Tài liệu: Hoa Kỳ - Đất đai

Tài liệu

Tóm tắt nội dung

Chất đất của một nơi có những đặc điểm của những thứ như đá mẹ tạo thành nó, khí hậu, địa hình, và xác thực vật và động vật bị mục rữa. Hàng trăm loại đất khác nhau là kết
Hoa Kỳ - Đất đai

Nội dung

Đất đai

Chất đất của một nơi có những đặc điểm của những thứ như đá mẹ tạo thành nó, khí hậu, địa hình, và xác thực vật và động vật bị mục rữa. Hàng trăm loại đất khác nhau là kết quả của sự tương tác của những yếu tố này. Mỗi một loại đất đều là duy nhất do những đặc tính pha trộn của nó (chẳng hạn như màu sắc và kết cấu) và thành phần cấu hình của nó (bao gồm cả nội dung hữu cơ và tác dụng của các chất keo đất.

Chất keo là những phần tử nhỏ của đất. Những đặc tính và ảnh hưởng của nó đối với đất thì phức tạp và thường rất quan trọng. Chẳng hạn như tính acid (hay tính kiềm) là kết quả của sự thay đổi và tích hợp của chất keo. Đất acid là đặc điểm của khí hậu lạnh và ẩm ướt; trong khi đất kiềm thường thấy ở những vùng khô ráo. Hầu hết đất của các vùng nông nghiệp ở phía Đông nước Mỹ là từ trung bình cho đến acid. Người ta thường phải bỏ thêm vôi vào theo định kỳ để trung hòa tính acid trước khi đất này được canh tác.

Có lẽ màu sắc là đặc điểm nổi bật nhất của đất. Màu đất sẫm thường nói lên sự phong phú về các chất hữu cơ, còn màu đất đỏ là biểu hiện sự có mặt của các hợp chất sắt. Tuy nhiên thông thường màu sắc là kết quả của quá trình hình thành đất. Chẳng hạn như màu đất xám nhạt của vùng rừng cây lá kim phía Bắc là do quá trình lọc các chất hữu cơ và các khoáng  chất từ tầng đất mặt.

Kết cấu của đất, yếu tố quyết định khả năng giữ nước và chuyển nước đi, là tỉ lệ của những phần tử thuộc nhiều kích cỡ khác nhau trong đất. Cát là thành phần thô nhất của đất, bùn ở mức trung bình, còn đất sét thì mịn nhất. Loại đất gọi là “đất nhiều mùn” chứa những tỉ lệ quan trọng của cả ba thành phần đó và được coi là loại đất tốt nhất. Đất này đủ mịn để giữ hơi ẩm nhưng không quá mịn để bị tích nước.

Bộ Nông nghiệp của Mỹ đã đưa ra một hệ thống phân loại đây, trong đó có những kiểu đất quan trọng nhất của từng khu vực. Aridisol, được tìm thấy hầu hết ở vùng Tây Nam. Đất của khí hậu khô này thường nghèo chất hữu cơ và có ít giá trị về nông nghiệp. Spodosol thường phát triển ở khí hậu mát và ẩm ướt, mặc dù nó được tìm thấy ở vùng Florida. Đất này có tính acid khá cao và nghèo chất dinh dưỡng, và chỉ có giá trị nông nghiệp đối với những loại hoa màu ưa acid. Đất lãnh nguyên, cũng có ít giá trị về nông nghiệp, thường liên quan với khí hậu lạnh và ẩm ướt, chẳng hạn như ở vùng Alaska. Đất này không sâu, thường ngậm no nước, và có tầng dưới bề mặt là một nền đông cứng vĩnh viễn. Đất cao nguyên, được tìm thấy ở Tây Virginia, Utah, và Alaska, thường kém phát triển và không có giá trị về nông nghiệp.

Mollisol là loại đất đồng cỏ thuộc khí hậu bán khô cằn cận ẩm của các vùng Trung tâm, Bắc Trung tâm và Tây Bắc Thái Bình Dương. Đất này có màu nâu đậm cho đến đen, có kết cấu xốp và chứa nhiều chất dinh dưỡng. Nó là một trong số những loại đất tự nhiên màu mỡ nhất trên thế giới, và cho ra hầu hết lượng ngũ cốc của Mỹ. Alfisol là loại đất có giá trị nông nghiệp xếp thứ hai sau mollisol. Đây là chất đất của những cánh rừng ở vĩ độ trung bình và các vùng ranh giới giữa rừng và đồng cỏ. Đất này thường có ở những vùng đủ ẩm để có sự tích tụ của các phần tử chất sét.

Ultisol là loại đất cuối cùng trong thang hình thành chất đất ở Mỹ. Đất này phát triển trong những vùng có lượng mưa, lớn và khoảng thời gian không có sương giá kéo dài, chẳng hạn như ở miền Nam. Trong đất này kích thước của các phần tử thì nhỏ và phần lớn các chất hòa tan và chất sét đã bị chìm xuống dưới. Loại đất này cũng cho năng suất cao, tuy nhiên tính acid và độ xói mòn của nó thường gây ra trở ngại cho việc trồng trọt.

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/2254-02-633495549295781250/Dia-ly/Dat-dai.htm


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận