cái chết của bà lão, hình như đã gợi cho ông một điều gì đó, ông đã ôn hòa ấm áp hơn trước rất nhiều, thỉnh thoảng còn chào hỏi tôi, nói chuyện mấy câu nữa. Ngược lại, tôi vì cái chết của bà lão, cộng với chuyện không tìm được Lông Mi làm cho lòng tin với cuộc sống bắt đầu lung lay, chẳng buồn để ý đến ông lão nữa. Ông lão đành tiếp tục trầm mặc ít lời, nét mặt ít nhiều cũng có chút tủi thân. 

Mỗi ngày tôi đều ngủ hết buổi sáng, trưa mới dậy, buổi chiều ngồi trên sân thượng khách sạn tắm nắng. 

Gác chân lên lan can gỗ, ngắm nhìn dãy núi cao thấp nhấp nhô đằng xa và những mái ngòi xanh san sát ngay bên cạnh, mỗi lần ngồi là hết cả buổi chiều. Hôm nào ngồi chán, tôi lại đi bộ lang thang không mục đích khắp thị trấn, thấy cửa mở thì vào, thấy ngõ nào là chui luôn vào ngõ đấy, lạ một điều là đi mãi cũng không kiếm được cái ngõ cụt nào. Đi mệt rồi thì ngồi trong con hẻm nhỏ vắng bóng người qua lại hút thuốc. Thỉnh thoảng cũng cảm thán cho thân phận cô đơn của mình, rồi lặng lẽ khóc thầm, nước mắt lã chã tuôn rơi. 

Có lúc tôi lại ra ngồi ở bờ hồ gần ngôi miếu đầu làng xem các nữ sinh vẽ tranh. Tình cờ cũng có người nhiệt tâm thấy tôi cử chỉ quái dị, có lòng tốt hỏi thăm vài câu, nhưng tôi mặc kệ không để ý, chỉ bần thần ngồi ngây ra đó như bức tượng. Có lẽ tại ngồi lâu quá, không ngờ bị họ coi luôn là người mẫu, líu ra líu ríu vừa nhìn tôi vừa đưa bút vẽ phác họa, rồi cười đùa rúc rích khoa tay múa chân bình phẩm mặt mũi tôi. Bước lại xem, thấy mình trong tranh tựa như một cỗ xác ướp, lòng không nén nổi nỗi đau dâng trào, đành lặng lẽ nuốt tiếng thở dài bỏ đi.   

Đói thì ra các quán ăn ngoài trời nhỏ ở quảng trường thị trấn. 

Có một hàng làm món gà nướng rất ngon. Nhưng tôi gọi lên rồi lại chẳng ăn được mấy miếng, toàn ném cho một con chó nhỏ cạnh đó. Một con chó nhỏ lười nhác và bẩn thỉu, thậm chí còn không biết là loại chó gì nữa. 

Con chó cứ lại gần một bàn, lặng lẽ đứng yên, không kêu cũng không sửa, vô cùng nhẫn nại chờ đợi, nhưng rất ít người ném đồ ăn cho nó, thậm chí còn đuổi nó đi, con chó lại sang một bàn khác, cứ thế tuần hoàn như vậy. Duy chỉ có tôi là ném cho nó rất nhiều thịt, con chó hình như vì thế mà có cảm tình với tôi, chỉ cần tôi đi qua đó, là nó đã vẫy đuôi chạy tới, tung tăng vòng vòng trước mặt tôi, đi theo một quãng rất xa. Nó không hề có ý xin thức ăn, mà phảng phất như chỉ muốn tìm một người bạn. Điều này làm tôi rất cảm động, huống hồ tôi cũng đang cần một người bạn. Thế là mỗi ngày cứ đến giờ đó là tôi lại đến quán ăn ấy ăn cơm, con chó nhỏ cũng đúng giờ ở đó đợi tôi. Về sau nó còn đi luôn với tôi khắp các ngõ hẻm, như hình với bóng. Cuối cùng chủ con chó cũng có ý kiến. Tôi đành không đến đó ăn cơm nữa, thỉnh thoảng mới qua ném cho con chó cái gì ăn. 

Đến chỗ bác già ăn tào phớ, bác vui vẻ nhắc đến Lông Mi, không tiện giải thích, tôi đành đáp qua loa cho xong chuyện.   

Sau rồi tìm được một bar rượu nhỏ trong một ngôi biệt thự cũ kỹ. 

Chủ quán tương đối trầm, thậm chí còn không treo cả biển cho quán bar, khách thích đến thì đến, không thích thì thôi, điều này làm tôi rất thích. Hàng ngày, cứ tầm 8 - 9 giờ tối, sau khi đã đi lang thang khắp nơi trong thị trấn cổ, là tôi lại vào quán bar, gọi một chai bia do địa phương sản xuất, uống từng ngụm nhỏ một. Ngồi nghe bài hát "Chuyện thành phố nhỏ" của Đặng Lệ Quân mà quán bar ngày nào cũng mở, nhìn người qua lại ngoài đường, rồi lặng lẽ thần người ra. Quán bar từ sáng tới tối chỉ có một mình tôi là khách, quen rồi họ cũng chẳng coi như người ngoài, nhiều khi nhàn rỗi quá, tôi lại ra sân nhà họ tản bộ. Tôi rất thích những viên gạch lát sàn lớn trong phòng khách nhà họ, nhìn vừa dày vừa chắc chắn, bước lên trên đó, bao nhiêu tâm sự gì cũng có thể tan biến hết. 

Chủ quán là một người thích du lịch, đang trên đường đi khắp nơi, để lại quán cho bố mẹ coi sóc. Bố mẹ anh ta không biết bật nhạc, trong quán lại chỉ có mình tôi, bèn nhờ tôi chọn giúp. Tôi cầm hộp đĩa xem thử, thấy chủ quán để lại rất nhiều nhạc Jazz, "Bossanova", "Country Blues", còn có cả một ít rock nữa. Có Gun&Rose;, tôi rất muốn nghe "Don't cry" nhưng đang canh ba nửa đêm, không tiện phá hoại sự yên tĩnh của thị trấn nhỏ, đành chọn một đĩa của Leonard Cohen, "Hey That's no way to say goodbye" , tiếng nhạc u uất bay lên, trong sự thê lương còn ẩn chứa một chút ấm áp. Tôi vừa uóng rượu, vừa nghịch chiếc vỏ đĩa: Leonard Coen ngồi quay lưng lại với ống kính, trước mặt là một nóc nhà mái ngói xanh như những ngôi nhà mái ngói xanh ở Tây Đệ, cô đơn ôm cây đàn ghita, tựa như đang khẽ ngân nga một khúc nhạc, lại tựa như đang trầm mặc suy tưởng, sự lạc lõng cô đơn tràn đến bao vây xung quanh người ca sĩ. 

- Người này đang đọc hay là đang hát thế ? 

Ông già nheo nheo mắt cười, hiếu kỳ hỏi tôi. 

Vốn định trả lời: "Đó là một thi sĩ dân ca, hát tức là đọc thơ." 

Nhưng một câu như vậy quả thực là không thể giải thích rõ. Đành thay một đĩa nhạc sáo Scotland. 

"Thổi sáo hay thật đấy. Dân ca à ? Tỉnh nào thế nhỉ ?" 

Ông già lại nheo mắt hỏi. 

Tôi chỉ cười, khẽ lắc đầu.   

Khách du lịch đến Tây Đệ đa phần là những người giàu có ở vùng Triết Giang. Đi về trong ngày, số trọ lại qua đêm rất ít. 

Buổi tối, nơi đây đặc biệt vắng vẻ, một tiếng chó sủa cũng có thể truyền đi khắp thị trấn. Tôi cũng thử làm vậy vài lần, hiệu quả không tệ lắm. Bắt đầu mê thích sự lạnh lẽo vắng vẻ ở đây, tôi thường một mình đi lang thang khắp nơi, nhẹ chân lê bước trên đường. 

Tôi cũng có một người bạn, một chú mèo. 

Tôi khẽ bước trong một ngõ hẻm nhỏ, chú mèo lặng lẽ đi theo trên bờ tường. Tôi qua cầu, mèo cũng bò qua mái cầu bên trên. Tôi ngồi trong đình nhỏ nghỉ chân hút thuốc, mèo nằm cuộn tròn trên mái đình nhìn tôi ngáp ngáp. Tôi đi đã mệt, về khách sạn ngủ, mèo cũng đi theo nhảy lên nóc nhà. Tôi nằm trên giường nghĩ ngợi, mèo thì nằm trên mái ngói xanh lim dim ngủ. 

Nhắm mắt lại một lúc. 

Mở ra. 

Chú mèo đã biến mất. 

Một buổi chiều như bao buổi chiều khác, tôi trả phòng, quyết định về nhà. 

Ông già có vẻ lưu luyến lắm, có lẽ hai người đàn ông trầm mặc ít nói ở với nhau, đã được một thứ tình cảm gì đó gắn kết lại ? 

Tôi đến quán ăn nọ cho con chó một miếng thịt cuối cùng, rồi ra chợ ăn hai bát tào phớ của bác già, về khách sạn chào tạm biệt ông lão. Ông nói hôm nay là cuối tuần, người đến sẽ rất nhiều, rất náo nhiệt, còn có cả đoàn kịch địa phương dựng rạp biểu diễn nữa. 

Tôi chỉ cười cười, nói mình không thích náo nhiệt rồi lặng lẽ ra đi. 

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/41299


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận