Trên Biển Khơi Dưới Đá Thẳm Chương 2


Chương 2
Em hy vọng là cánh cửa ấy không mở về phía bọn mình.

Hôm sau, khi cả nhà đang ngồi ăn sáng thì Ông Merry về. Bóng ông hiện ra che khuất cả lối vào, cao lớn sừng sững, đôi mắt trũng sâu dưới mái tóc trắng bờm xờm, và ông nở nụ cười rạng rỡ trước con mắt ngạc nhiên của mọi người.

"Chào cả nhà," ông vui vẻ. "Còn tí cà phê nào không?" Mấy thứ đồ trang trí trên bệ lò sưởi dường như rung lên lanh canh khi ông nói; Ông Merry luôn gây ra ấn tượng rằng ông quá to lớn cho bất kỳ căn phòng nào ông bước vào.

Bố từ tốn với tay kéo thêm một chiếc ghế. "Sáng nay ở ngoài kia thế nào, chú Merry? Cháu thấy có vẻ không tốt lắm."

Ông Merry ngồi xuống, lấy một miếng bánh mì nướng, để miếng bánh trong lòng bàn tay to lớn và phết bơ lên bằng con dao ăn của bố. "Đầy mây. Mù mịt, mây từ biển vào. Sắp có mưa rồi."

Barney nhấp nhổm vì tò mò. Đột nhiên, nó bật hỏi, quên mất cái quy tắc trong gia đình là không bao giờ được hỏi người ông bí ẩn của chúng về việc riêng của ông: "Ông Gumerry, ông vừa ở đâu về vậy?" Trong lúc quá kích động, nó đã gọi ông bằng biệt danh mà nó tự đặt cho ông khi còn nhỏ. Tất cả mọi người đôi khi vẫn dùng tên đó nhưng không thường xuyên lắm.

Jane suỵt khẽ qua kẽ răng còn Simon thì trợn mắt nhìn nó từ phía bên kia bàn. Nhưng có vẻ như là Ông Merry không nghe thấy. "Chắc là không lâu đâu," ông tiếp tục câu chuyện với bố, miệng đầy bánh mì. "Nhưng chú nghĩ là hôm nay sẽ mưa gần hết ngày đấy."

"Liệu có sấm không ông?" Jane hỏi.

Simon tiếp lời giọng đầy hy vọng, "Liệu có bão biển không ạ?"

Barney ngồi im lặng giữa những giọng nói xôn xao quanh bàn. Thời tiết, nó bực tức tự nhủ, tất cả bọn họ đều chỉ nói đến thời tiết, trong khi Ông Merry thì vừa mới trở về từ một cuộc thám hiểm.

Một tiếng sấm ầm ì vọng đến át đi tiếng nói của họ, rồi đến tiếng lộp độp của những hạt mưa đầu tiên. Mọi người chạy ào đến bên cửa sổ để nhìn ra bầu trời xám xịt nặng nề, không để ý thấy Barney đi qua phòng về phía Ông Merry và đút bàn tay vào tay ông một lúc.

"Ông Gumerry ơi," nó khẽ hỏi, "ông đã tìm thấy chưa, cái ông đang tìm ấy ạ?"

Nó ngỡ rằng Ông Merry sẽ nhìn xuyên qua nó với cái vẻ nửa bướng bỉnh nửa hồn hậu quen thuộc mỗi khi nhận được một câu hỏi. Nhưng ông già cao lớn chỉ cúi xuống nó gần như lơ đãng. Cặp lông mày nhíu lại trông thật đáng sợ trên khuôn mặt khắc khổ đầy bí ẩn mà vẻ già nua dữ dằn đã hằn sâu trên hai hõm má và nơi những nếp nhăn. Ông nhẹ nhàng nói, "Không, Barnabas ạ, lần này ông không tìm thấy." Rồi dường như lại có một tấm màn che phủ lên khuôn mặt ông. Ông gọi bố: "Chú phải đi cất ôtô bây giờ đây," rồi đi ra ngoài.

Tiếng sấm nhỏ dần, chỉ còn vẳng lại xa xa từ ngoài khơi, nhưng mưa vẫn rơi đều đều buồn bã, những dòng nước mưa chảy xuống làm mờ khung cửa sổ. Bọn trẻ đi loanh quanh trong nhà. Trước bữa trưa, mặc dù mưa, chúng vẫn cố đi dạo, nhưng rồi đành trở về nhà người ướt như chuột lột, mặt mày ủ rũ.

Khoảng giữa chiều, mẹ thò đầu vào cửa nói: "Mẹ sẽ đi lên gác làm việc cho đến bữa tối. Bây giờ nghe này - ba đứa các con có thể đi bất kỳ chỗ nào mà các con thích trong nhà, nhưng phải hứa với mẹ là không được động vào những cái gì rõ ràng là đã được cất đi đấy nhé. Tất cả những thứ giá trị đều đã bỏ tủ khóa lại rồi, nhưng mẹ không muốn các con lục lọi bất kỳ giấy tờ hay đồ dùng riêng của ai hết. Được không nào?"

"Chúng con hứa ạ." Jane nói, còn Simon thì gật đầu.

Một lát sau, bố chui vào bộ quần áo bằng vải dầu màu đen to đùng và đi ra ngoài mưa để tìm gặp ông trưởng cảng. Jane đi quanh mấy giá sách, nhưng những quyển sách nằm trong tầm với đều có những tiêu đề như Xung quanh Mỏm Vịnh, hay Nhật kí con tàu Đức Hạnh, 1886, và em nghĩ những quyển sách đó đều chán phèo.

Simon, từ nãy tới giờ vẫn ngồi làm phi tiêu bằng những tờ báo buổi sáng, đột nhiên vò hết đống phi tiêu với vẻ bực bội. "Tao ngấy lên tận cổ rồi. Bọn mình làm gì bây giờ?"

Barney rầu rĩ nhìn ra ngoài cửa sổ. "Trời đang mưa to quá. Mặt biển chỗ bến cảng thì lặng tờ chẳng có tí sóng nào. Mà đây lại là ngày đầu tiên. Ôi, mình ghét mưa quá, ghét quá, ghét quá, mình ghét mưa quá..." Nó bắt đầu ủ ê lẩm bẩm như tụng kinh.

Simon vơ vẩn đi qua đi lại trong phòng vẻ bồn chồn, vừa nhìn những bức tranh trên nền giấy dán tường xám xịt. "Hễ bị buộc phải ở trong nhà thì ngôi nhà sẽ trở nên thật tẻ nhạt. Hình như ông thuyền trưởng này chẳng quan tâm tới điều gì khác ngoài biển cả?"

"Bằng giờ này năm ngoái anh cũng định trở thành thủy thủ còn gì."

"Ừ, nhưng tao đổi ý rồi. Mà tao cũng không biết nữa. Kiểu gì tao cũng phải đi trên một chiếc tàu khu trục(1), chứ không phải một chiếc thuyền buồm bé tí tầm thường thế này đâu. Cái gì đây nhỉ?" Simon nhìn lên dòng chữ khắc bên dưới một hình chạm trổ "Con Hươu Vàng."

"Đó là con tàu của Drake. Từ hồi ông ấy vượt biển tới châu Mỹ và tìm ra khoai tây."

"Đó làRaleighchứ."

"À, vâng," Barney nói, nhưng thực ra nó cũng chẳng để tâm mấy.

"Khám phá gì toàn những thứ vô vị cả," Simon mỉa mai. "Nếu tao là bọn họ, tao sẽ chẳng quan tâm gì đến mấy thứ rau củ ấy, tao sẽ mang về toàn tiền vàng, kim cương và ngọc trai."

"Và cả vượn cùng chim công," Jane nói, em đang loáng thoáng nhớ lại một bài thơ học ở trường.

"Và tao sẽ khám phá sâu bên trong đất liền, rồi bọn thổ dân mọi rợ sẽ coi tao là thánh sống và hiến dâng vợ cho tao."

"Tại sao cứ thổ dân là lại mọi rợ nhỉ?" Barney hỏi.

"Không phải là nghĩa mọi rợ ấy đâu, đồ ngốc, mà nó có nghĩa là - nghĩa là - ờ, ờ, thì thổ dân người ta như vậy. Đó là từ mà những nhà thám hiểm hay gọi bọn họ."

"Hay mình làm những nhà thám hiểm đi," Jane bật lên một ý. "Mình có thể khám phá ngôi nhà này. Mình vẫn chưa biết hết về nó mà. Cũng giống như một vùng đất lạ. Mình có thể thám hiểm từ tầng trệt cho đến nóc nhà."

"Và mình cần phải mang theo dự trữ đồ ăn để khi lên tới đó mình có thể làm một chuyến picnic," Barney nói, mặt mày rạng rỡ hẳn lên.

"Mình chẳng có cái gì cả."

"Mình có thể hỏi bà Palk," Jane nói. "Bà ấy đang làm bánh cho mẹ ở trong bếp ấy. Đi thôi."

Bà Palk đang ở trong bếp. Bà nở nụ cười hết cỡ trên khuôn mặt đỏ lựng và nói, "Không biết rồi các cô cậu còn nghĩ ra trò gì lữa đây?" Nhưng bà vẫn cẩn thận gói và đưa cho bọn trẻ một chồng bánh vừa mới nướng, được cắt ra, phết đầy bơ ở giữa rồi lại ụp lại với nhau, một bọc bánh quy nho khô, ba quả táo và một miếng bánh ngọt màu vàng cam to tướng, dày và đầy nhân hoa quả.

"Cái gì đó để uống nữa," Simon nói như ra lệnh, tự cho mình là đội trưởng của đoàn thám hiểm. Thế là bà Palk liền vui vẻ đưa cho bọn trẻ thêm một chai nước chanh to của nhà tự làm lấy "để cho đầy đủ."

"Bằng ấy thứ," bà nói, "tôi đoán là phải đủ cho cô cậu đi đến St Ives và về đấy."

"Balô của anh để trên gác," Simon kêu lên. "Anh đi lấy đây."

"Lại còn thế nữa," Jane nói, em đã bắt đầu cảm thấy hơi ngớ ngẩn. "Mình thậm chí còn chẳng ra ngoài cơ mà."

"Tất cả những nhà thám hiểm đều cần phải có balô," Simon nghiêm trang nói và chạy về phía cửa. "Không đến một phút đâu."

Barney nhặt mấy mẩu bánh vàng trên bàn lên nhấm nháp. "Chà, ngon tuyệt."

"Bánh nghệ đấy," bà Palk giọng đầy tự hào. "Các cô cậu không thể tìm được loại bánh lày ởLondon đâu."

"Bà Palk ơi, Rufus đâu ạ?"

"Đi rồi, may mắn làm sao, nhưng chỉ sợ là lát lữa chúng ta sẽ thấy đầy những vết chân ướt sũng của khắp sàn nhà cho mà xem. Ông Giáo Sư đã dẫn đi dạo. Lào, thôi không bấu cái bánh nữa cưng, không thì cậu sẽ làm hỏng chuyến picnic mất thôi."

Simon mang theo balô quay trở lại. Bọn trẻ nhét tất cả thức ăn vào balô, ra khỏi bếp theo một lối đi hẹp và tối, bà Palk vẫy tay chào chúng rất trang trọng, cứ như chúng sắp đi lên Bắc Cực vậy.

"Bà ấy nói là ai đã dẫn con Rufus đi chơi đấy?" Jane hỏi.

"Ông Merry," Barney trả lời. "Mọi người toàn gọi ông ấy là Giáo Sư, chị không biết à? Ông Penhallow cũng gọi thế. Họ nói chuyện cứ như họ đã biết ông ấy lâu lắm rồi không bằng."

Bọn trẻ đang ở chiếu nghỉ tầng hai vừa dài vừa tối, chỉ có chút ánh sáng chiếu vào từ một ô cửa sổ nhỏ. Jane vẫy tay chỉ một cái hòm gỗ bị che khuất một nửa trong góc tường. "Cái gì kia?"

"Nó bị khóa rồi." Simon cố mở nắp ra. "Chắc là một trong những thứ mà chúng ta không được động vào. Thực ra trong đó chứa đầy vàng và đồ trang sức, chúng ta sẽ lấy nó trên đường trở về và xếp xuống hầm tàu."

"Ai sẽ vác bây giờ?" Barney hỏi rất thực tế.

"Dễ ợt, chúng ta sẽ có một đoàn những tên thổ dân chuyên mang vác. Tất cả bọn chúng sẽ xếp thành hàng đằng sau và gọi tao là Ông Chủ."

"Bắt em gọi anh là Ông Chủ á."

"Mày thì sẽ là bồi tàu và phải gọi tao là Ngài. Dạ, dạ, thưa Ngài!" Simon đột nhiên hét tướng lên.

"Im đi," Jane nói. "Mẹ đang làm việc ở ngay phòng đằng kia đấy, anh làm mẹ vẽ hỏng bây giờ."

"Cái gì ở đây ấy nhỉ?" Barney nói. Có một cánh cửa sẫm màu khuất trong bóng tối tít góc trong cùng của chiếu nghỉ. "Sao từ trước đến giờ em không phát hiện ra cánh cửa này nhỉ." Nó vặn tay nắm cửa, cánh cửa khẽ kêu cọt kẹt và mở ra. "Em đoán là đi xuống dưới vài bậc cầu thang sẽ có một hành lang nhỏ và cuối hành lang đó sẽ lại có cửa đấy. Đi thôi."

Bọn trẻ bước xuống một tấm thảm đã sờn rách, đi dưới một dãy bản đồ cũ treo trên tường.

Cũng giống như toàn bộ ngôi nhà, dãy hành lang này có mùi của dầu đánh bóng, mùi năm tháng và mùi biển cả; thế nhưng cũng không có gì giống hẳn với những thứ ấy, mà chỉ là một mùi kỳ lạ và bí ẩn.

"Này," Simon nói khi Barney tiến về phía cửa. "Tao là đội trưởng, để tao đi trước. Có thể có bọn ăn thịt người đấy."

"Bọn ăn thịt người á," Barney nói vẻ khinh thường, nhưng nó vẫn nhường cho Simon mở cửa.

Đó là một căn phòng kì cục, nhỏ và trống rỗng, chỉ có một ô cửa sổ tròn khung bọc chì nhìn về đất liền qua những mái nhà lợp ngói acđoa xám và những cánh đồng. Một chiếc giường phủ ga kẻ ô đỏ trắng, một ghế gỗ, một tủ quần áo và một giá rửa mặt(1) trên đó có một cái bát to vẽ men xanh và một bình đựng nước. Tất cả chỉ có vậy.

"Ôi, chẳng có gì thú vị cả," Jane thất vọng. Em nhìn xung quanh, cảm thấy như còn thiếu một cái gì đó. "Nhìn xem này, thậm chí phòng này còn chẳng có cả thảm nữa, chỉ có mỗi sàn nhà không."

Barney lon ton chạy đến bên cửa sổ. "Cái gì đây?" Nó nhặt một cái gì đó trên bệ cửa sổ lên, một vật dài, màu sẫm và lấp lánh ánh đồng. "Một loại ống gì đó thì phải."

Simon cầm vật lạ từ tay Barney, tò mò lật lên lật xuống. "Một cái hộp đựng kính viễn vọng," Simon xoáy mở cái hộp ra thành hai nửa. "Không, không phải, chán quá, chỉ có vỏ thôi chứ không có ruột."

"Bây giờ thì em biết là căn phòng làm em nhớ tới cái gì rồi," Jane đột nhiên nói. "Nó giống như một cabin trên tàu. Cái cửa sổ này trông giống như cửa sổ ở thành tàu. Em đoán chắc đây là phòng ngủ của ông thuyền trưởng."

"Bọn mình phải mang theo cái kính viễn vọng này đề phòng bị lạc đường," Simon nói. Nó tự cảm thấy mình quan trọng hơn hẳn khi cầm cái hộp kính viễn vọng trong tay.

"Anh đừng có ngốc nghếch thế chứ, đó chỉ là cái vỏ rỗng thôi mà," Jane nói. "Dù sao nó cũng không phải là của chúng ta, để lại vào chỗ cũ đi."

Simon quắc mắt nhìn em gái.

"Ý em là," Jane vội nói, "mình đang ở trong rừng, chứ không phải ở ngoài biển, vì thế đã có các mốc định vị rồi."

"Ơ, thôi được." Simon miễn cưỡng đặt cái ống xuống.

Bọn trẻ ra khỏi dãy hành lang nhỏ tối om, cánh cửa mà chúng vừa khép lại sau lưng đã lại chìm ngay vào trong bóng tối đến nỗi chúng cũng khó có thể nhận ra nó ở đâu nữa.

"Ở đây chẳng còn gì nữa đâu. Kia là phòng ngủ của Ông Merry, phía bên này là nhà tắm còn phía kia là phòng vẽ của mẹ."

"Ngôi nhà này xây kiểu gì mà kỳ quặc," Simon nói khi chúng rẽ vào một hành lang hẹp khác dẫn tới cầu thang đi lên tầng tiếp theo. "Toàn những khu nhỏ xíu nối với nhau bằng các lối đi bé tí tẹo nực cười. Cứ như là để giữ bí mật giữa các khu với nhau ấy."

Barney nhìn quanh trong ánh sáng lờ mờ, tay gõ nhẹ vào bức tường ốp ván gỗ lên đến nửa chừng. "Tất cả đều đặc hết. Chắc là phải có những tấm ván rỗng và các thứ bí mật nữa chứ, lối đi bí mật vào khu hang động cất giấu kho báu của thổ dân chẳng hạn."

"Mình vẫn chưa kết thúc mà." Simon dẫn đường lên chiếu nghỉ quen thuộc, ngay cạnh phòng ngủ của bọn chúng. "Trời đã tối rồi à? Chắc là do mây mù."

Barney ngồi xổm trên bậc thang trên cùng. "Mình phải có đuốc, phải đốt đuốc lên thì mới thấy đường và đuổi bọn thú rừng đi được. Mỗi tội không được vì xung quanh đây có đầy bọn thổ dân hiếu chiến, chúng có thể phát hiện ra mình mất."

Simon tiếp lời ngay. Dường như trong không khí tĩnh mịch của Ngôi nhà Xám, trí tưởng tượng dễ thăng hoa hơn thì phải. "Thực ra thì bọn chúng vẫn đang theo mình, lần theo dấu của bọn mình lên tận đồi rồi. Mình sắp nghe thấy tiếng bước chân của bọn chúng ngay bây giờ đấy."

"Mình phải nấp đi thôi."

"Cắm trại ở đâu đó mà bọn chúng không thể đến được ấy."

"Cắm trại trong một phòng ngủ nào đó ý, à quên hang động ấy mà."

"Em nghe thấy tiếng bọn chúng thở rồi," Barney nói, nhìn trân trân xuống phía dưới chân cầu thang tối om. Nó đã bắt đầu hơi có cảm giác như đang đi vào rừng thật.

"Những cái hang lộ quá là không được," Simon nói, vẫn luôn nhớ đến vai trò chỉ huy của mình. "Bọn chúng sẽ lùng sục ở những hang động đó đầu tiên." Nó đi dọc theo chiếu nghỉ, hết mở rồi đóng cửa từng phòng vẻ mặt đầy lo âu. "Phòng bố và phòng mẹ không được, hang động quá bình thường. Phòng Jane - cũng thế. Phòng tắm, phòng của hai anh em mình, không có đường thoát. Rồi tất cả chúng ta sẽ trở thành vật hiến tế và bị ăn thịt mất thôi."

"Hoặc bị luộc nhừ trong những cái nồi lớn," Barney tiếp lời vẻ tang tóc.

"Có thể vẫn còn cánh cửa nào đó nữa, ý quên, cái hang nào đó nữa mà mình chưa phát hiện ra. Như cái ở dưới cầu thang ấy." Jane nhìn vào chỗ tối nhất ở cuối chiếu nghỉ bên cạnh phòng hai thằng con trai. Nhưng đường đến đó là cụt, bức tường chạy liền quanh suốt cả ba phía, không một vết ghép. "Nhất định là phải có một cánh cửa khác. Dù sao thì ngôi nhà này cũng xây thẳng đứng lên phải không, và có một cái cửa nằm ngay bên dưới kia" - em chỉ tay vào bức tường trống trơn - "và một căn phòng đằng sau đó. Như vậy, chắc chắn phải có một căn phòng rộng bằng thế đằng sau bức tường này."

Simon chú ý ngay. "Mày nói đúng đấy. Nhưng chẳng thấy cánh cửa nào cả."

"Có thể có tấm ván bí mật nào đó," Barney nói đầy vẻ hy vọng.

"Mày đọc nhiều sách quá đấy. Mày đã bao giờ thấy một tấm ván bí mật nào đó trong một ngôi nhà thật bao giờ chưa? Mà chẳng có ván viếc nào trên bức tường này cả, chỉ toàn giấy dán tường thôi."

"Phòng của anh ở phía bên kia," Jane nói. "Có cánh cửa nào trong đó không?"

Simon lắc đầu.

Barney mở cánh cửa phòng ngủ của hai anh em, đi vào, đá chiếc dép vào gầm giường lúc đi ngang qua. Rồi đột nhiên nó khựng lại.

"Này, lại đây đi."

"Cái gì thế?"

"Cái góc ở giữa hai giường, chỗ hốc tường đặt tủ quần áo ấy. Phía bên kia là gì ấy nhỉ?"

"Tất nhiên là chiếu nghỉ đầu cầu thang rồi."

"Không phải. Nếu thế thì tường ở đây quá dài. Anh đứng ở cửa ra vào và nhìn cả bên trong, bên ngoài mà xem - chiếu nghỉ không chạy dài đến thế đâu."

"Em sẽ gõ vào tường ở cuối chiếu nghỉ và hai người ở bên trong nghe nhé." Em đi ra ngoài, đóng cửa lại và rồi hai anh em nghe thấy tiếng gõ rất khẽ trong tường ngay trên đầu giường của Barney.

"Đây rồi!" Barney nói, nhảy lên vì sung sướng. "Chiếu nghỉ chỉ đến đây là hết, thế mà bức tường bên trong còn chạy dài thêm bao nhiêu yard(1) nữa, suốt từ giường của anh cho đến tận cửa sổ. Như thế chắc chắn phải có một căn phòng khác ở phía bên kia rồi."

Jane quay trở vào phòng. "Bức tường ngoài kia trông không dài như bức tường trong này."

"Đúng vậy." Simon chậm rãi nói. "Và anh nghĩ điều đó có nghĩa là có một cánh cửa đằng sau tủ quần áo."

"Ôi, thế thì thôi rồi," Jane thất vọng nói. "Cái tủ to thế kia thì mình sẽ không bao giờ kéo ra được đâu."

"Tại sao lại không chứ." Simon nhìn cái tủ, suy nghĩ. "Mình sẽ phải kéo ở dưới chân tủ để phía trên không bị mất thăng bằng. Nếu cả ba người cùng kéo về một phía thì sẽ xoay được nó thôi."

"Thế thì làm ngay đi," Jane nói. "Anh và em sẽ kéo, còn Barney thì giữ phía trên, nếu thấy mất thăng bằng thì phải kêu lên nhé."

Hai đứa cùng cúi xuống và kéo mạnh cái chân tủ ngay cạnh nhưng cái tủ không hề suy suyển.

"Em nghĩ cái của nợ này bị đóng đinh xuống sàn nhà rồi." Jane bực mình kêu lên.

"Không, không phải đâu. Cố lên nào, thử lần nữa nhé. Một, hai, ba - kéo!"

Cái tủ gỗ cao ngất ngưởng kêu cọt kẹt và chỉ nhích ra được vài inch(1).

"Cố lên, cố lên nào, nó nhúch nhích rồi đấy!" Barney không thể đứng yên được nữa.

Simon và Jane vừa kéo vừa thở hổn hển, giày của hai đứa trượt trên lớp vải trải nền; cái tủ dần dần được kéo ra cách tường một góc. Barney nhìn vào khoảng lờ mờ đằng sau tủ và đột ngột ré lên.

"A, đây rồi! Đúng là có một cánh cửa! Ui..." Barney loạng choạng lùi lại, thở hắt ra rồi hắt xì hơi. "Toàn bụi và mạng nhện, chắc hàng chục năm rồi chẳng có ai mở nó ra cả."

"Nào, tới đi, vào thử xem," Simon nói trong hơi thở hổn hển, mặt đỏ gay lên vì nín hơi và vì sung sướng với thành công.

"Em hy vọng là cánh cửa ấy không mở về phía bọn mình," Jane ngồi bệt dưới sàn nhà nói giọng yếu ớt. "Em chịu không thể kéo nó ra thêm một chút nào nữa, dù chỉ là một inch."

"Không đâu," tiếng Barney nghèn nghẹt vọng ra từ đằng sau cái tủ. Chúng nghe thấy tiếng cọt kẹt của cánh cửa cự nự mở ra. Rồi Barney lại xuất hiện với một vết bẩn to tướng đen sì trên má. "Chẳng có phòng ốc nào ở đây cả. Mỗi một cái cầu thang. Một cái thang thì đúng hơn. Nó dẫn lên một cửa sập hay sao ấy, có ánh sáng trên đó." Nó nhìn Simon cười vẻ láu cá. "Thưa Ông chủ, ngài có thể đi trước được rồi ạ."

Đứa nọ bám theo sau đứa kia, cả bọn biến mất sau lưng tủ và đi qua cánh cửa nhỏ bí mật. Thoạt đầu bên trong tối om, nhưng sau khi chớp chớp mắt Simon đã trông thấy một cái thang ở ngay trước mặt mình với bậc thang rộng dựng chênh chếch, hướng lên một ô vuông viền sáng lờ mờ. Đến đó thì nó không nhìn thấy gì hơn nữa. Các bậc thang phủ một lớp bụi dày và trong thoáng chốc, nó có thấy lo sợ phải phá vỡ sự yên bình nghìn đời nơi đây.

Rồi nó nghe thấy ngay phía trên đầu, rất khẽ thôi, tiếng sóng biển ì ầm quen thuộc ngoài kia. Ngay lập tức, âm thanh dễ chịu ấy làm nó vui vẻ hẳn, thậm chí nó còn nhớ ra cả ba đứa đang giả vờ làm gì nữa. "Người đi cuối cùng phải đóng chặt cửa lại đấy," Simon gọi với xuống qua vai. "Để không cho bọn thổ dân lại gần." Nói rồi nó bắt đầu trèo lên thang.

Hết chương 2. Chương tiếp theo sẽ được cập nhật một cách nhanh nhất.

Truyen8.mobi chúc các bạn đọc truyện vui vẻ!

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/25881


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận