Tuyết lất phất rơi sau khi nhóm bạn rời khỏi lâu đài của Vua Smoit gần một ngày đường, và đến khi họ tới được Thung Lũng Ystrad thì các con dốc đã đầy tuyết trắng xóa và băng đã bắt đầu phủ lên mặt sông. Vô số những mảnh băng vụn cứa vào chân ngựa khi họ vượt sông, và xuyên qua các Vương Quốc Thung Lũng ảm đạm hướng về phía đông để tới Vùng đất Tự do. Trong cả đội quân thì Gurgi là người khổ sở vì lạnh hơn cả. Mặc dù đã quấn mình trong chiếc áo choàng to tướng bằng da cừu, con vật khốn khổ vẫn run lẩy bẩy một cách đáng thương. Môi nó tím ngắt, hai hàm răng va vào nhau lập cập, và những nhũ băng nhỏ bám đầy vào bộ lông rối bù của nó. Tuy thế, nó vẫn thúc ngựa vững bước đi cạnh Taran và hai bàn tay tê cứng của nó không bao giờ thôi nắm chặt ngọn cờ.
Sau nhiều ngày đường gian khổ, họ đi qua sông Tiểu Avren và đến được Làng Cenarth, nơi Taran đã quyết định sẽ bắt đầu tập hợp lại người dân của Vùng đất Tự do. Nhưng ngay khi cưỡi ngựa tiến vào giữa cụm nhà lợp mái tranh, cậu đã nhìn thấy ngôi làng đầy chật đàn ông; và trong số họ là ông Thợ Rèn Hevydd, với lồng ngực vạm vỡ và bộ râu rễ tre tua tủa, ông chen lấn qua đám đông và vỗ mạnh lên lưng Taran với một bàn tay cũng mạnh mẽ không kém gì những chiếc búa của ông.
“Xin chào cậu, chàng trai Lang Thang,” ông Thợ Rèn nói lớn. “Chúng tôi thấy cậu từ xa và đã tụ tập lại để đón mừng cậu.”
“Xin chào những người bạn tốt,” Taran đáp lại, “nhưng tôi phải đem một sứ mệnh quan trọng để đáp lại những lời chào đón nồng ấm đây. Xin hãy nghe tôi thật kỹ,” cậu nói tiếp với giọng cấp bách. “Điều mà tôi sắp đòi hỏi các bạn đây không phải là một điều dễ dàng, và tôi cũng không chờ đợi được chấp nhận một cách dễ dàng: đó là sức lực ở hai bàn tay của các bạn và dũng khí trong trái tim của các bạn, và, nếu bị bắt buộc, thì cả tính mạng của các bạn nữa.”
Trong khi những người dân Tự Do thì thào bàn tán và xúm lại quanh cậu, Taran kể lại những gì đã xảy ra với Gwydion và về việc Arawn đang nổi dậy ra sao. Khi cậu nói xong, những người đàn ông nom đều hết sức nghiêm nghị, và tất cả đứng lặng yên suốt một hồi lâu. Rồi ông Thợ Rèn Hevydd lên tiếng.
“Người dân của Vùng đất Tự do tôn kính đức Thượng Hoàng Math và Dòng họ Don,” ông nói. “Nhưng họ sẽ chỉ đáp lại người mà họ coi là bạn, và đi theo người đó không phải vì bị bắt buộc mà vì tình bằng hữu. Và vì vậy, hãy để Hevydd là người đầu tiên đi theo Taran Người Lang Thang.”
“Tất cả sẽ đi theo! Tất cả!” Dân làng đồng thanh hô lớn, và trong thoáng chốc, ngôi làng Cenarth vốn thanh bình bỗng sôi động như thể một cơn dông tố đang kéo đến trong khi mỗi người đàn ông vội vã chuẩn bị vũ khí cho mình.
Nhưng Hevydd gượng cười với Taran và nhóm bạn. “Ý chí của chúng tôi rất mạnh mẽ, nhưng chúng tôi lại thiếu vũ khí,” ông tuyên bố. “Không sao, chàng trai Lang Thang ạ. Cậu đã làm lụng hết sức can đảm trong lò rèn của ta, giờ thì lò rèn của ta sẽ làm lụng để giúp lại cậu. Và ta sẽ gửi tin đến cho tất cả các thợ rèn trên toàn Vùng đất Tự do để bảo họ cố hết sức mình làm việc cho cậu cũng như ta vậy.”
Trong khi đám đàn ông chuẩn bị đóng yên ngựa và Hevydd thổi bễ cho lửa bùng lên, thì Taran dẫn nhóm bạn đến các khu Làng xung quanh. Sứ mệnh của cậu đã nhanh chóng được mọi người biết tới và mỗi ngày lại có thêm một đám đông gồm những người chăn gia súc và nông dân, không đợi phải nài nỉ cũng tham gia ngay vào đoàn quân đang dần lớn mạnh để đi theo ngọn cờ hình Lợn Trắng. Với Taran, ngày và đêm đã hòa làm một. Trong những khu trại binh, ngồi trên lưng Melynlas, không hề biết mệt mỏi, cậu đi giữa những người đàn ông hiền lành giờ đã trở thành các chiến binh, chăm lo đến đồ ăn thức uống và trang bị vũ khí của họ, và ngồi bên đám than hồng của những đống lửa trại để hội kiến với đạo quân mới thành hình.
Khi đã làm được tất cả những gì có thể ở Cenarth, Hevydd liền đi cùng với Taran để làm người trông coi vũ khí chính cho cậu.
“Ông đã rèn ra những món vũ khí tốt lắm, nhưng chúng ta vẫn còn vũ trang sơ sài quá,” Taran nói riêng với ông Thợ Rèn. “Cháu e là tất cả các lò rèn trên toàn Prydain này cũng không đủ để rèn hết số vũ khí chúng ta cần đâu. Cháu phải tìm một cách nào đó...”
“Nếu may mắn thì cậu sẽ tìm được thôi!” Một giọng nói vang lên.
Taran quay lại và thấy một ngườ i kỵ sĩ đang cưỡi ngựa tới chỗ cậu, cậu chớp mắt kinh ngạc bởi vì đó quả là người ăn mặc kỳ dị nhất trong số các chiến binh Tự Do. Ông ta cao nghều, mớ tóc dài rủ xuống, đôi chân khẳng khiu như chân cò và dài đến nỗi chúng gần như chạm đất phía hai bên sườn con ngựa của ông. Áo ông khâu đầy những mẩu sắt và các mảnh kim loại vụn; ông cầm cây gậy gỗ với cái lưỡi hái buộc ở một đầu; và ông đội một cái nồi cũ, giờ đã được gõ đập thành cái mũ sắt chụp sát xuống trán đến nỗi nó gần như che lấp cả mắt ông.
“Llonio!” Taran reo lên, thân mật siết chặt bàn tay của người mới đến. “Llonio Con Trai của Llonwen!”
“Không còn là ai khác được nữa,” Llonio đáp, đẩy cái mũ sắt kỳ quặc của mình lên. “Chẳng lẽ cậu không nghĩ là sớm muộn gì rồi tôi cũng sẽ đến hay sao?”
“Nhưng còn bà nhà và gia đình ông,” Taran nói. “Tôi không thể bắt ông rời bỏ họ được. Sao, bọn trẻ thì tôi nhớ là ông có tới nửa tá cơ mà.”
“Và lại sắp có thêm một đứa nữa vui vẻ gia nhập bầy đoàn rồi,” Llonio sung sướng cười trả lời. “Có lẽ là sinh đôi cũng nên, với vận may của tôi. Nhưng lũ con của tôi sẽ được an toàn cho đến khi tôi quay trở lại. Thật ra, nếu muốn Prydain được an toàn thì tôi phải đi theo chàng trai Lang Thang ngay lúc này. Nhưng mối quan tâm của cậu đâu phải là trẻ con, mà là những người chiến binh kia mà. Xin hãy nghe tôi đây, anh bạn Lang Thang,” Llonio nói tiếp. “Tôi đã thấy người dân Tự Do có rất nhiều chĩa và cào. Chúng ta có thể cắt từng cái răng ra và buộc vào các cọc gỗ được không? Như thế thì cậu sẽ có được ba, bốn món vũ khí mới, thậm chí còn hơn thế nữa, trong khi mới đầu thì chỉ có một thứ duy nhất.”
“Sao, đúng là chúng ta có thể làm thế!” Hevydd kêu lên. “Sao tôi lại không nghĩ ra điều đó ngay từ đầu nhỉ?”
“Tôi cũng không nghĩ ra,” Taran thú nhận. “Llonio có cặp mắt tinh tường hơn bất kỳ ai trong số chúng ta, nhưng điều mà bất kỳ ai khác sẽ gọi là trí khôn sắc sảo thì ông ấy lại gọi là vận may. Hãy đi đi, ông bạn Llonio, hãy đi tìm tất cả những gì ông có thể. Tôi biết là ông sẽ tìm được nhiều thứ hơn những gì chúng tôi thấy nhiều.”
Thế là Llonio, cùng với sự giúp đỡ của ông Thợ Rèn Hevydd, liền đi thu lượm khắp các khu làng nào là liềm, cào, que cời, hái, và kéo tỉa cành, rồi tìm cách để khiến cho cả những vật chẳng giống vũ khí chút nào cũng có một mục đích mới, và kho vũ khí của họ tăng dần lên.
Trong khi mỗi ngày Taran lại thu thập thêm nhiều chiến binh mới thì Coll, Gurgi và Eilonwy giúp chất đống lên những chiếc xe bò các thứ đồ dùng và thức ăn dự trữ, một nhiệm vụ mà cô Công chúa chẳng lấy gì làm thích thú, bởi vì cô chỉ hăm hở mong được thúc ngựa phi nước đại từ Làng này sang Làng khác hơn là ì ạch làm lụng bên những cái xe bò chất nặng nhiều. Eilonwy đã vận quần áo con trai và tết tóc cao lên quanh đầu; ở thắt lưng cô là một thanh gươm và một con đoản đao cô xin được của ông Thợ Rèn Hevydd. Bộ quần áo chiến binh của cô không v a chút nào, nhưng cô rất tự hào về nó và vì thế lại càng thêm bực bội khi Taran không chịu cho cô đi xa.
“Cô sẽ đi cùng với tôi,” Taran nói, “chừng nào mà đàn súc vật thồ đã được cho ăn và những cái xe bò đã được chất xong.”
Cô Công chúa miễn cưỡng đồng ý; nhưng ngày hôm sau, khi Taran cưỡi ngựa đi qua hàng cọc buộc ngựa ở phía sau khu trại, cô giận dữ hét lên với cậu, “Anh đã đánh lừa tôi! Những việc này sẽ chẳng bao giờ làm xong được! Tôi vừa chất xong một hàng ngựa và xe thồ này thì một hàng khác đã lại kéo tới. Được thôi, tôi sẽ làm đúng lời hứa của mình. Nhưng cho dù anh có là chiến tướng hay không thì, Taran xứ Caer Dallben ạ, tôi cũng không thèm nói chuyện với anh nữa đâu!”
Taran chỉ cười và thúc ngựa đi tiếp.
Hướng về phía bắc qua Thung Lũng của sông Đại Avren, nhóm bạn tiến vào Làng Gwenith và gần như chưa kịp xuống ngựa thì Taran đã nghe một giọng khàn khàn cất tiếng gọi, “Chàng trai Lang Thang! Ta biết là cháu đang tìm kiếm các chiến binh, chứ không cần đến các bà lão. Nhưng hãy dừng bước lại một chút và chào một người vẫn chưa quên cháu đi nào.”
Dwyvach, bà Thợ Dệt làng Gwenith, đang đứng ở ngưỡng cửa căn nhà tranh của mình. Bất kể mái tóc bạc trắng và gương mặt nhăn nheo, nom bà vẫn nhanh nhẹn và hoạt bát hơn bao giờ hết. Cặp mắt xám của bà chăm chú dò xét Taran, rồi nhìn sang Eilonwy. Bà Thợ Dệt già ra hiệu cho cô lại gần. “Taran Người Lang Thang thì ta biết rõ. Còn cháu là ai thì ta cũng có thể đoán được, mặc dù cháu mặc quần áo con trai và tóc thì cần được gội đấy.” Bà sắc sảo đưa mắt nhìn cô Công chúa. “Thực vậy, ta đã dám chắc là, khi chàng trai Lang Thang và ta gặp nhau lần đầu tiên, cậu ta đang có hình bóng một cô thiếu nữ xinh đẹp trong tâm trí.”
“Hừm!” Eilonwy khịt mũi. “Cháu không dám chắc lúc ấy thì có đúng thế không, và lại càng không dám chắc liệu lúc này anh ta có đang nghĩ đến ai không nữa.”
Dwyvach bật cười. “Nếu cháu không biết chắc thì không ai có thể biết được cả. Rồi thời gian sẽ cho biết ai trong số chúng ta nói đúng. Nhưng trong lúc này thì, cô bé ạ,” bà nói thêm, giở ra một chiếc áo choàng mà bà đang cầm trong hai bàn tay khô héo của mình và choàng nó lên vai Eilonwy, “hãy nhận lấy món quà này của một bà già tặng cho cô thiếu nữ, và hãy biết rằng giữa hai người không có nhiều khác biệt lắm đâu. Bởi vì ngay cả bà lão già cả nhất cũng vẫn giữ một phần trái tim thiếu nữ, và cô thiếu nữ trẻ trung nhất vẫn có được một chút khôn ngoan của một bà già.”
Taran giờ đã bước đến bên cửa căn nhà tranh. Cậu thân mật chào bà Thợ Dệt và ngắm nghía chiếc áo choàng bà đã tặng cho Eilonwy. “Hevydd và những người thợ rèn Tự Do đã làm lụng vất vả để rèn vũ khí cho chúng cháu,” cậu nói. “Nhưng quân lính cũng cần có y phục ấm áp không kém gì vũ khí cả. Than ôi, chúng cháu không có được món đồ gì như thế này.”
“Cháu tưởng là một bà thợ dệt thì không dày dạn bằng một người thợ rèn hay sao?” Dwyvach trả lời. “Bởi vì cháu đã miệt mài dệt vải ở khung cửi của ta, giờ thì khung cửi của ta sẽ lại càng dệt vải nhanh chóng hơn cho cháu. Và ở mỗi ngôi Làng, những con thoi sẽ lao vùn vụt để giúp cho Taran Người Lang Thang.”
Lòng phấn chấn vì lời hứa của bà Thợ Dệt, nhóm bạn rời khỏi Gwenith. Đi được cách làng một quãng thì Taran nhìn thấy một nhóm kỵ mã nhỏ đang nhanh chóng phóng về phía cậu. Đi đầu là một thanh niên, chàng trai lớn tiếng gọi tên Taran và giơ tay lên chào.
Với một tiếng kêu mừng rỡ, Taran thúc Melynlas đi tới để gặp những người kỵ sĩ. “Llasar!” Taran gọi, ghìm ngựa lại bên cạnh chàng trai. “Tôi không nghĩ là chúng ta lại gặp nhau ở xa bãi nhốt cừu của cậu ở Làng Isav đến thế này.”
“Tin tức của anh đã đi trước anh rồi, Người Lang Thang ạ,” Llassar đáp. “Tôi sợ rằng anh sẽ cho là ngôi Làng của chúng tôi quá nhỏ bé và sẽ bỏ qua nó. Chính tôi,” cậu thanh niên nói thêm, với vẻ ngập ngừng bẽn lẽn nhưng không che giấu nổi vẻ kiêu hãnh trẻ con của cậu, “chính tôi đã dẫn người làng mình đi tìm anh đấy.”
“Kích thước của Isav đâu phải là thước đo lòng can đảm của người dân làng,” Taran nói, “tôi cần có từng người trong số các bạn, và xin đón chào tất cả. Nhưng cha cậu đâu?” Cậu hỏi, đưa mắt nhìn đội kỵ sĩ. “Drudwas đâu rồi? Ông ấy hẳn không chịu để cậu con trai một mình đi xa đến thế này đâu.”
Mặt Llassar xịu xuống. “Mùa đông vừa rồi đã cướp mất cha tôi. Tôi rất thương tiếc ông, nhưng sẽ tỏ lòng tôn kính hương hồn ông bằng cách làm điều mà chính ông cũng sẽ làm.”
“Thế còn mẹ cậu thì sao?” Taran hỏi, trong khi cậu và Llassar quay trở lại chỗ nhóm bạn. “Bà cũng bằng lòng để cho cậu rời khỏi nhà và bỏ đàn cừu của mình sao?”
“Sẽ có người khác chăm sóc cho đàn cừu của tôi,” chú bé chăn cừu trả lời. “Mẹ tôi hiểu rõ những điều mà một đứa bé phải làm và một người trưởng thành phải làm. Tôi đã là một người trưởng thành rồi,” chú quả quyết nói, “và đã trưởng thành kể từ khi anh và tôi cùng chống lại Dorath và băng cướp của hắn trong bãi nhốt cừu đêm đó.”
“Đúng, đúng thế!” Gurgi reo lên. “Và cả Gurgi gan dạ cũng chống lại chúng nữa!”
“Tôi dám chắc là tất cả các vị đã làm vậy,” Eilonwy chanh chua nhận xét, “trong khi tôi phải nhún đầu gối chào và bị người ta đè ra gội đầu ở trên đảo Mona. Tôi không biết Dorath là ai, nhưng nếu tôi có gặp hắn ta, thì tôi xin hứa với các vị là tôi sẽ bù lại khoảng thời gian đã mất.”
Taran lắc đầu. “Hãy coi mình là may mắn đi bởi vì cô không biết hắn. Tôi thì đã không may biết hắn quá rõ.”
“Kể từ đêm đó hắn không còn đến gây sự với chúng tôi nữa,” Llassar nói. “Và có lẽ hắn sẽ không bao giờ quay lại. Tôi nghe nói là hắn đã rời khỏi Vùng đất Tự do và đi về phía tây rồi. Hắn đã phục vụ cho Chúa tể Tử địa, người ta nói thế. Có lẽ đúng như vậy thật. Nhưng nếu Dorath có phục vụ ai thì chỉ là chính bản thân hắn mà thôi.”
“Sự giúp đỡ tình nguyện của các bạn đối với chúng tôi đáng giá hơn bất kỳ tên đánh thuê nào mà Chúa Tể Annuvin có được,” Taran nói với Llassar. “Ông hoàng Gwydion sẽ rất biết ơn các bạn.”
“Biết ơn anh thì đúng hơn,” Llassar nói. “Chúng tôi không kiêu hãnh về chuyện chinh chiến mà chỉ lấy làm tự hào về nghề nông của chúng tôi; tự hào về công việc của hai bàn tay mình chứ không phải lưỡi gươm của mình. Chúng tôi chưa bao giờ gây chiến với ai. Giờ đây chúng tôi đi theo ngọn cờ Lợn Trắng bởi vì đó là ngọn cờ của một người bạn, Taran Người Lang Thang ạ.”
Thời tiết mỗi lúc một xấu hơn trong khi nhóm bạn tiếp tục đi qua thung lũng, và đội quân của người dân Tự Do đã đông thêm bắt buộc họ phải chậm bước lại. Ngày quá ngắn không thể làm gì được nhiều, nhưng Taran vẫn bền bỉ tiếp tục đi. Phi ngựa bên cạnh cậu là Coll, không hề kêu ca và vẫn luôn luôn vui vẻ. Gương mặt vuông vức của bác đỏ ửng và thô ráp vì gió lạnh, gần như bị cái cổ áo lót lông cừu to tướng che khuất. Một dải đai đeo gươm làm bằng các mắt xích nặng vòng quanh thắt lưng bác, và trên lưng bác là một tấm khiên tròn bằng da bò. Bác đã tìm được một cái mũ gò bằng kim loại, nhưng thấy rằng đội nó trên mái đầu hói của mình không thoải mái bằng chiếc mũ da cũ.
Taran biết ơn vì sự thông thái của bác Coll và thường xuyên hỏi xin lời khuyên của bác. Chính bác Coll đã gợi ý cho cậu, trong khi khu trại binh trở nên chật chội hơn, rằng tốt hơn là nên cử những đội quân nhỏ và nhanh nhẹn hơn đi thẳng đến Caer Dathyl thay vì hành quân từ Làng này sang Làng khác với một đội hình đang mỗi ngày một thêm cồng kềnh. Llassar, Hevydd, và Llonio không chịu rời khỏi đội quân tiên phong của Taran và luôn ở bên cạnh cậu nhưng khi Taran quấn mình vào chiếc áo choàng và nằm duỗi dài trên mặt đất trong những lúc hiếm hoi cậu được chợp mắt một lát, thì chính bác Coll mới là người đứng trông chừng cho cậu.
“Bác giống như một cây gậy gỗ sồi mà cháu phải dựa vào vậy,” Taran nói. “Còn hơn thế nữa.” Cậu cười. “Bác là cả một thân cây vững chãi, và là một người chiến binh chân chính.”
Bác Coll, thay vì mỉm cười, lại chỉ nhìn cậu vẻ châm biếm. “Cháu định ca ngợi ta đấy sao?” Bác hỏi. “Nếu thế thì thà nói rằng ta là một người trồng củ cải và một người hái táo chân chính còn hơn. Ta chẳng phải là chiến binh gì hết, ngoại trừ ta được cần đến với cương vị ấy trong một thời gian mà thôi. Khu vườn của ta đang mong ngóng ta cũng như ta mong ngóng nó,” bác Coll nói thêm. “Ta đã bỏ nó đi mà không cày xới để chuẩn bị cho mùa đông, và ta sẽ phải trả giá đắt khi đến đợt gieo trồng mùa xuân cho mà xem.”
Taran gật đầu. “Bác cháu ta sẽ cùng xới đất và nhổ cỏ, người trồng củ cải chân chính_và người bạn chân chính ạ.”
Những đống lửa trại bập bùng trong màn đêm. Đàn ngựa rục rịch quanh cọc buộc của chúng. Quanh họ là vô số những chiếc bóng đen sẫm trên nền bóng tối của các chiến binh đang nằm ngủ. Làn gió lạnh buốt thổi vào mặt Taran. Đột nhiên cậu cảm thấy mệt rã rời đến tận xương tủy. Cậu quay sang bác Coll.
“Lòng cháu cũng sẽ thư thái hơn,” cậu nói, “khi cháu lại được làm một chàng Phụ-Chăn Lợn.”
Taran nghe tin là Vua Smoit đã thu thập được một đội quân hùng mạnh từ lãnh địa của các lãnh chúa trong vương quốc của mình và giờ đang quay về hướng bắc. Nhóm bạn cũng được biết rằng một số chư hầu của Arawn đã cử binh lính đi qua Ystrad để tấn công những đoàn chiến binh đang hành quân về Caer Dathyl. Sứ mệnh của Taran vì thế càng thêm cấp bách hơn, nhưng cậu chẳng thể làm gì hơn ngoài tiếp tục gấp rút đi tới.
Nhóm bạn đã đến được Làng Merin. Với Taran, đây là một trong những nơi tươi đẹp nhất mà cậu từng được biết trong những tháng ngày rong ruổi của mình. Ngay cả lúc này đây, giữa sự hỗn loạn của các đội quân đang chuẩn bị chiến đấu, của những đàn ngựa hí vang và những kỵ sĩ hò hét, cụm nhà tranh quét vôi trắng của ngôi làng nhỏ vẫn có vẻ thanh bình và cách biệt. Taran phóng qua những cánh đồng bao quanh bởi cây độc cần và linh sam cao lớn. Lòng trĩu đầy kỷ niệm, cậu ghìm ngựa lại trước một túp lều quen thuộc với ống khói đang tỏa khói nghi ngút báo hiệu một ngọn lửa ấm áp bên trong. Cánh cửa mở ra và một ông già tráng kiện, người chắc nịch, khoác một chiếc áo nâu thô sờn, bước ra. Mái tóc và bộ râu màu xám sắt của ông được tỉa ngắn; mắt ông xanh biếc và vẫn còn hết sức tinh tường.
“Xin chào,” ông cất tiếng gọi Taran, và giơ lên một bàn tay to tướng bám đầy đất sét khô. “Cháu đã rời khỏi đây khi còn là một chàng trai lang thang, và quay trở lại thì đã trở thành một vị chiến tướng rồi. Về tài năng điều binh khiển tướng của cháu thì ta đã được nghe nhiều. Nhưng ta hỏi điều này: Cháu có còn nhớ kỹ năng bên chiếc bàn quay gốm của ta không? Hay là ta đã bỏ phí công sức để dạy dỗ cháu?”
“Xin chào, ông Annlaw Thợ Gốm,” Taran đáp, nhảy từ trên lưng Melynlas xuống và thân ái siết chặt tay ông thợ gốm già. “Đúng là ông đã phí công sức rồi,” Taran cười, theo ông đi vào trong lều, “bởi vì ông thầy này có một chú học việc hậu đậu lắm. Cháu thiếu tài năng, nhưng trí nhớ thì cháu không thiếu đâu. Những điều ít ỏi mà cháu học được thì cháu vẫn chưa hề quên.”
“Hãy chỉ cho ta xem nào,” ông thợ gốm thách thức, vốc một nắm đất sét ướt từ một cái máng trộn bằng gỗ lên.
Taran mỉm cười buồn bã và lắc đầu. “Cháu chỉ dừng lại để chào ông mà thôi,” cậu trả lời. “Giờ thì cháu bận rộn với gươm đao, chứ không phải là đĩa bát sành sứ nữa.” Tuy thế cậu vẫn ngừng lại một lát. Ngọn lửa lò chiếu sáng những chiếc giá xếp hàng dãy đồ sứ, những bình đựng rượu thanh nhã, những vại nước được chế tạo một cách khéo léo và trìu mến. Cậu vội đón lấy nắm đất sét lạnh và đặt nó lên chiếc bàn mà Annlaw vừa quay tít. Cậu không có nhiều thời gian, Taran biết vậy; thế nhưng tro ng khi món đồ thành hình dưới bàn tay mình, cậu liền gạt gánh nặng của sứ mệnh kia sang bên. Tháng ngày như quay ngược trở lại và chỉ còn tiếng kêu ro ro của chiếc bàn quay rồi hình dáng của món đồ sứ hiện ra từ nắm đất sét vốn không có hình thù gì.
“Giỏi lắm,” Annlaw khẽ nói, rồi thêm vào, “Ta đã được nghe chuyện những người thợ rèn và thợ dệt khắp Vùng đất Tự do đã làm việc để rèn vũ khí và may y phục cho đội quân của cháu ra sao. Nhưng chiếc bàn quay của ta không thể rèn được một thanh gươm hay dệt được một tấm áo choàng cho người chiến binh, và đất sét của ta chỉ nặn được cho những mục đích hòa bình mà thôi. Than ôi, bây giờ thì ta không thể giúp đỡ được cháu điều gì.”
“Ông đã dạy cho cháu nhiều điều hơn bất kỳ ai khác,” Taran trả lời, “và cháu quý trọng điều đó hơn cả. Cháu không được sinh ra để làm một chiến binh; thế nhưng, nếu cháu không cầm gươm lúc này, thì trên Prydain sẽ không còn chỗ cho những món đồ thủ công đẹp đẽ và hữu ích nữa. Và nếu cháu thất bại, tất cả những gì cháu học được từ ông sẽ mất hết.”
Đôi tay cậu ngập ngừng dừng lại, bởi vì bác Coll đang cất tiếng oang oang gọi tên cậu. Taran đứng bật dậy khỏi chiếc bàn quay và trong khi Annlaw hoảng hốt nhìn theo, cậu bước ra khỏi căn lều, miệng vội vã từ biệt người thợ gốm. Bác Coll đã rút gươm ra. Chỉ một thoáng sau, Llassar cũng đến bên họ. Cả ba phi ngựa về khu trại nằm cách Merin một quãng trong khi bác Coll cho Taran biết là đám lính canh đã nhìn thấy một toán cướp.
“Chúng sẽ sớm đến được chỗ chúng ta thôi,” Coll cảnh báo. “Chúng ta phải chặn đường chúng trước khi chúng tấn công đoàn quân của chúng ta. Với tư cách là một người trồng củ cải, ta khuyên cháu nên tập hợp một nhóm lính bắn cung và một đội kỵ mã giỏi. Llassar và ta sẽ tìm cách đánh lạc hướng chúng với một đội quân nhỏ hơn.”
Họ liền nhanh chóng lập kế hoạch. Taran thúc ngựa lên trước, cất tiếng gọi các kỵ sĩ và lính bộ binh, họ vội vã nắm lấy vũ khí của mình và đi theo cậu. Cậu ra lệnh cho Eilonwy và Gurgi nấp vào chỗ an toàn giữa đoàn xe thồ; và không thèm dừng lại để nghe lời phản đối của họ, cậu phi nước đại về phía cánh rừng linh sam trên rặng đồi đằng xa.
Bọn cướp được vũ trang kỹ càng hơn Taran dự đoán. Chúng phóng vùn vụt xuống từ trên đỉnh đồi tuyết phủ. Theo hiệu lệnh của Taran, đội cung thủ liền lao tới trước và nằm phục sẵn ở một cái rãnh nông, còn các kỵ mã của Vùng đất Tự do thì ồ ạt xông vào tấn công. Hai đội kỵ mã đụng độ trong đám vó ngựa hỗn loạn và vũ khí chạm nhau chan chát. Rồi Taran đưa chiếc tù và của mình lên miệng. Nghe thấy tiếng tù và lanh lảnh vang vọng khắp nơi, những người lính bắn cung liền nhỏm dậy khỏi chỗ nấp.
Taran biết rằng đây chẳng qua chỉ là một cuộc đụng độ nhỏ, nhưng cả hai bên đều chiến đấu hết sức dữ dội và kịch liệt; và chỉ mãi đến phút cuối, khi đội quân của Coll và Llassar đánh lạc hướng được khá đông kẻ địch, thì toán cướp mới tản ra và bỏ chạy. Thế nhưng đó vẫn là trận chiến đầu tiên mà Taran chỉ huy với tư cách là một vị tướng của Ông hoàng Dòng họ Don. Đội quân Tự Do đã chiến thắng, không có ai trong số họ bị giết và chỉ một vài người bị thương. Mặc dù mệt mỏi và kiệt sức, tim Taran vẫn đập mạnh với niềm vui chiến thắng trong khi cậu dẫn đầu đoàn quân hân hoan đi qua khu rừng và trở về Merin.
Khi lên đến đỉnh đồi, cậu nhìn thấy lửa và hàng cột khói đen nghịt bốc lên cuồn cuộn.
Mới đầu cậu tưởng khu trại đã bị bắt lửa. Cậu thúc Melynlas phóng hết tốc lực xuống dốc. Khi cậu đến gần hơn những lưỡi lửa đỏ rực bốc lên bầu trời hoàng hôn như nhuộm máu và đám khói lan ra khắp thung lũng, cậu mới thấy rằng đó chính là khu Làng đang bốc cháy.
Vượt xa đội quân, cậu phi nước đại vào Merin. Giữa đám chiến binh trong khu trại, cậu thoáng thấy Eilonwy và Gurgi đang cố gắng một cách vô ích để dập lửa. Coll đã vào trong làng trước cả cậu. Taran nhảy từ trên lưng Melynlas xuống và chạy tới bên bác.
“Quá muộn rồi!” Coll kêu lên. “Bọn cướp đã vòng lại và tấn công khu Làng từ phía sau. Merin đã bị thiêu rụi, và người dân làng đã bị sát hại cả rồi.”
Với một tiếng thét khủng khiếp vừa đau đớn vừa điên giận, Taran chạy qua những căn nhà đang cháy bùng bùng. Lớp mái lợp rạ đã cháy rụi, và các bức tường đã nứt ra và sụp đổ. Căn lều của Annlaw cũng chịu chung số phận, nó vẫn còn đang cháy âm ỉ, tàn tích của túp lều nằm trơ trọi giữa trời. Thi thể của ông thợ gốm kẹt giữa đống đổ nát. Tất cả những công trình do hai bàn tay ông làm ra đều đã bị đập vụn. Chiếc bàn quay bị lật úp, chiếc bát bị ném vỡ thành từng mảnh.
Đầu gối Taran khuỵu xuống. Bác Coll đặt tay lên vai cậu, nhưng cậu giật ra và đưa mắt nhìn người chiến binh già. “Hôm nay cháu đã reo mừng thắng lợi ư?” Cậu thì thầm, giọng khàn đặc. “Nó chẳng an ủi gì được cho những người dân đã từng giúp đỡ cháu. Cháu có giúp đỡ lại họ được điều gì không? Chính là máu của dân Làng Merin vấy trên tay cháu đây.”
Sau đó, Llassar nói chuyện riêng với Coll. “Chàng Lang Thang vẫn không chịu rời khỏi căn lều của người thợ gốm,” anh chàng chăn cừu khe khẽ nói. “Phải chịu đựng vết thương của chính mình đã là khó khăn lắm rồi. Nhưng người chỉ huy lại phải chịu đựng vết thương của tất cả những ai đi theo mình nữa.”
Coll gật đầu. “Hãy để yên cho cậu ấy ở lại chỗ nào cậu ấy muốn. Đến sang mai cậu ấy sẽ bình thường trở lại thôi,” ông nói thêm, “cho dù có lẽ các vết thương của cậu ấy sẽ không bao giờ lành miệng được.”
Đến giữa mùa đông thì nhóm chiến binh cuối cùng đã được tập hợp xong và đội quân Tự Do lên đường tới Caer Dathyl. Cùng với một đội kỵ binh, Llassar, Hevydd và Llonio vẫn đi cùng với Taran, lúc này cậu sẽ dẫn nhóm bạn hướng về phía tây bắc qua Dãy Núi Llawgadarrn. Đội quân đã đủ mạnh để có thể hành quân một cách an toàn mà không làm chậm bước cuộc hành trình.
Hai lần họ bị bọn cướp tấn công, và hai lần đoàn quân của Taran đánh cho chúng thảm bại nặng nề. Các băng cướp đã nhận được bài học cay đắng từ chàng chiến tướng đi dưới ngọn cờ hình Lợn Trắng, chúng liền lủi đi và không dám gây rối với họ nữa. Đội quân nhanh chóng vượt qua được chân Dãy Núi Đại Bàng mà không gặp phải trở ngại gì. Gurgi vẫn kiêu hãnh giương cao lá cờ hiệu bay phấp phới giữa những cơn gió lạnh buốt thổi từ các đỉnh núi cao xuống. Trong áo choàng của mình, Taran đem theo một tấm bùa hộ mệnh: một mảnh gốm vỡ ám khói đen sì lấy từ Làng Merin.
Khi đến gần Caer Dathyl, đám kỵ sĩ mở đường báo là có một đội quân khác đang tiến đến. Taran liền phóng lên trước. Đi giữa đội quân cầm giáo là Fflewddur Fflam.
“Ôi Belin Vĩ Đại!” Chàng ca sĩ kêu lên, thúc Llyan tới bên cạnh Taran, “Gwydion sẽ vui mừng lắm đây! Các lãnh chúa phương bắc đã chuẩn bị vũ trang hết sức mình. Khi một người họ Fflam đã ra lệnh thì... _à, ờ, phải, thật ra tôi đã thu nạp họ nhân danh Gwydion, nếu không thì họ đã chẳng sẵn sàng đến vậy đâu. Nhưng không sao, họ đang trên đường đến rồi. Tôi cũng đã nghe tin là Vua Pryderi đã tập trung đội quân của mình. Khi ấy thì cậu sẽ được thấy một đạo quân chính cống! Tôi dám cá là phải đến một nửa số các lãnh chúa phía tây đều nằm dưới quyền chỉ huy của ông ấy.
“Ồ, phải,” Fflewddur nói thêm, khi Taran nhìn thấy Glew đang ngồi vắt vẻo trên lưng một con ngựa xám lưng võng, chân to, “gã nhỏ con ấy vẫn đi cùng với chúng tôi.”
Tên khổng-lồ-một-thời đang mải gặm một khúc xương và chỉ hơi tỏ vẻ nhận ra Taran.
“Tôi không biết phải làm gì với hắn.” Fflewddur hạ giọng nói. “Tôi không có lòng dạ nào để đuổi hắn đi, giữa cảnh chiêu binh hỗn loạn thế này. Thế là hắn đi với tôi. Hắn vẫn không ngừng rên rẩm và kêu ca; hôm thì đau chân, hôm thì đau đầu, và dần dần hắn kêu đau khắp người. Thế rồi, giữa các bữa ăn thì hắn lại kể liên tu bất tận những chuyện khi hắn còn là người khổng lồ.
“Điều tồi tệ nhất là,” Fflewddur nói vẻ chán nản, “hắn lải nhải mãi đến nỗi tôi gần như thấy thương hại cho hắn. Hắn quả là một con chồn ti tiện, trước kia đã thế và sẽ luôn luôn là như thế. Nhưng nếu dừng lại và nghĩ cho kỹ thì... _kể ra hắn cũng đã bị lừa đảo và hành hạ thật. Này nhé, khi Glew còn là người khổng lồ...” Chàng ca sĩ im bặt và đập tay lên trán. “Đủ rồi! Hắn mà còn lải nhải thêm nữa thì tôi sẽ đâm ra tin là hắn nói thật mất! Nào, hãy đi với chúng tôi,” anh ta nói to, tháo cây đàn hạc từ cái mớ rối tung nào là cung tên, ống tên, khiên mộc và dây da trên lưng xuống. “Những người bạn lại gặp lại nhau rồi. Tôi sẽ chơi một điệu nhạc để ăn mừng và giữ cho chúng ta được ấm áp!”
Tiếng nhạc của chàng ca sĩ làm đội quân phấn chấn hơn, và hai đoàn quân cùng nhau đi tiếp. Chẳng mấy chốc pháo đài cao vút của Caer Dathyl đã vươn lên vàng rực dưới ánh mặt trời mùa đông. Những thành lũy khổng lồ của nó nom như những đàn chim đại bàng đang nóng lòng được bay vút lên trời cao. Bên ngoài các bức tường thành và vòng quanh pháo đài là các trại binh và những gian lều cắm cờ phấp phới của các lãnh chúa đã đến để trợ chiến cho Hoàng tộc Dòng họ Don. Thế nhưng không phải là những ngọn cờ hay những tấm huy hiệu hình Mặt Trời Vàng bay phần phật trong gió đã khiến tim Taran nảy lên, mà là cái ý nghĩ rằng nhóm bạn cùng với đội quân của Vùng đất Tự do đã an toàn kết thúc một cuộc hành trình, đã đến được nơi ấm áp và được nghỉ ngơi ít ra là một thời gian. An toàn_Taran ngừng dòng suy nghĩ của mình, và mọi ký ức lại tràn về: ký ức về Rhun Quốc Vương đảo Mona giờ đã vĩnh viễn nằm lại trước những cánh cổng của Caer Cadarn; về Annlaw Thợ Gốm. Và những ngón tay cậu siết chặt lấy mẩu gốm vỡ.
Hết chương 9. Mời các bạn đón đọc chương 10!