Shushi Cho Người Mới Bắt Đầu Chương 20-21


Chương 20-21
Và rồi Lisa tỉnh dậy sáng hôm sau và cảm thấy cô không thể nào tiếp tục được.

Tự nhiên thế. Cô chưa bao giờ cảm thấy tuyệt vọng đến vậy. Ngay cả những ngày cuối cùng khủng khiếp với Oliver cũng không làm cô cảm thấy ngập chìm trong vô vọng như thế này - dạo đó cô đã lao mình vào công việc, gặm nhấm niềm an ủi cay đắng rằng một góc trong cuộc sống của cô vẫn còn hoạt động.

Vấn đề là ở chỗ Lisa không thực sư coi trầm uất là một khái niệm. Trầm uất là một cảm giác mà những người khác trải qua khi cuộc sống của họ không được lung linh như ý. Giống như cô đơn. Hoặc buồn chán. Nhưng nếu như bạn có đủ những đôi giày đẹp đẽ và ăn đủ trong những nhà hàng tuyệt diệu và đã được cất nhắc vượt qua cả ai đó xứng đáng hơn bạn, thì chẳng việc gì phải cảm thấy tồi tệ.

Dù thế nào đi nữa thì lý thuyết cũng là như vậy. Nhưng nằm trên giường, cô thấy sốc trước mức độ trầm uất của mình. Cô đổ lỗi cho những tấm rèm và sự thừa thãi gỗ thông - ngần ấy là đủ để khiến bất kỳ người đầu óc bình thường nào cũng phải phát điên. Cô căm thù sự tĩnh lặng bên ngoài ánh sáng mỏng tan của căn phòng. Khu vườn chết tiệt, cô giận dữ nghĩ. Cái cô muốn là tiếng ầm ì của những chiếc taxi, tiếng cánh cửa xe đóng rầm, âm thanh của những con người ăn mặc lịch lãm đến rồi đi. Cô muốn cuộc sống bên ngoài khung cửa sổ của mình. Cô vẫn còn cảm giác chếnh choáng sau đêm qua - cô không thể nào đếm nổi số ly vang trắng đã uống và cái trò bảo đảm rằng mọi loại đồ uống thứ hai đều chỉ là nước khoáng dường như cũng mất đi tác dụng một khi bạn đã uống đến lượt thứ hai mươi. Cô đổ lỗi cho cô nàng Joy đó.

Nhưng cơn chếnh choáng thực sự lại là cảm xúc. Cô đã vui vẻ, chơi bời thỏa thích, và bầu không khí hưng phấn của đêm qua đã đánh thức điều gì đó, bởi vì cô không thể nào không nghĩ đến Oliver. Cô đã làm rất tốt cho đến lúc này. Lúc nào cũng thành công trong việc ngăn chặn những ý nghĩ về anh trong suốt - cô cho phép mình đếm lại - gần năm tháng qua. Thực ra, một khi không cố gắng ép mình không nghĩ về điều đó, cô thậm chí còn biết rõ là bao nhiêu ngày đã qua. Một trăm bốn mươi lăm ngày. Kể cũng dễ theo dõi khi ai đó chọn đúng ngày đầu năm mới để rời xa bạn.

Cũng không phải là cô đã làm gì nhiều nhặn để thuyết phục anh ở lại. Quá kiêu hãnh. quá thực tế - cô đã quyết định rằng sự khác biệt giữa họ là không thể hàn gắn nổi. Có một số điều mà cô sẽ không - không thể - nhượng bộ.

Nhưng trong buổi sáng kinh khủng này, tất cả những gì cô có thể nhớ là những mẩu ký ức đẹp đẽ, những ngày đầu tiên ấy, ngập tràn trong hy vọng và mộng mơ.

Khi ấy cô đang làm ở Chic, còn Oliver là một nhiếp ảnh gia thời trang. Trên Đường Triển Vọng. Anh thường điệu đàng lượn vào văn phòng, những lọn tóc nhỏ tung bay. Ngay cả khi anh bị muộn buổi hẹn với tổng biên tập - thực ra, đặc biệt là vào những lúc ấy - bao giờ anh cũng ghé lại tán gẫu với Lisa.

“New York thế nào?” Cô hỏi, trong một lần trò chuyện.

“Rác rưởi. Tôi ghét nó.”

“Ồ, thật sao?” Mọi người khác dường như đều yêu thích nó, nhưng Oliver không bao giờ hùa theo lối suy nghĩ thông thường.

“Thế anh có chụp ảnh cho siêu mẫu nào khi anh còn ở đó không?”

“Ồ, có chứ. Rất nhiều.”

“Vậy á? Tọc mạch một tí nhé, Naomi thế nào?”

“Rất có khiếu hài hước.”

“Còn Kate?”

“Ồ, Kate rất đặc biệt.”

Mặc dù Lisa lấy làm thất vọng vì anh không chia sẻ những câu chuyện của người trong cuộc về các màn đỏng đảnh và xài heroin, nhưng việc anh không thấy ấn tượng với bất kỳ ai đã gây ấn tượng rất nhiều đối với cô.

Thậm chí cả trước khi trông thấy anh, bạn luôn biết ngay mỗi khi anh có mặt trong văn phòng. Vây quanh anh lúc nào cũng là những chuyện ồn ào không bao giờ ngớt, hết kêu ca rằng người ta tính sai toe toét tiền công tác phí của anh, lại đến phản đối rằng người ta đã in những bức ảnh yêu quý của anh trên giấy quá rẻ tiền, tranh cãi và cười nói đầy hăng hái. Giọng anh trầm ấm và lẽ ra có thể coi là quyến rũ như sôcôla, chỉ có điều anh quá sôi nổi. Khi anh phá lên cười chỗ đông người, mọi người luôn phải quay ra nhìn. Ấy là nếu họ không nhìn sẵn từ trước. Vẻ đẹp từ cơ thể to lớn và chắc nịch hoàn toàn không ăn nhập với phong thái lịch lãm nhẹ nhàng như đánh lừa mọi người của anh. Dạo đó mỗi lần anh vào trong văn phòng, Lisa lại kín đáo quan sát anh. “Đen” là một từ không chuẩn, cô vẫn thường nghĩ vậy. Thực ra còn phức tạp và tinh vi hơn thế rất nhiều. Mọi thứ đều lấp lánh - làn da, mái tóc, hàm răng của anh. Đó là chưa kể những giọt mồ hôi trên lông mày của tổng biên tập. Hôm nay anh sắp sửa lại làm ầm lên vì chuyện gì nữa đây?

Mặc dù anh vẫn còn đang tạo dựng tên tuổi cho mình, anh rất thành thật, kiên định và khó tính. Anh không bao giờ quỵ lụy bất kỳ ai và khi người ta làm anh bực mình anh sẽ cho họ biết ngay. Chính sự tự tin đó, cũng như vẻ đẹp của anh, đã khiến Lisa quyết định rằng cô muốn có anh. Việc ngôi sao chiếu mệnh của anh đang ở thế đi lên càng không hại gì, hiển nhiên là thế.

Kể từ khi mới bắt đầu đi chơi với bọn con trai, bao giờ Lisa cũng hẹn hò một cách có chiến lược. Đơn giản cô không phải là loại con gái đi chơi với một tay nhân viên bán bảo hiểm. Cũng không hẳn là đến mức máu lạnh như vậy. Cô không bao giờ tự bắt ép mình phải đi chơi với một người đàn ông có thế lực mà cô không có cảm tình. Đúng ra là hầu như không bao giờ. Nhưng cô phải thừa nhận có những người đàn ông mà cô mê mẩn cho dù biết rằng sẽ không bao giờ coi những mối quan hệ này nghiêm túc: một anh chàng thư ký tòa án nghiêm nghị và quyến rũ với cái tên Frederick; Dave, chàng thợ sửa ống nước ngọt ngào nhất; và - kém môn đăng hộ đối nhất trong tất cả - một tay tội phạm nhãi nhép rất sinh động tên là Baz. (Ít nhất thì đó cũng là cái tên gã nói với Lisa, mặc dù không có gì bảo đảm rằng đó là tên thật của gã.)

Thỉnh thoảng cô cũng tự cho phép mình dễ dãi một chút, và có màn yêu đương chớp nhoáng với một trong những kẻ không hy vọng này, nhưng không bao giờ phạm phải sai lầm đi nghĩ rằng ở họ có chút tương lai nào đó. Họ là những thanh sô cô la Milky Way - loại đàn ông bạn có thể ăn vặt giữa những bữa chính mà không sợ mất đi cảm giác ngon miệng.

Những mối quan hệ thực sự của cô là với một loại đàn ông hoàn toàn khác. Một tay chủ nhiệm tạp chí - chính mối quan hệ lãng mạn này đã dẫn đến việc cô giành được công việc đầu tiên ở tờ Sweet Sixteen. Một tiểu thuyết gia kiểu Chàng-trai-trẻ-tức-giận, anh chàng này đá cô khá phũ phàng, để rồi sau đó cô luôn bảo đảm cho tác phẩm của anh ta nhận được những bài phê bình cay độc nhất (điều này khiến anh ta thậm chí còn tức giận hơn cả lúc trước). Một tay nhà báo âm nhạc ưa tranh cãi, cô mê mệt anh ta cho đến khi anh ta phát hiện ra dòng nhạc acid jazz và bắt đầu để râu dê.

Oliver đứng giữa hai loại đàn ông này. Anh đẹp trai đủ để thuộc về nhóm thứ nhất, nhưng cũng đủ tài năng và cá tính để có vị trí riêng của mình trong nhóm thứ hai.

Cùng với mỗi chuyến thăm của Oliver tới Chic, mối liên kết giữa anh với Lisa trở nên sâu sắc thêm. Cô biết anh thích và tôn trọng cô, rằng sự hấp dẫn giữa họ còn hơn, hơn rất nhiều chứ không đơn thuần là vấn đề ngoại hình. Trong những ngày xa xưa ấy, không phải tất cả mọi người cô làm việc cùng đều căm ghét cô, nhưng càng trở thành cục cưng của Oliver bao nhiêu, cô lại càng trở thành Đồng Nghiệp Bị Căm Ghét Nhất bấy nhiêu.

Nhất là sau khi cô bắt đầu có những ân huệ đặc biệt dành cho anh. Khi cô lần ra được bốn tấm phim chiếu bị thất lạc, Oliver đã cười cợt xạc cho những người còn lại ở Chic một mẻ. “Nghe này, hỡi những kẻ đù đờ vô tích sự kia, quý cô đây là một thiên tài. Tại sao tất cả các vị lại không thể giống như cô ấy nhỉ?”

Nghe đến đó, một cái liếc căm tức lia vụt qua văn phòng như một dòng điện. Có thể là Lisa đã tìm thấy mấy tấm phim chiếu thất lạc, nhưng cô cũng đã làm rối tung tất cả những thứ khác trong hai ngày trước đó.

Lisa cũng lờ mờ biết được rằng Oliver đã có bạn gái, nhưng cũng không có gì bất ngờ khi xuất hiện thông tin là một lần nữa anh lại trở thành người độc thân. Cô biết tiếp theo sẽ đến lượt mình. Mặc dù tán tỉnh nhau như điên, nhưng họ không bao giờ làm ra vẻ giữ kẽ. Sự gắn kết giữa họ quá rõ ràng, sẽ thật là giả dối nếu chối bỏ điều đó.

Quá rõ ràng đến nỗi Flicka Dupont (trợ lý biên tập trang chuyên đề), Edwina Harris (thư ký trang thời trang) và Marina Booth (biên tập viên sức khỏe và sắc đẹp) ngấm ngầm ấp ủ một âm mưu cắt phần của cô trong một giỏ những lọ dầu gội đầu John Frieda miễn phí, với lý do là cô đã nhận được quá đủ màu mè rồi.

Cái ngày được chờ đợi ấy cuối cùng thì cũng đến khi Oliver xuất hiện ở Chic, bước thẳng đến chỗ Lisa và nói, “Bé cưng à, anh có thể đưa em đi uống gì đó tối thứ Sáu này được không?”

Cô lưỡng lự, định giở trò mèo vờn chuột, nhưng nghĩ thế nào lại thôi. Cô thở phù ra trong tiếng cười run rẩy. “OK.”

“Em đang định bắt anh phải chịu đựng, đúng không?” anh thốt lên.

“Ừ hứ,” cô gật đầu nghiêm nghị.

Cả hai cùng phá lên cười ầm ĩ đến nỗi, Flicka Dupont cách đó ba bàn, làu bàu, “Cho tôi xin!” và phải nhét ngón tay vào tai để đẩy lui những âm thanh khó nghe.

Lát sau Flicka khịt mũi nói với Edwina, “Tôi không thấy ghen tị với cô ta.”

“Trời đất ơi, cả tôi cũng không!”

“Anh ta là một tên dở hơi.”

“Một kẻ rách chuyện,” Edwina đồng tình.

Cả hai cùng chìm vào im lặng.

“Mặc dù vậy tôi vẫn muốn làm chuyện đó với anh ta,” cuối cùng Flicka thú nhận.

Chị muốn thật ư?” Edwina chưa bao giờ là con dao sắc nhất trong ngăn tủ.

Đến buổi hẹn đêm thứ Sáu, Oliver và Lisa đi uống một chầu. Rồi anh đưa cô đi ăn tối, tại đây hai người vui đến nỗi sau đó họ tới một câu lạc bộ và nhảy mấy tiếng đồng hồ liền. Đến ba giờ sáng, họ đến căn hộ của anh và tận hưởng màn ái ân ngộp thở được khát khao từ lâu, trước khi tranh thủ ngủ vài giờ. Sáng hôm đó họ tỉnh giấc trong vòng tay của nhau. Họ dành cả ngày trên giường, trò chuyện, gà gật và chốc chốc lại vồ lấy nhau ngấu nghiến.

Tối hôm đó, phởn phơ, họ uể oải nhấc người dậy khỏi chiếc tổ tình yêu của mình, và Oliver đưa Lisa tới một nhà hàng Pháp khá dở hơi, ưu điểm duy nhất của nó là khoảng cách đi bộ được. Dưới ánh sáng của những ngọn nến đỏ cắm trong chai rượu vang, họ bón cho nhau món con trai vô vị và thịt gà hầm rượu vang đỏ dai ngoách.

“Đây là món ăn ngon nhất mà em từng được nếm.” Lisa liếm ngón tay và đắm đuối nhìn anh bên kia bàn.

Trên đường về nhà, họ bị cuốn vào một đám cưới kiểu Mỹ đang được tổ chức trong đại sảnh của nhà thờ gần đó. “Mời vào, mời vào,” một người đàn ông phì nộn mời mọc, khi họ đi ngang qua. “Hãy mừng cho hạnh phúc của con trai tôi.”

“Nhưng...” Lisa phản đối. Đây hoàn toàn không phải cách để một chiến binh sành điệu như chính cô tiêu khiển tối thứ Bảy! Nhỡ may ai đó cô biết trông thấy cô thì sao?

Nhưng Oliver, “Tại sao lại không nhỉ? Đi nào, Lees, biết đâu lại vui thì sao.”

Đồ uống được ấn vào tay họ, và họ ngồi trong bầu không khí thoải mái như một giấc mơ trong khi khắp xung quanh, người trẻ và người già trong những bộ quần áo kiểu đồng quê, thêu ren, nhảy những điệu rất lạ mắt giống điệu polka theo tiếng nhạc inh ỏi và gấp gáp mang phong cách bazouki. Một bà già với khăn trùm đầu và giọng nói rất nặng bẹo má Lisa một cách trìu mến, mỉm cười hết nhìn Oliver lại nhìn sang cô và nói, “Đang iêu. Rõ là đang iêu.”

“Ý bà ấy nói em hay anh đang yêu nhỉ?” Lisa băn khoăn hỏi, lúc này mới kịp nhận ra có lẽ cô đang để lộ tâm trạng phởn phơ quá mức của mình.

“Cô đấy, cô gái.” Bà già nở một nụ cười móm mém.

“Nói linh tinh,” Lisa lầm bầm.

Ngay lập tức Oliver phá lên cười, cặp môi tuyệt đẹp của anh kéo căng ra quanh hai hàm răng trắng và khỏe mạnh. “Chạm tự ái kìa!” anh trêu chọc. “Chắc chắn là vì em thực sự yêu anh.”

“Hoặc có thể là anh yêu em,” cô bực bội trả lời.

“Anh chưa bao giờ nói là anh không yêu,” anh trả lời.

Và mặc dù đó không phải là kiểu trải nghiệm cảm xúc bình thường cô vẫn trải qua, ngay tại đó, giữa sự bất ngờ của bữa tiệc đám cưới tuyệt đẹp và siêu thực ấy, Lisa cảm thấy như thể họ đã được chạm vào bằng bàn tay của Chúa.

Buổi sáng Chủ nhật, họ thức dậy trong trạng thái cuộn chặt vào nhau. Oliver ấn cô vào xe của anh, và đi vòng ra đường cao tốc đến Alton Towers, ở đây họ dành cả ngày thách thức nhau chơi những trò tàu lượn siêu tốc mỗi lúc một nguy hiểm hơn. Mặc dù rất khiếp đảm, cô vẫn tiếp tục chơi trò tàu lượn Nemesis bởi vì cô không muốn thể hiện nỗi sợ hãi trước mặt anh. Và khi cô hơi tái xanh và bước đi lảo đảo anh mới cười và nói, “Quá sức đối với em rồi phải không, bé?” Trước câu hỏi đó cô đáp lại rằng cô bị rối loạn tai trong. Oliver thách thức và tạo cảm hứng cho cô hơn bất kỳ người đàn ông nào từng làm được. Anh cũng giống như chính bản thân cô, chỉ có điều là còn hơn.

Rồi họ về nhà ăn pizza và đi ngủ. Cuộc hẹn hò đầu tiên của họ kéo dài sáu mươi giờ đồng hồ và kết thúc khi anh thả cô xuống chỗ làm vào sáng thứ Hai.

Đến lần đi chơi thứ ba họ đã chính thức yêu nhau.

Đến lần thứ tư, Oliver quyết định đưa cô xuống Purley để ra mắt bố mẹ anh. Lisa đinh ninh đó là một dấu hiệu cực kỳ tốt, nhưng khi nó diễn ra, nó hầu như lại là chuyện hủy hoại mối quan hệ của họ. Mọi việc bắt đầu sáng tỏ khi họ đã ở trong xe được khoảng nửa tiếng đồng hồ và Oliver bỗng nói, “Anh cũng không chắc liệu bố đã đi làm về chưa nữa.”

“Ông ấy làm nghề gì?” Trước đó Lisa chưa bao giờ nghĩ đến chuyện hỏi câu này, chẳng có vẻ gì là quan trọng cả.

“Bố anh là bác sĩ.”

Một bác sĩ! “Bác sĩ kiểu gì cơ?” Một bác sĩ vệ sinh đường phố - nói cách khác, một người quét đường à?

“Một bác sĩ đa khoa ấy mà.”

Cú sốc làm cô chết lặng. Thế đấy, cô đã kẻ cả nghĩ Oliver xuất thân từ tầng lớp dưới, vậy mà hóa ra từ đầu đến giờ anh vẫn là dân trung lưu và chính cô mới là dân tầng lớp dưới. Giờ thì sẽ không bao giờ có chuyện cô có thể đưa anh đến ra mắt bố mẹ mình.

Suốt phần còn lại của chặng đường, cô hy vọng và cầu nguyện rằng, cho dù người bố là bác sĩ, nhưng biết đâu họ lại nghèo. Nhưng khi Oliver dừng xe lại trước một ngôi nhà to lớn, tráng lệ, những ô cửa sổ có khung bằng chì đúc nhái kiểu thời Tudor_, những tấm rèm hiệu Laura Ashley nhập từ Áo, và cơ man nào là các món đồ trang trí lặt vặt có thể nhìn thấy trên các bậu cửa sổ nói lên rằng họ không hề khó khăn về vấn đề tài chính.

Trước khi họ lên đường, cô đã chắc mẩm mẹ của Oliver là một người phụ nữ hông to, xởi lởi, đi đôi giày ở nhà hình chuột Minnie, người uống bia Red Stripe vào bữa sáng và có điệu cười chói tai “Heee! Heee! Heee!” Thay vào đó, khi bà ra mở cửa, trông bà chẳng khác gì nữ hoàng. Có đen hơn một chút, nhưng với mái tóc quăn dày và bộ cánh trang nhã của Marks & Spencer’s, tất cả đều đầy đủ và hợp kiểu.

“Rất vui được gặp cháu, cháu thân mến.” Giọng nói rất chuẩn của vùng Home Counties(1)_ và Lisa cảm thấy lòng tự trọng của cô thậm chí còn teo tóp thêm.

“Chào bác Livingstone.”

“Cứ gọi bác là Rita. Cháu vào nhà đi. Bác trai ở phòng khám về muộn, nhưng lát nữa là bác ấy về đến đây thôi.”

Họ được dẫn vào căn phòng khách bài trí rất đầy đủ và khi Lisa nhận ra rằng những món đồ nội thất mềm đều đã được tháo bỏ lớp giấy bóng bọc ngoài, đó mới thực sự là đòn trí mạng.

“Trà nhé?” Rita vui vẻ gợi ý, vừa vuốt ve con chó labrador lông vàng óng mới đặt đầu vào lòng bà. “Trà đen Trung Quốc_ hay trà Bá tước Xám?”

“Bác đừng bận tâm,” Lisa lẩm bẩm. PG Tips_(2) thì đã sao nhỉ?

“Đây không phải những gì em đã hình dung,” Lisa không thể ngăn được mình buột miệng thì thầm khi chỉ còn lại cô và Oliver ngồi với nhau.

“Thế em đã hình dung điều gì chứ? Rằng gia đình anh sẽ ăn gạo với đậu, uống rượu rum,” Oliver chuyển sang thứ tiếng Anh giọng Caribê hoàn hảo, “và nhảy nhót theo tiếng trống sắt ngoài hiên nhà chắc?”

Chính xác! Đó là lý do duy nhất khiến em đến đây.

“Anh không nghĩ vậy đâu, bé yêu của anh.” Anh vụt chuyển sang giọng của đài BBC thời chiến. “Vì chúng tôi là người Annnh!”

“Cái tên chính xác cho chúng ta, như bác được biết,” Rita đã xuất hiện trở lại với một chiếc khay đựng một đĩa bánh quy tự làm, không đường, chán ặc, “là Bounty_(1).” Tức là “Kem que phủ sô cô la.”

“Tại...tại sao ạ?” Lisa bối rối không hiểu.

“Bên ngoài thì nâu, bên trong thì trắng.” Bà vụt nở một nụ cười hồn hậu. “Đó là cách mà gia đình ta gọi những người như chúng ta. Và cháu không thắng được đâu vì mấy người hàng xóm da trắng cũng ghét chúng ta! Gia đình bên cạnh bảo với bác rằng giá trị ngôi nhà của họ đã giảm mất mười nghìn bảng kể từ khi chúng ta dọn tới.”

Bất ngờ, hoàn toàn tương phản với vẻ bề ngoài Marks & Spencer’s của mình, bà bật ra một tràng cười the thé . “Heee! Heee! Heee!” Và Lisa cảm thấy nỗi tự ti đề nặng trên vai cô bỗng tan biến giống viên đường mà cô không cho vào trà của mình. Hừm, hàng xóm láng giềng căm ghét họ, nếu vậy thì tất cả đều ổn thỏa, chẳng phải thế còn gì? Lúc này họ còn không còn đáng sợ bằng một nửa trước đó.

Đến lần hẹn hò thứ năm Oliver và Lisa đã nói chuyện về việc chuyển đến sống chung. Họ nghiên cứu kỹ hơn về ý tưởng này trong lần hẹn hò thứ sáu. Lần hẹn hò thứ bảy của họ bao gồm việc lái một chiếc xe thùng từ Battersa tới West Hampstead và ngược lại, trong quá trình họ chở tủ quần áo khổng lồ của Lisa từ căn hộ của cô sang căn hộ của anh. “Em sẽ phải bỏ bớt một phần tủ đồ nghề này thôi, bé yêu ạ,” anh hốt hoảng nói. “Hoặc không thì chúng ta sẽ phải mua một chỗ lớn hơn.”

Có lẽ, sau này Lisa mới nhận ra, ngay từ hồi đó đã có những dấu hiệu cho thấy tất cả mọi việc không được như chúng lẽ ra phải thế. Nhưng, tại thời điểm đó, cô hoàn toàn mù quáng trước chúng. Dường như chưa bao giờ có điều gì hoàn hảo đến thế. Cô cảm thấy anh thực sự nhìn thấu và chấp nhận cô, với tất cả tham vọng, nghị lực, ước mơ và nỗi sợ hãi của cô. Cô cho rằng họ là hai cá thể cùng một loại. Trẻ trung, sôi nổi, tham vọng, thành công đối đầu với mọi khó khăn.

Vào thời gian đó, khái niệm về một người bạn tâm giao đang là mốt thời thượng, mới được nhập khẩu từ Los Angeles về. Và khi ấy Lisa cũng tự hào sở hữu một anh chàng như vậy.

Ngay sau khi họ chuyển tới sống chung, Lisa chuyển sang Femme làm phó tổng biên tập. Sự kiện này trùng với việc Oliver trở thành thứ hàng hiếm bị săn lùng ráo riết. Cho dù là không phải lúc nào anh cũng được mọi người cảm tình trên cấp độ cá nhân - một số người đánh giá anh là hơi quá khắt khe một chút - tất cả các tạp chí bỗng nhiên chen chúc và tranh giành nhau để sử dụng anh. Oliver tự phân chia mình thật bình đẳng cho tất cả bọn họ, cho đến khi Lily Headly-Smythe hứa sử dụng một trong những bức ảnh của anh cho trang bìa tạp chí Panache phát hành dịp Giáng sinh, rồi bà ta lại đổi ý.

“Bà ta đã nuốt lời. Anh sẽ không bao giờ làm việc cho Panache hoặc Lily Headly-Smythe nữa, Oliver tuyên bố.

“Cho đến lần sau,” Lisa cười.

“Không,” Mặt anh rất nghiêm nghị. “Không bao giờ.”

Và anh không làm thật, ngay cả sau khi Lily gửi tặng anh một chú cún lai giữa sói và chó săn của Ireland thay lời xin lỗi. Lisa vô cùng khâm phục. Anh mới thật vững vàng, kiên định làm sao.

Nhưng đấy là trước khi sự cứng đầu của anh được áp dụng với chính cô. Sau đó cô không còn thích thú nó như trước nữa.

 

 

21

Ashling cũng có một ngày Chủ nhật không mấy hay ho.

Cô thức giấc trong tâm trạng phấp phỏng mơ hồ về Marcus Valentine. Tò mò và chờ đợi, cô cảm thấy hoàn toàn sẵn sàng - cho một buổi hẹn hò, cho một màn tán tỉnh, một chầu tâng bốc. Rất dứt khoát là điều gì đó...

Cả buổi sáng dành cho việc quanh quẩn ra ra vào vào, nằm cuộn tròn trong chăn ấm, những giác quan của cô căng ra hết cỡ. Nhưng khi ngày tắt dần mà không có cú điện thoại nào, nụ cười bên trong cô đông lại thành nỗi bực bội. Để giết thời gian và tiêu bớt năng lượng thừa trong người, cô bắt tay vào dọn dẹp đôi chút.

Mà Marcus cũng đâu có nói khi nào anh sẽ gọi điện. Nỗi bẽ bàng của cô vì bị cự tuyệt thì ít mà chủ yếu là cảm giác bỏ lỡ một cơ hội tốt. Nhưng cho dù cô không thể nói chắc chắn mình có mê anh ta không, cô ngờ rằng cũng có thể. Tất nhiên, cô sẵn sàng cố hết sức của mình. Về mặt cảm xúc mà nói, cô cứ ăn diện rồi chẳng có chỗ nào để đi thì thật chẳng hay ho gì.

Nhìn mình này, cô nghĩ, vừa giận dữ cọ nhà tắm. Trước đây mình đã từng như thế này. Chờ đợi một người đàn ông gọi điện. Quá muộn, cô nhận ra mình đã hưởng thụ khoảng thời gian trống ngắn ngủi đó biết bao khi cô không còn phải bận lòng về một người đàn ông và trước khi cô trở nên phải lòng một người khác. Thật đáng đời mình vì đã nông cạn đến mức đi phải lòng một người-đàn-ông-trên-sân-khấu.

Cô mới tiếc làm sao vì đã không bellez anh ta khi có cơ hội. Và bây giờ thì đã quá muộn vì cô không tìm thấy mảnh giấy ở đâu cả. Cô hoàn toàn không nhớ gì về việc có thực sự ném nó đi không nữa - nếu ném thì hẳn cô đã phải nhớ vì kiểu gì cô cũng sẽ nghĩ mình thật là tàn nhẫn. Nhưng lục lọi khắp các túi tắm và ngăn kéo gần đó cũng không mang lại kết quả gì, trừ những tờ hóa đơn gợi ra cảm giác tội lỗi và tờ rơi quảng cáo máy tính.

Quay lại với việc dọn dẹp. Nhưng sau khi chùi sạch bên trong chiếc lò vi sóng, cô thấy cần một sự nâng đỡ, nên quyết định ngó trộm trước xem tương lai của mình thế nào. Những lá bài tiên tri thiên thần của cô không hứa hẹn bất cứ điều gì, thế là để giục giã cuộc gọi của Marcus nhanh đến, Ashling - ít nhiều cũng ngượng ngùng - khai quật bộ Hộp ước của mình. Nó chưa hề được thấy ánh sáng mặt trời kể từ những ngày cuối cùng với Phelim. Cô biết rằng cách này không báo trước điềm gì may mắn.

Chiếc hộp gồm sáu cây nến, mỗi cây được trang trí với một từ - Tình yêu, Tình bạn, May mắn, Tiền bạc, Hòa bình và Thành công - và tương ứng với chúng là sáu hộp diêm. Những cây nến Tình bạn, Tiền bạc và Thành công thậm chí còn nguyên cả ruột bấc chưa bị đốt, những cây nến Hòa bình và May mắn thì cháy được một tí, nhưng chính cây nến Tình yêu mới phải hoạt động nhiều nhất. Nó là anh bạn thân thiết nhất_ trong cả hộp. Một cách thành kính, với que diêm Tình yêu cuối cùng, Ashling châm ngọn nến, nó cháy ngon lành được khoảng mười phút cho đến khi hết sáp, rồi chập chờn và tắt hẳn.

A, chết tiệt, Ashling nghĩ, hy vọng đó không phải là một Điềm báo.

 

 

Chập tối Ted thò mặt xuống, trong tâm trạng của một người ở dưới vực sâu sau khi mới lên đỉnh cao. Mặc dù đã gặp nhiều cô gái, anh ta vẫn chưa tóm được cô nào trong số đó.

“Thế còn cô nàng lộng lẫy mà cậu đang nói chuyện khi tớ ra về thì sao? Cậu có ngủ với cô ta không?”

“Không.”

“Ted! Cậu không được nói thế. Ngay cả là cậu có không lên giường với cô ấy, cậu cũng phải nói là có để bảo vệ danh dự cho người ta chứ.”

Nhưng Ted không có vẻ gì là thích thú. “Cô ta bảo tớ có mùi buồn cười. Giống bà cô ta vậy.”

“Thì cũng phải có những người rất điên chứ?”

“Không, thật đấy.” Ted cáu kỉnh. “Cô ta nói đúng. Quả là có mùi như bà cô ta vậy.”

Trong khi Ashling đang băn khoăn không hiểu làm sao Ted lại biết bà cô gái kia có mùi như thế nào, thì Ted đã xơi xơi nói với cô đầy vẻ buộc tội. “Và cậu có biết tớ đoán là do cái gì không?”

“Cái gì?”

“Cái thứ chết tiệt mà cậu xoa lên người tớ trước khi chúng ta đi chơi.”

“À, dầu oải hương.” Nhiều lúc Ashling cảm thấy Ted bạc bẽo khủng khiếp.

“Đó là mùi của một bà già, đúng không?” Ted vẫn chưa chịu buông tha.

“Tớ nghĩ là mùi nước tiểu khăn khẳn thì đúng kiểu hơn.” Cảm giác bị đối xử vô ơn bạc nghĩa khiến Ashling trở nên cay độc đến bất ngờ.

“À, mà đằng nào cô ta cũng không hợp với tớ,” Ted lầm bầm thừa nhận. “Tất cả bọn họ đều quá trẻ con và ngốc nghếch, và bọn họ thích tớ vì những lý do sai lầm... Bạn cậu Clodagh,” đột nhiên anh ta hỏi. “Vẫn đang có chồng, đúng không?”

“Tất nhiên rồi.”

“Có chuyện gì với cậu vậy?” Ted đã nhận ra anh ta không phải là người duy nhất đang nói năng cắm cảu.

Ashling cân nhắc, và quyết định không rên rẩm về chuyện Marcus chưa gọi điện. Anh ta chưa hề phá vỡ lời hứa nào và có thể gọi bất kỳ lúc nào. Vì vậy thay vào đó cô chỉ khẽ nói, “Nỗi buồn tối Chủ nhật ấy mà.” Cô vẫn thường tâm sự với Ted, Joy, Dylan - thực tế là bất kỳ ai đi làm - về tiếng sấm kinh hoàng rền vang trong lòng vào khoảng năm giờ chiều một ngày Chủ nhật. Khi như có cả tấn gạch va vào khiến ta nhớ ra là phải đi làm vào sáng thứ Hai. Cho dù vẫn còn mấy tiếng đồng hồ cuối tuần nữa, nhưng thực tế thì tất cả hầu như đã chấm hết ngay khi ta có cảm giác tuyệt vọng như tiếng chuông báo tử đó.

Ted nhìn đồng hồ của mình và có vẻ hài lòng với lời giải thích đó. “Năm giờ mười. Chính xác tuyệt đối nhé.”

“Tớ thấy ngột ngạt quá. Bọn mình đi chơi đi.” Ashling vừa mới kịp nhớ ra một trong những nguyên tắc cơ bản trong mối quan hệ nam nữ. Tất nhiên là Marus chưa gọi - cô đã chờ kè kè suốt bên điện thoại! Tất cả những gì cô phải làm là ra khỏi nhà và chắc chắn anh ta sẽ đốt nóng ran đường dây điện thoại cho mà xem.

Trước khi họ ra ngoài cô quơ vội vài quyển sách cho Boo. Tối hôm trước cô đã bối rối đến phát ngượng khi không có quyển sách nào trong túi xách để đưa cho anh ta thay cuốn bách khoa toàn thư về nấm. Nhưng khi nhét cuốn Trainspotting(1)_ vào túi, cô chợt thấy chột dạ. Liệu anh ta có lấy làm bị xúc phạm không nếu cô đưa cho anh ta một cuốn sách về nghiện heroine? Liệu anh ta có nghĩ là cô đang ám chỉ điều gì đó?

Tốt nhất là cứ cẩn tắc vô ưu. Lại lôi nó từ trong túi ra. Thay vào đó cô lấy cuốn Fever Pitch và mấy quyển khoa học viễn tưởng linh tinh mà Phelim đã tặng cô hai sinh nhật trước mà cô chưa bao giờ đọc. Một cuốn sách dành cho con trai. Nhưng, xuống đến đường phố, không thấy bóng dáng Boo đâu.

Ted và Ashling đến quán Long Hall uống vài ly chẳng đâu vào đâu, tiếp theo là một chầu pizza lặng lẽ ở quán Milano’s, rồi lại quay về nhà. Khi Ashling vào đến trong nhà, điều đầu tiên cô tìm kiếm là ánh sáng đỏ nhấp nháy trên máy trả lời. Và nó kia rồi! Cô đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng để thất vọng đến nỗi cô cứ nghĩ mình đang tự tưởng tượng ra nó. Cô đứng chăm chú nhìn, trong khi ánh đèn nhấp nháy hết sáng lại tắt. Chấm tròn nhỏ màu đỏ, không còn chấm tròn nhỏ màu đỏ, chấm tròn nhỏ màu đỏ, không còn chấm tròn nhỏ màu đỏ... Đó là một tin nhắn, chắc chắn rồi. Vừa nhấn nút “play”, một ý nghĩ khủng khiếp bỗng làm cô nặng trĩu. Nếu như đây là của Cormac nói rằng anh ta sẽ chuyển tới một xe tải đầy cây bụi vào thứ Tư, mình sẽ gào lên mất.

Nhưng tin nhắn không phải là của nhà cung cấp đồ làm vườn bí ẩn, cũng không phải của Marcus Valentine. Nó là của bố Ashling.

Ôi lạy Chúa, chuyện gì đã xảy ra?

Trước khi nghe thấy giọng ông là sự im lặng xen lẫn với tiếng lạch tạch, tiếng tĩnh điện lẹt xẹt và tiếng thở khò khè. Sau đó ông nói với ai đó trong phòng cùng mình, “Giờ thì tôi nói nhé?”

Người kia - chắc hẳn là mẹ của Ashling - nói gì đó mà Ashling không nghe được, rồi Mike Kennedy nói, “Có mấy tiếng ngắn, và một tiếng dài. Chúa ơi, tôi ghét mấy cái trò này... Ashling, bố đây. Bố thấy mình ngốc khủng khiếp khi phải nói chuyện với một cái máy. Bố mẹ chỉ nghĩ là lâu lâu rồi bố mẹ không biết tin tức gì của con cả. Con có khỏe không? Bố mẹ ở đây rất ổn. Tuần trước Janet gọi điện về cho bố mẹ, con bé phải tống khứ con mèo đi, nó cứ húc vào đầu Janet trong khi con bé ngủ. Và bố mẹ còn nhận được một bức thư của Owen, nó nghĩ nó vừa khám phá ra một bộ lạc mới. Không phải là mới hoàn toàn, tất nhiên. Chỉ là mới đối với nó thôi. Bố đoán là con đang bận với công việc mới của mình, nhưng đừng có quên bố mẹ chứ, phải không? Hahaha. À, thôi tạm biệt con nhé.”

Lại những tiếng lạch tạch và tiếng thở. Rồi, “Tôi sẽ làm gì bây giờ? Cứ gác máy à? Tôi không phải ấn một cái nút hay thứ gì chứ?”

Bất thình lình tín hiệu kết nối bị cắt đứt.

Ashling bị kẹt giữa cảm giác tội lỗi và oán trách, Marcus Valentine hoàn toàn bị quên bẵng. Cô có thể cảm thấy áp lực đối với một chuyến về thăm Cork đang lớn dần. Không thì ít nhất cô cũng phải gọi điện cho bố mẹ. Nhất là khi em gái cô Janet còn vượt qua được sự chênh lệch những tám múi giờ để gọi điện từ California về, và em trai cô Owen có thể gửi cho họ một lá thư từ lưu vực sông Amazon.

Cô vụt liếc về phía bức ảnh cô vẫn để trên nóc tivi. Bức ảnh đã ở đó từ lâu đến nỗi nhiều lúc cô không nhìn thấy nó. Nhưng những cảm xúc bị cú điện thoại khuấy lên khiến cô phải cầm nó lên và đăm đăm nhìn, như thể đang lần kiếm đầu mối.

Cô chợt nhận ra, vẫn như mọi khi, rằng Mike Kennedy từng là một người đàn ông đẹp trai. Dạn dĩ và cao cáo, ông đang cười hết cỡ trước ống kính, với kiểu tóc mai đầu những năm 1970 và mái tóc xõa trên cổ áo sơ mi có trang trí họa tiết. Kể cũng buồn cười bởi vì một mặt ông là bố cô. Nhưng mặt khác, trông ông lại giống mẫu đàn ông đểu cáng bạn gặp trong một bữa tiệc nhưng vẫn bị hút vào, người mà bản năng tự bảo vệ của bạn sẽ cảnh báo nên tránh thật xa.

Mike quàng tay quanh Janet, lên bốn tuổi. Con bé đang cúi gập người ngang hông và nhét nắm tay vào giữa hai chân mình - lúc đó nó chỉ muốn vào nhà vệ sinh, cứ lần nào chụp ảnh là nó lại bị như vậy. Đứng dựa vào Mike, bế Owen ba tuổi trên hai cánh tay diện vải polyester họa tiết xoắn kiểu Pucci là Monica. Bà đang mỉm cười hạnh phúc, trông trẻ đến mức không thể nào tin nổi, mái tóc mượt mà và gọn gàng, lớp mascara Priscilla Presley lấp lánh. Và ở trung tâm, kẹp giữa hai người lớn, đôi mắt lên sáu tuổi lác sang hai bên trông rất buồn cười, là Ashling.

Lucifer_(1), trước khi bị ném khỏi Thiên đường, cô luôn nghĩ vậy mỗi khi chăm chú nhìn tấm ảnh. Họ trông thật giống một gia đình nhỏ hạnh phúc biết bao. Nhưng cô thường tự hỏi không biết, ngay từ ngày ấy, sự mục nát đã bắt đầu diễn ra chưa.

Đặt tấm ảnh lại chỗ cũ, cô trở về với hiện tại. Đã được khoảng ba tuần nay kể từ gần đây nhất cô gọi điện về cho bố mẹ mình. Không phải là vì sau lần đó cô quên mất - cô suy nghĩ rất nhiều về chuyện đó, nhưng hầu như lần nào cũng nghĩ ra được cớ để không gọi nữa.

Tuy vậy, cô cũng không bao giờ thực sự thoải mái với việc mình ít liên lạc với bố mẹ. Cô biết rằng Clodagh ngày nào cũng gọi cho mẹ. Mặc dù Brian và Maureen Nugent khác rất nhiều so với Mike và Monica Kennedy. Có lẽ giả sử nếu Brian và Maureen mà là bố mẹ cô thì có lẽ cô đã khá hơn trong việc duy trì liên lạc.

Hết chương 21. Mời các bạn đón đọc chương 22!

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/36991


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận