Miền Bắc khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa (1954 - 1960)
1. Khôi phục kinh tế (1954 - 1957)
Hòa bình vừa lặp lại, nhân dần miến Bắc phải bắt tay ngay vào cuộc đấu tranh để giải phóng hoàn toàn miền Bắc. Lợi dụng 300 ngày chuyển quân tập kết theo quy định của Hiệp định Giơnevơ, thực dân Pháp phối hợp với đế quốc Mĩ và tay sai ra sức phá hoại miền Bắc. Chúng cài lại gián điệp, đốt phá kho tàng, phá hoại những công trình công cộng, những di tích lịch sử và văn hóa (như phá chùa Một Cột - Hà Nội, cầu Phủ Lạng Thương - Bắc Giang, nhà máy điện Uông Bí...). Chúng vơ vét tài sản, vật tư, tháo dở máy móc thiết bị, mang theo hoặc hủy hoại hồ sơ, tài liệu hòng gây khó khăn cho ta trong việc kiểm kê, điều hành công việc và hoạt động sau này. Chúng đóng cửa nhà máy, hãng buôn, công sở, trường học, làm cho sinh hoạt ở thành phố, thị xã ngừng trệ. Chúng còn tung tin xuyên tạc, bôi nhọ chế độ miền Bắc, bịa đặt tin “Chính phủ Việt Minh cấm đạo”, “Chúa đã vào Nam”... để dụ dỗ, cưỡng bức gần 1 triệu đồng bào công giáo di cư vào Nam. Chúng ra sức lôi kéo, mua chuộc các chuyên gia vào Nam. Ở miền núi, chúng tổ chức nhiều nhóm phỉ hoạt động gây rối ở Hoàng Xu Phì, Xin Chải, Chiềng Lao thuộc vùng Tây Bắc; Hoành Bồ, Ba Chẽ thuộc vùng Đông Bắc.
Lợi dụng nếp sống lạc hậu, mê tín dị đoan của đồng bào vùng dân tộc thiểu số, chúng bịa ra việc “xưng vua”, “đón vua”, xúi giục đồng bào chống lại chính sách của chính phủ, bỏ sản xuất, giết trâu bò, ăn uống phung phí, gây mất trật tự an ninh ở một số vùng như Chiềng Nội (Hòa Bình), Pu Nhí (Thanh Hóa)... Nhân dân miến Bắc, nhất là nhân dân những vùng sắp giải phóng, đã tiến hành các cuộc đấu tranh rất quyết liệt chống lại những âm mưu trên của địch.
Phong trào đấu tranh bảo vệ máy móc, tải sản của công nhân đã diễn ra mạnh mẽ ở nhiều nơi. Công nhân nhà máy điện Yên Phụ, nhà máy đèn Bờ Hồ buộc địch phải trả hết số than chúng chuyển đi và bảo đảm dự trữ cho đến ngày ta tiếp quản. Công nhân nhà máy nước đấu tranh giữ được toàn bộ máy móc thiết bị. Công nhân nhà máy xe lửa Gia Lâm đấu tranh giữ lại được 12 đầu máy xe lửa. Công nhân viên chức Sở Bưu điện Hà Nội và của nhiều bệnh viện, trường học đã đấu tranh giữ lại được phần lớn thiết bị máy móc, tài liệu. Hàng nghìn cán bộ đảng viên và các đoàn thể quần chúng đã lặn lộn, đi sâu vào từng gia đình ở thành phố, thị xã, nông thôn để vận động quần chúng chống địch cướp phá tài sản, vận động binh lính người Việt trong quân đội “liên hiệp Pháp” trở về với gia đình và chống địch cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam. Hàng vạn đồng bào chuẩn bị ra đi và hàng nghìn người đã ra đi đấu tranh đòi quay trở lại. Miền Bắc đã lần lượt được giải phóng. Việc tiếp quân vùng mới giải phóng, nhất là các thành thị, hoàn toàn tốt đẹp. Ngày 10-10-1954, Hà Nội được giải phóng. Ngày 1-1-1955, hai mươi lăm vạn dân thủ đô đã tiến hành cuộc mít tinh lớn tại vườn hoa Ba Đình để chào đón Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính phủ về thủ đô sau 9 năm xa cách. Ngày 13-5-1955, Hải Phòng được giải phóng. Ngày 16-5-1955, toán lính Pháp cuối cùng rút khỏi đảo Cát Bà.

Nhân dân Hà Nội chào mừng Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh về lại thủ đô (Ảnh của VNTTX)
Miền Bắt được hoàn toàn giải phóng là một thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến của dân tộc ta, nó tạo ra cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh để tiến tới xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ và hòa bình.
Đồng thời, cũng trong thời gian này ta còn đấu tranh đòi Pháp thi hành điều 21 của Hiệp định Giơnevơ về việc trao trả tù binh và thường dân bị giam giữ trong chiến tranh. Ta đã trao trả cho Pháp 6800 tù binh Âu Phi và 2360 tù binh thuộc quốc tịch Việt Nam. Pháp cũng trao trả cho ta 7350 tù binh, 18350 tù binh chính trị và tình nghi, 37.900 thường dân bị giam giữ trong chiến tranh. Chính sách khoan hồng nhân đạo của Đảng và Chính phủ ta đã làm cho cuộc vận động binh lính địch thu được kết quả to lớn. Trên 60% binh lính ngụy đã bỏ trốn về với nhân dân. Ta còn giải quyết công ăn việc làm, đời sống cho hàng vạn binh lính ngụy và những nhân viên chính quyền cũ ở lại với miền Bắc. Thực hiện chỉ thị của Ban Bí thư trung ương Đảng ngày 16-4-1955 về phá âm mưu gây phỉ của đế quốc Mĩ và tay sai, các địa phương đã tăng cường giáo dục quần chúng, đẩy mạnh tiễu phỉ trừ gian kết hợp với sản xuất, ổn định đời sống. Hàng nghìn tên phỉ đã bị tiêu diệt, hàng nghìn người lầm đường đã quay trở về với gia đình bản làng.
Cùng với việc hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Bắc trên đây, ta còn hoàn thành một nhiệm vụ rất quan trọng là cải cách ruộng đất.
Tại kì họp thứ 4 (3-1955), Quốc hội thông qua nghị quyết tán thành một số điểm bổ sung của Chính phủ về cải cách ruộng đất, nhằm tạo cơ sở pháp lí cho việc triển khai cải cách ruộng đất trên quy mô lớn ở miền Bắc trong điều kiện mới. Những điểm bổ sung đó là: dùng hình thức tòa án thay cho những cuộc đấu tranh của nông dân; thu hẹp diện trưng thu, mở rộng diện trưng mua, quy định việc hiến ruộng; chiếu cố những địa chủ kháng chiến và gia đình địa chủ có con em là bộ đội, cán bộ, viên chức cách mạng; chiếu cố các nhà công thương kiêm địa chủ và những người tu hành. Ngày 20-7-1956, đợt V của cải cách ruộng đất đã kết thúc. Đây là đợt cuối cùng và là đợt cải cách ruộng đất lớn nhất được tiến hành trong 1732 xã với 6 triệu dân ở 20 tỉnh và hai thành phố. Trong quá trình cải cách ruộng đất, ta cũng phạm phải những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài. Tháng 4-1956, Đảng đã phát hiện ra sai lầm và có chỉ thị sửa chữa những sai lầm ấy.
Ngày 18-8-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào nông thôn và cán bộ vạch rõ những thắng lợi và sai lầm trong cải cách ruộng đất. Tháng 9-1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thảo luận kĩ và kết luận về những thắng lợi và sai lầm trong cải cách ruộng đất. Kì họp thứ 6 của Quốc hội (12-1956) cũng đã phân tích, đánh giá toàn diện vấn đề trên.
Trong thời gian 3 năm 10 tháng (kể từ đầu cho tới khi hoàn thành), ta đã tiến hành 8 đợt giảm tô và 5 đợt cải cách ruộng đất. Cải cách ruộng đất đã được tiến hành ở 3653 xã (xã mới chia lại) thuộc 22 tỉnh, bao trùm cả đồng bằng và trung du miền Bắc, gồm 2435.518 gia đình, 10.700.000 nhân khẩu và động đến 1,5 triệu ha ruộng đất (tức phần lớn ruộng đất ở miền Bắc). Đã tịch thu, trưng thu và trưng mua 810.000 ha ruộng đất, trên 100.000 trâu bò, 1,8 triệu nông cụ chia cho 2,2 triệu hộ nông dân lao động, gồm 9,5 triệu người (tức 72,8% số hộ ở nông thôn được chia ruộng đất).
Thắng lợi này đã tạo tiền đề củng cố, phát triển miền Bắc về mọi mặt. Từ sau cải cách, việc phân chia ruộng đất đã có biến đổi to lớn so với tình hình trước năm 1945 (nhân khẩu/m2)[1].

Với tỉ lệ ruộng đất được phần chia lại tương đối đồng đều giữa các hộ nông dân, với việc đông đảo nông dân nghèo thiếu ruộng nay đã có đủ ruộng canh tác, tự sản xuất độc lập, tạo tiền đề khách quan cho việc củng cố vai trò kinh tế của các hộ nông dân. Đến cuối năm 1955, tổng số công nhân viên chức có 168.250 người, cuối năm 1957 tăng lên 247730 người. Tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ phát triển rất nhanh cả ở nông thôn và đô thị, riêng lực lượng thợ thủ công đã lên tới 500.000 người. Lực lượng tiểu thương tới cuối năm 1957 đã có 78.456 cơ sở buôn bán với 23.000 người. Có thể nói, sự tồn tại của nhiều thành phấn kinh tế trong giai đoạn này đã cho phép khai thác triệt để tiềm năng kinh tế cùng mọi nhân lực xã hội để hoàn thành thắng lợi kế hoạch 3 năm khai phục kinh tế.
Tuy nhiên, những sai lầm nghiêm trọng của cải cách ruộng đất đã gây tổn thất lớn cho nhân dân và hạn chế nhất định những thành quả của cải cách ruộng đất. Các sai lầm đó gồm những điểm cơ bản: vi phạm đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn (xâm phạm lợi ích của trung nông, không liên hiệp phú nông, không phân biệt đối xử với các loại địa chủ, không chiếu cố địa chủ kháng chiến); cường điệu việc trấn áp phản cách mạng; không dựa vào tổ chức cũ, mắc chủ nghĩa thành phần và khuynh hướng trừng phạt, nặng đấu tố, nhẹ giáo dục, không kết hợp biện pháp hành chính với phát động quần chúng... Sai lầm nghiêm trọng nhất là trong việc chỉnh đốn tổ chức. Nguyên nhân sâu xa của những sai lầm trên là không nắm vững vấn đề dân tộc và giai cấp ở nước ta, không thấy được những biến đổi to lớn của nông thôn miền Bắc sau Cách mạng tháng Tám, áp dụng máy móc kinh nghiệm nước ngoài vào Việt Nam một cách đơn giản... Hội nghị Trung ương lần thứ 10 chủ trương kiên quyết sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, phát huy những thắng lợi và thành quả đã đạt được, đoàn kết nội bộ, đoàn kết nhân dân, ổn định nông thôn gây tinh thần phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất, hoàn thành tốt công tác cải cách ruộng đất. Hội nghị khẳng định: “Chúng ta không sợ vạch rõ sai lầm, khi đã thấy sai lầm thì chúng ta kiên quyết sửa chữa được”. Hội nghị đã đề ra một loạt chủ trương, biện pháp để sửa chữa sai lầm, khôi phục danh dự, quyền lợi cho những người bị xử oan và thi hành kỉ luật một số cán bộ có trách nhiệm. Do chủ trương đúng đắn của Đảng và được toàn dần ủng hộ, nên tới cuối năm 1957 công tác sửa sai đã đem lại kết quả tốt đẹp. Nông thôn dân dần ổn định lại, nội bộ Đảng đoàn kết, lòng tin của nhân dân được khôi phục, sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh, chính quyền nhân dân được ổn định và sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Hoàn thành nhiệm vụ giảm tô, cải cách ruộng đất và sửa sai là bước cuối cùng của cuộc vận động cách mạng ruộng đất trên toàn miền Bắc. Cuộc cách mạng ruộng đất đã xóa bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến, xác lập quyền sở hữu ruộng đất của nông dân lao động, mục tiêu “người cày có ruộng” đã được thực hiện. Đánh giá về cuộc cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng đã có kết luận như sau:
“Căn cứ trên những kết quả đạt được và căn cứ vào hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng dân tộc dân chủ, thì việc tiếp tục giải quyết vấn đề ruộng đất, xóa bộ những tàn dư của chế độ phong kiến là cần thiết.
Căn cứ tình hình thực tế nông thôn miền Bắc nước ta sau năm 1954, căn cứ vào số ruộng chia cho nông dân trong cải cách ruộng đất, căn cứ tác hại rất nghiêm trọng của sai lầm cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, thì chủ trương cải cách ruộng đất như đã làm là không cần thiết. Đó là vì trước khi tiến hành cải cách ruộng đất, giai cấp địa chủ, chế độ phong kiến căn bản bị xóa bỏ và mục tiêu người cày có ruộng đã căn bản thực hiện với tỉ lệ hơn 218 ruộng đất đã vào tay nông dân[2], với quyền làm chủ của nông dân trong nông thôn đã được thực hiện từ Cách mạng tháng Tám đến kháng chiến chống Pháp. Kinh nghiệm ở miền Nam sau khi hoàn toàn giải phóng cho thấy, mặc dầu vấn đề ruộng đất có những phức tạp, nhưng có thể thực hiện mục tiêu người cày có ruộng bằng con đường thích hợp nhất”[3].
Đồng thời với việc hoàn thành những nhiệm vụ trên đây, việc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh cũng được xúc tiến khẩn trương ngay sau khi hòa bình vừa lập lại. Miền Bắc bắt tay vào khôi phục kinh tế trong điều kiện hết sức gay gắt của một xã hội vốn là thuộc địa vừa trải qua chiến tranh tàn phá nặng nề. Nông nghiệp, ngành kinh tế chủ yếu của miền Bắc, bị thiệt hại nặng nề : 1.430.000 ha đất bị bỏ hoang, 8 công trình thủy nông lớn và nhiều công trình thủy nông vừa và nhỏ bị phá hủy. Phần lớn ruộng đất chỉ làm một vụ, năng suất rất thấp. Kĩ thuật sản xuất thô sơ thiên tai nặng nề. Sức kéo chủ yếu là trâu bò, nhưng thiếu nghiêm trọng do hàng vạn trâu bò bị giết trong chiến tranh. Những đồng bào công giáo bị dụ dỗ cưỡng ép di cư vào Nam đã để lại hàng chục nghìn ha ruộng đất bị bỏ hoang. Nền công nghiệp vốn rất nhỏ yếu lại bị thiệt hại nặng nề. Phần lớn nhà máy, xí nghiệp không hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng. Nguyên liệu, nhiên liệu, máy móc thiếu nghiêm trọng. Gần 50% kho tàng, công sở bị phá hoại. Tại Hà Nội, Hải Phòng, khi ta vào tiếp quản chỉ có nhà máy điện và nhà máy nước hoạt động. Sản lượng mỏ than Hồng Gai chỉ còn 986.000 tấn, giảm 40% so với năm 1939. Giao thông vận tải, mạch máu của nền kinh tế quốc dân, bị phá hủy nặng nề. Hàng nghìn km đường sắt bị tàn phá, chỉ có hơn 100 km tuyến đường sắt Hà Nội-Hải Phòng hoạt động; 3500 cầu cống bị phá hủy, phương tiện vận tải thiếu thốn, việc giao lưu giữa các vùng gặp rất nhiều khó khăn. Thương nghiệp bị đình đốn, các hoạt động đầu cơ, nâng giá, lũng đoạn thị trường diễn ra phổ biến. Nhà nước mới nắm được 40,5% khối lượng hàng hóa bán buôn và 22,5% hàng bán lẻ. Sản xuất ngừng trệ, lưu thông phân phối khó khăn, hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng. Tiền tệ chưa thống nhất, nền kinh tế quốc dân ở miền Bắc mất cân đối gay gắt. Hàng chục vạn người thất nghiệp, kể cả hàng vạn binh lính ngụy bỏ ngũ, về các địa phương. Nạn đói lan tràn. Tháng 9-1954, miền Bắc có gần nửa triệu người bị đói. Do chính sách ngu dân của thực dân Pháp và do hoàn cành chiến tranh, nền giáo dục miền Bắc ở trong tình trạng thấp kém, hàng triệu người bị mù chữ. Năm 1955, cả miền Bắc chỉ có 30 kĩ sư và cán bộ kĩ thuật. Mạng lưới y tế lạc hậu, nhiều dịch bệnh như sốt rét, lao phổi, hoa liễu, đau mắt hột... hoành hành phổ biến. Thực dân Pháp còn lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo để gây thêm những khó khăn phức tạp, chia rẽ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Tình hình trên đã đặt ra cho Đảng và nhân dân miền Bắc một nhiệm vụ hết sức nặng nề là khẩn trương khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh. Tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết vạch rõ nhiệm vụ trước mắt trong thời kì tới là ổn định trật tự xã hội, ổn định vật giá, ổn định thị trường. Khâu trọng tâm của cả thành phố và nông thôn là phục hồi và nâng cao sản xuất, phục hồi kinh tế quốc dân, then chốt là phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp. Phục hồi giao thông vận tải có tính chất mở đường. Chú ý phục hồi và nâng cao sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, nhất là những công xưởng công nghiệp nhẹ sản xuất những mặt hàng phục vụ đời sống nhân dân. Tháng 11-1954, Ban Bí thư lại ra chỉ thị về chống đối, phòng đói và phục hồi sản xuất. Ngay sau khi hòa bình lập lại việc khôi phục kinh tế đã được triển khai như làm lại đường sắt Hà Nội Mục Nam Quan, xây dựng lại các công trình thủy lợi đã bị phá trong chiến tranh. Sau khi tiếp quản Hà Nội và phần lớn vùng đồng bằng Bắc Bộ, việc khôi phục đã được mở rộng và triển khai trên quy mô lớn. Đầu năm 1955, Chính phủ đã đề ra chương trình khôi phục kinh tế mà những nét lớn đã được kì họp thứ 4 của Quốc hội (tháng 3-1955) thông qua. Tại kì họp thứ 4 (3-1955), Quốc hội nhấn mạnh: “Nhiệm vụ chung của khôi phục kinh tế là dựa vào sức lực của nhân dân ta, đồng thời dựa vào sự giúp đỡ của các nước bạn - sức ta là chính - nhằm khôi phục sản xuất nông nghiệp, tiểu công nghiệp và công nghiệp; khôi phục thương nghiệp và bình ổn giá cả, củng cố nền tài chính quốc gia; khôi phục giao thông vận tải”[4].
Mục tiêu khôi phục kinh tế là lấy mức sản xuất năm 1939, mức cao nhất ở Đông Dương trước chiến tranh thế giới, làm mức phấn đấu. Tới cuối năm 1957, kế hoạch khôi phục kinh tế đã căn bản hoàn thành và nhiều chỉ tiêu hoàn thành vượt mức. Về nông nghiệp, năm 1956 miền Bắc đã sản xuất được hơn 4 triệu tấn lương thực (năm 1939, sản xuất được hơn 2 triệu tấn). Hầu hết các công trình thủy lợi lớn đã được khôi phục, các hệ thống nông giang sông Cầu, sông Chu và nhiều cơ sở thủy nông khác bắt đầu được sửa chữa. Nhân dân khắp nơi đào mương, khơi ngòi, đắp đê, khai hoang phục hóa ruộng đất. Nông dân sôi nổi thi đua sản xuất vào tổ đổi công, xây dựng thử hợp tác xã nhằm đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống. Nạn đói giáp hạt, sản phẩm của chế độ cũ, đã bước đầu được giải quyết.
Về công nghiệp, chúng ta đã khôi phục được 29 xí nghiệp cũ, xây dựng được 55 xí nghiệp mới, chủ yếu sản xuất hàng tiêu dùng như diêm Thống Nhất, gỗ Cầu Đuống, thuốc lá Thăng Long, cá hộp Hạ Long, chè Phú Thọ. Hầu hết các nhà máy, xí nghiệp quan trọng như mỏ than Hồng Gai, xi măng Hải Phòng, dệt Nam Định, điện Hà Nội... đều được khôi phục và mở rộng. Đến cuối năm 1957, miền Bắc đã có 97 nhà máy, xí nghiệp do Nhà nước quản lí. Về giao thông vận tải, ta đã khôi phục được gần 700 km đường sắt, quan trọng nhất là tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn, sửa chữa và làm mới hàng nghìn km đường ôtô, xây dựng lại và mở rộng nhiều bến cảng (Hải Phòng, Hồng Gai, Cẩm Phả, Bến Thủy). Đường hàng không dân dụng quốc tế được khai thông. Khối lượng hàng hóa và hành khách vận chuyển đã đạt gần bằng mức trước chiến tranh. Sau ba năm khôi phục, thành phần kinh tế quốc doanh đã chiếm 24,7% giá trị sản lượng công nghiệp và thủ cộng nghiệp, 61% thương nghiệp bán buôn, 29,5% thương nghiệp bán lẻ, 98,1% trong ngoại thương, 100% trong các ngành ngân hàng, xây dựng cơ bản, bưu điện, đường sắt… Kinh tế quốc doanh đã nắm toàn bộ hoặc phần lớn những ngành kinh tế then chốt, giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc dân.

Nhà máy cơ khí Trung quy mô Hà Nội (Ảnh của VNTTX)
Các ngành văn hóa, giáo dục, y tế đã phát triển nhanh chóng. Nền giáp dục được phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa. Hơn 1 triệu người đã thoát nạn mù chữ. Hệ thống giáo dục phổ thông theo chương trình 10 năm đã được khẳng định, giáo dục đại học được chú ý phát triển. Năm học 1956-1957, miền Bắc đã có 606.000 học sinh vỡ lòng, 952.000 học sinh phổ thông, 7.783 học sinh trung học chuyên nghiệp, 3664 sinh viên đại học. Công tác y tế được coi trọng, nhiều bệnh xã hội, truyền nhiễm bị đẩy lùi. Cuối năm 1957, miền Bắc đã có 55 bệnh viện, 18 viện điều dưỡng, 85 bệnh xá, 19.700 giường bệnh, 362 nhà hộ sinh, 5130 ban phòng bệnh. Công tác văn hóa văn nghệ, xuất bản, thể dục thể thao đều được đẩy mạnh. Tàn dư văn hóa cũ bị đẩy lùi, hạn chế được nhiều thói hư tật xấu, mê tín dị đoan trong xã hội. Nạn thất nghiệp được khắc phục từng bước.
Giữa lúc nhân dân ta đang ra sức khôi phục kinh tế ở miền Bắc và đấu tranh chống lại sự khủng bố đàn áp điên cuồng của Mĩ - Diệm ở miền Nam, thì ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng diễn ra các cuộc đấu tranh chính trị gay gắt. Trong nội bộ một số Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân ở các nước đó có sự đấu tranh quyết liệt. Các thế lực phản động quốc tế triệt để khai thác tình hình nói trên hòng chống chủ nghĩa cộng sản, can thiệp vào nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa. Những vụ lộn xộn ở Pôdơnan (Ba Lan), Buđapét (Hunggari) đã xảy ra. Bầu không khí căng thẳng trên thế giới đã có tác động đến Việt Nam.
Còn ở miền Bắc nước ta, Đảng và Chính phủ lại phạm những sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Tình hình đó đã gây tác động đến tư tưởng quần chúng, nhất là tầng lớp tư sản, tiểu tư sản và trí thức. Lợi dụng tình hình này, lực lượng tình báo nước ngoài được cài lại ở miền Bắc tìm cách móc nối với bọn phản động bên trong và cùng với bọn này lôi kéo một số người bất mãn trong giới trí thức và văn nghệ sĩ để chống lại sự lãnh đạo của Đảng văn chính quyền nhân dân.
Trong bối cảnh đó, báo “Nhân văn”, tập san “Giai phẩm” và “Đất mới” lần lượt ra đời ở Hà Nội. Khuynh hướng chính trị của “Nhân văn” và “Giai phẩm” đi từ phê phán gay gắt những sai lầm thiếu sót của Đảng và Chính phủ trong việc thực hiện cải cách ruộng đất, tổ chức quản lí kinh tế, an ninh chính trị, về quyền tự do dân chủ, về văn hóa văn nghệ, đến phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận văn hóa văn nghệ, quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng về chính trị, về Nhà nước. Trong bối cảnh ở miền Bắc lúc bấy giờ, khuynh hướng hoạt động đó của “Nhân văn - Giai phẩm” đã gây thêm tác động xấu về tư tưởng, chính trị, làm tổn hại đến quyền lãnh đạo của Đảng và vai trò của Nhà nước, đến lợi ích của nhân dân.
Trước tình hình đó, một mặt Đảng ta kiên quyết sửa chữa những sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, mặt khác mở cuộc vận động đấu tranh sâu rộng trên lĩnh vực tư tưởng với các hình thức: tọa đàm lên án, kiểm thảo cá nhân, bút chiến... Đảng đã chỉ đạo các cấp ủy phổ biến cho cán bộ, đảng viên những nhận định của Đảng về khuynh hướng chính trị của “Nhân văn - Giai phẩm”, yêu cầu đảng viên kiên định lập trường và đi sâu tuyên truyền giáo dục quần chúng nhất trí với nhận định của Đảng, không ngộ nhận những luận điệu của “Nhân văn” và “Giai phẩm”. Trên các phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương và Hà Nội, đã có hàng loạt bài phê phán những sai lầm của “Nhân văn - Giai phẩm”.
Hàng trăm thư kiến nghị của công nhân, nông dân, trí thức và lao động thủ đô phản đối những sai trái của “nhân văn - Giai phẩm”.
Đến cuối năm 1956, một vài người cầm đầu trong “Nhân văn – Giai phẩm” đã bộc lộ khuynh hướng chống Đảng, chống chế độ ngày càng công khai. Báo “Nhân văn” số 6 có bài kích động kêu gọi nhân dân xuống đường biểu tình, song đảng viên, công nhân nhà in Xuân Thu (nơi in báo Nhân văn) đã phát hiện ra bài báo trên và kịp thời kiến nghị với chính quyền để xử lí.
Ngày 15-12-1956, ủy ban hành chính thành phố Hà Nội đã ra quyết định định bàn và cấm lưu hành báo Nhân văn. Qua đấu tranh, một số người trong nhóm “Nhân văn - Giai phẩm” đã kiểm điểm, tự phê bình và nhận những sai lầm của họ. Đảng còn giúp đỡ họ tiếp tục rèn luyện tư tưởng và chính trị. Một số người bị xử lí bằng hành chính do những sai phạm của họ, còn những phần tử hoạt động phạm pháp thì bị xử lí bằng pháp luật, chấm dứt hoạt động của “Nhân văn” và “Giai phẩm”.
Trong thời kì này, Đảng và Chính phủ ta đã đề ra nhiều chủ trương và biện pháp nhằm tích cực xây dựng quân đội hùng mạnh, tiến dần từng bước lên chính quy hiện đại. Lực lượng thường trực được phát triển mạnh, có số lượng phù hợp, chất lượng ngày càng nâng cao; lực lượng dự bị hùng hậu, ba thứ quân được củng cố, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự. Kì họp thứ tư của Quốc hội đã thông qua kế hoạch “Củng cố quốc phòng, củng cố quân đội” do Chính phủ đề ra nhằm xây dựng quân đội theo hướng chính quy hiện đại.
Từ ngày 5 đến 10-9-1955, Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc họp tại Hà Nội quyết định thành lập Mặt trận Tế quốc Việt Nam nhằm tiếp tục sự nghiệp đoàn kết toàn dân của Mặt trận Liên Việt trước đó. Cương lĩnh tóm tắt của Mặt trận Tổ quốc gồm 10 điểm: hoàn thành độc lập dân tộc, thực hiện thống nhất nước nhà, xây dựng chế độ dân chủ, phát triển kinh tế nâng cao sản xuất, cải cách ruộng đất, thi hành chính sách xã hội hợp lí, phát triển văn hóa giáo dục, củng cố quốc phòng bảo vệ Tổ quốc, thi hành chính sách ngoại giao hòa bình độc lập và nhân dân toàn quốc đoàn kết.
Hồ Chí Minh giữ chức Chủ tịch danh dự của Mặt trận, Tôn Đức Thắng giữ chức Chủ tịch đoàn chủ tịch ủy ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu tại Đại hội thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Ảnh của VNTTX)
Đánh giá về thời kì lịch sử này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Trải qua thời gian ba năm, nhân dân ta ở miền Bắc đã ra sức khắc phục khó khăn, lao động sản xuất, thu được những thành tích to lớn trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, bước đầu phát triển văn hóa, giảm bớt khó khăn và dần dần cải thiện đời sống cho nhân dân ở cả miền đồng bằng và miền núi. Cải cách ruộng đất căn bản đã hoàn thành, công việc sửa chữa sai lầm phát huy thắng lợi trong nhiều địa phương đã làm xong và thu được kết quả tốt. Nông nghiệp đã vuốt hẳn mức trước chiến tranh. Công nghiệp đã khôi phục các xí nghiệp cũ, xây dựng một số nhà máy mới. An ninh trật tự được giữ vững, quốc phòng được củng cố[5].
2. Cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-1960)
Sau 3 năm tiến hành khôi phục kinh tế, miền Bắc sôi nổi bước vào thời kì cải tạo xã hội chủ nghĩa. Trong thư chúc mừng năm mới ngày 1-1-1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố trước toàn thể nhân dân:
“Thời kì khôi phục kinh tế đã kết thúc và mở đầu thời kì phát triển kinh tế một cách có kế hoạch.
Đó là một tiến bộ mới trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta... Phát triển kinh tế và văn hóa tức là dần dần xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng, phức tạp, gian khổ và lâu dài”[6]. Tại Hội nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (19-3-1958) và kì họp thứ 8 của Quốc hội khóa I (16-4-1958), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhiệm vụ trước mắt của nhân dân ta là ra sức xây dựng và củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà... Cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm xóa bỏ mọi chế độ người bóc lột người ở nước ta, nhằm đưa lại đời sống ấm no cho toàn dân ta”[7]. Trung tuần tháng 11-1958, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp, chủ trương bước đầu phát triển kinh tế, phát triển văn hóa trong 3 năm (1958-1960) và cải tạo xã hội chủ nghĩa đổi với kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ và kinh tế tư bản tư doanh, trong đó trọng tâm trước mắt là cải tạo thành phần kinh tế cá thể của nông dân. Đi đôi với công việc cải tạo, phải ra sức phát triển thành phần kinh tế quốc doanh là lực lượng lãnh đạo nền kinh tế quốc dân.
Mùa thu năm 1958, ta tiến hành đợt thí điểm đầu tiên về hợp tác hóa nông nghiệp. Phương châm tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp là “tích cực lãnh đạo, vững bước tiến lên, quy hoạch về mọi mặt, sát với từng vùng, làm tốt vững và gọn”, bảo đảm nguyên tắc “tự nguyện, cùng có lợi và quản lí dân chủ”. Trong đợt thí điểm, miền Bắc đã xây dựng được 134 hợp tác xã nông nghiệp với 0,09% số hộ nông dân. Bước sang năm 1959, tổ chức hợp tác xã nông nghiệp đã được mở rộng. Đến tháng 11-1960, miền Bắc đã xây dựng được 41.401 hợp tác xã với 86% số hộ nông dân, chiếm 76% diện tích đất canh tác, trong đó có 12% số hộ nông dân vào hợp tác xã bậc cao. Hợp tác xã đã đẩy mạnh sản xuất, cải tiến kĩ thuật, khắc phục khó khăn về tư liệu sản xuất, về thiên tai.
Ở miền núi, cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp kết hợp với hoàn thành cải cách dân chủ, tức là trong khi củng cố và phát triển tổ đổi công và hợp tác xã, cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất phải kết hợp với việc xóa bỏ những tàn tích của chế độ phong kiến về chiếm hữu ruộng đất và những hình thức bóc lột phong kiến còn lại.
Đồng thời, miền Bắc thực hiện cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Cuộc cải tạo này được tiến hành bằng biện pháp hòa bình vì giai cấp tư sản miền Bắc nhỏ yếu, số lượng ít, đa số thuộc loại vừa và nhỏ, vốn là đồng minh của giai cấp công nhân trong cách mạng dân tộc dân chủ. Để cải tạo tư sản bằng biện pháp hòa bình, ta chủ trương mua lại, chuộc lại tư liệu sản xuất của tư sản và trả dần tiền chuộc cho nhà tư sản, đưa họ vào công tư hợp doanh hoặc các xí nghiệp hợp tác (chủ yếu là công tư hợp doanh, hình thức cao của chủ nghĩa tư bản nhà nước), xóa bỏ giai cấp tư sản, cải tạo nhà tư sản thành người lao động. Giai cấp tư sản miền Bắc có phản ứng, đôi khi khá gay gắt. Tới cuối năm 1960, đã có 97% số hộ tư sản vào công tư hợp doanh. Đồng thời, 87,9% số thợ thủ công và 45% những người buôn bán nhỏ đã vào hợp tác xã.
Kết quả cải tạo xã hội chủ nghĩa đã có tác động tích cực trong việc xóa bỏ về cơ bản chế độ người bóc lột người, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, nhất là trong điều kiện có chiến tranh. Hợp tác xã đã bảo đảm những điều kiện cần thiết về tinh thần và vật chất, chính trị cho những người tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Tuy nhiên, trong cải tạo ta cũng phạm phải một số sai lầm như đống nhất cải tạo với xóa bỏ các thành phần kinh tế cá thể, xóa bỏ tư hữu. Đó là do ta không nắm vững các quy luật kinh tế của thời kì quá độ, nên đã xóa bỏ kinh tế nhiều thành phần. Ngoài ra, còn do tư tưởng chủ quan, nóng vội dẫn đến gò ép, vi phạm nguyên tắc tự nguyện, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của quần chúng, không tạo ra được động lực thật mạnh mẽ để thúc đẩy sản xuất phát triển. Nên kinh tế xã hội phần nào bị gò ép, thiếu năng động.
Đồng thời với nhiệm vụ cải tạo là bước đầu phát triển kinh tế, mà trọng tâm là phát triển thành phần kinh tế quốc doanh. Sau 3 năm phấn đấu, miền Bắc đã đạt được những thành tựu đáng kể: từ 97 xí nghiệp quốc doanh trong năm 1957, đến năm 1960 đã tăng lên 172 xí nghiệp do Trung ương quản lí và trên 500 cơ sở do địa phương quản lí.
Từ 16 nông trường quốc doanh vào năm 1957, tăng lên 59 nông trường quốc doanh - cuối năm 1960. Công nghiệp quốc doanh năm 1960 chiếm 89,9% giá trị sản lượng công nghiệp, vận tải quốc doanh chiếm 79,7% vận tài hàng hóa tính theo tấn-km, thương nghiệp quốc doanh chiếm 49,5% (nếu tính cả thương nghiệp hợp tác xã là 91%). Trong 3 năm, mặc dầu năm 1960 có thiên tai lớn, sản xuất tăng trung bình hàng năm 5,6%. Về công nghiệp, sản xuất bình quân hàng năm tăng 21,7%, riêng công nghiệp quốc doanh tăng 49,6%. Năm 1960 so với năm 1959, sản xuất của công nghiệp quốc doanh vượt kế hoạch 12,6% và tăng 32,8%, đặc biệt công nghiệp địa phương tăng gấp 10 lần so với năm 1957. Công nghiệp nặng bắt đầu được xây dựng. Tỉ trọng nhóm A trong giá trị sản lượng công nghiệp tăng từ 23,5% (năm 1957), lên 32% (năm 1960). Cùng thời gian này, công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm tăng 60,4%. Phần lớn hàng tiêu dùng trước đây phải nhập nay đã tự cung, tự cấp.
Ngành xây dựng cơ bản có nhiều tiến bộ. Một số công trình quan trọng được hoàn thành như: nhà máy điện Vinh, điện Lào Cai, mỏ Apatít; xây dựng các nhà máy cao su, xà phòng, thuốc lá Hà Nội, nhà máy sứ Hải Dương. Trong nông nghiệp, nhiều công trình thủy lợi lớn nhỏ được xây dựng. Một số công trình lớn được khởi công, tiêu biểu là công trình thủy nông Bắc - Hưng - Hải (Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương). Việc cải tiến kĩ thuật được đẩy mạnh trong nông nghiệp như phong trào cấy lúa xuân, chọn giống mới, làm phân xanh... Phong trào tuy mới bắt đầu nhưng đã mở ra khả năng cho việc tăng năng suất và ổn định tình hình nông thôn miền Bắc.
Trên cơ sở sản xuất phát triển, thu nhập quốc dân bình quân đầu người tăng gấp đôi, sức mua của toàn xã hội từ năm 1955 - 1960 tăng 70%.
Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế cũng được đẩy mạnh. Chúng ta đẩy căn bản xóa bỏ nạn mù chữ cho những người dưới 50 tuổi. Cải cách giáo dục đã tiến hành có kết quả, xóa bỏ được tàn dư của nền giáo dục cũ, xây dựng được nền giáo dục mới xã hội chủ nghĩa. Trong năm 1960, cứ 100 người dân có 18 người đi học. Hệ thống giáo dục phổ thông được hoàn chỉnh và mở rộng. Năm 1960 (so với năm 1957), số học sinh phổ thông tăng gấp 2 lần, số học sinh trung học chuyên nghiệp tăng gấp 4 lần, số sinh viên đại học tăng gấp 4 lần, chúng ta đã có 9 trường đại học với 11.000 sinh viên.
Công tác y tế phát triển. Số bệnh viện, bệnh xá, trạm xá, cơ sở hộ sinh tăng gấp 11 lần, số giường bệnh tăng 2 lần so với trước.
Thắng lợi của kế hoạch 3 năm (1958-1960) về cải tạo xã hội chủ nghĩa đã tạo nên những chuyển biến to lớn trên miền Bắc nước ta. Thắng lợi đó được phản ánh trong bản Hiến pháp XHCN đầu tiên ở nước ta, được Quốc hội thông qua trong kì họp thứ 11, ngày 31-12-1959. Ngày 1-1-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh công bố bản Hiến pháp mới.
Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam DCCH gồm có Lời nói đầu, 112 điều chia thành 10 chương.
Lời nói đầu của Hiến pháp đã ghi rõ nước Việt Nam là một nước thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà Mau, là một dân tộc đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử, cần cù lao động, anh dũng đấu tranh, xây dựng và giữ gìn độc lập của Tổ quốc. Hiến pháp cũng ghi nhận những thành quả cách mạng đã giành được trong thời gian qua và nêu rõ mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta trong giai đoạn mới; quy định trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan nhà nước, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân nhằm phát huy sức sáng tạo to lớn của nhân dân ta trong công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Chương I của Hiến pháp khẳng định “nước Việt Nam DCCH là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc.
Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà nước có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển sự đoàn kết giữa các dân tộc. Mọi hành vi khinh miệt, áp bức chia rẽ dân tộc đều bị nghiêm cấm:
… Nhà nước ra sức giúp đỡ các dân tộc thiểu số mau tiến kịp trình độ kinh tế văn hóa chung” (Điều 3).
“Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam DCCH đều thuộc về nhân dân.
Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.
Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân” (Điều 6).
Về cơ sở kinh tế của Nhà nước, Hiến pháp quy định: “Nước Việt Nam DCCH tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên CNXH bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo CNXH, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kĩ thuật tiên tiến.
Mục đích cơ bản của chính sách kinh tế của nước Việt Nam DCCH là không ngừng phát triển sức sản xuất, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” (Điều 9).
Các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất được xác nhận bao gồm: sở hữu của nhà nước tức của toàn dân, sở hữu của hợp tác xã tức của tập thể nhân dân lao động, sở hữu của người lao động riêng lẻ và sở hữu của nhà tư sản dân tộc. “Kinh tế quốc doanh thuộc hình thức sở hữu của toàn dân, giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được nhà nước bảo đảm phát triển ưu tiên” (Điều 12). Kinh tế hợp tác xã thuộc hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động được “nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ sự phát triển” (Điều 13). Nhà nước chiều theo pháp luật bảo hộ các quyền sở hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của nông dân”, “về tư liệu sản xuất của những người làm nghề thủ công và những người lao động riêng lẻ khác”, “về tư liệu sản xuất và của cải khác của nhà tư sản dân tộc” (Điều 14, 15, 16). “Nhà nước ra sức hướng dẫn các nhà tư sản dân tộc đi theo con đường cải tạo XHCN bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác” (Điều 16). Nhà nước còn bảo hộ các quyền sở hữu của nông dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, các thứ vật dụng riêng biệt và bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của họ (Điều 19, 20). “Nhà nước khuyến khích tính sáng tạo và tinh thần tích cực trong lao động của những người lao động chân tay và lao động trí óc” (Điều 21).
Hiến pháp cũng quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Về quyền lợi, mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, có quyền bầu cử và ứng cử quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình, quyền tự do tín ngưỡng; quyến bất khả xâm phạm về thân thể, nhà ở, thư tín; quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan nhà nước nào về những hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước; quyền làm việc, nghỉ ngơi; quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động; quyền học tập, thực hiện từng bước chế độ giáo dục cưỡng bức; quyền nghiên cứu khoa học và sáng tạo... Phụ nữ nước Việt Nam DCCH có quyền bình đẳng với nam giới, nhà nước bảo hộ quyền lợi của bà mẹ, trẻ em v.v…
Về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội và gia đình, nhà nước cố gắng bảo đảm và tạo các điều kiện cần thiết để các quyền này của công dân được thực sự tôn trọng. Đồng thời, cũng không cho phép lợi dụng quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của nhà nước và nhân dân. Nhà nước còn bảo hộ các quyền lợi chính đáng của Việt kiều và cho phép những người đấu tranh vì hòa bình, tự do, tiến bộ xã hội mà bị bức hại, trú ngụ.
Về nghĩa vụ, công dân Việt Nam có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật kỉ luật lao động, trật tự công cộng và những quy tắc sinh hoạt xã hội, tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng, có nghĩa vụ đóng thuế. Đặc biệt, bảo vệ Tổ quốc là “nghĩa vụ thiêng liêng và cao quý nhất của công dân nước Việt Nam DCCH”, do vậy, công dân có bổn phận làm nghĩa vụ quân sự để bảo vệ Tổ quốc (Điều 42).
Hiến pháp cũng quy định xây dựng một bộ máy nhà nước kiểu mới dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ theo pháp chế XHCN (được nêu trong chương IV đến chương VIII).
Cùng với việc ban hành Hiến pháp mới, Quốc hội cũng đã thông qua một số luật, trong đó có luật công đoàn, luật hôn nhân và gia đình.
Năm 1960, cách mạng trên cả hai miền Bắc - Nam của nước ta đang tiến lên mạnh mẽ và giành được những thắng lợi ngày càng to lớn. Quốc hội khóa I (6-1-1946) đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của Tổ quốc giao phó. Hoàn cảnh mới của cả hai miền đất nước đòi hỏi phải bầu Quốc hội khóa II theo quyết định của kì họp lần thứ 11 của Quốc hội khóa I (họp tháng 12-1959). Bầu cử Quốc hội là một cuộc vận động chính trị quan trọng nhằm phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng “nhà nước của dân, do dân và vì dân”, đẩy mạnh sụ nghiệp xây dựng miền Bắc theo con đường xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.
Ngày 8-5-1960 là một ngày hội lớn của nhân dân miền Bắc - ngày bầu cử Quốc hội khóa II, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hầu hết cử tri ở miền Bắc đã nô nức đi bầu cử. Tỉ lệ cử tri đi bỏ phiếu lên đến 97,59%. Trong số 455 người ứng cử, có 362 người trúng cử đại biểu Quốc hội khóa II. Ngoài 362 đại biểu trúng cử, Quốc hội khóa II còn có 91 đại biểu ở các tỉnh miền Nam (do nhân dân bầu trong khóa trước và được Quốc hội quyết định kéo dài nhiệm kì). Đó là hình ảnh của khối đại đoàn kết dân tộc rộng rãi, thống nhất Bắc - Nam ở cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, phản ánh đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân toàn quốc.
Theo Điều 46 của Hiến pháp (1959), kì họp đầu tiên của Quốc hội phải được triệu tập chậm nhất là hai tháng sau khi tuyển cử. Vì vậy, kì họp thứ nhất của Quốc hội khóa II đã được triệu tập tại Hà Nội (từ ngày 6 đến 15-7-1960). Quốc hội đã bầu những người đứng đầu các cơ quan cao nhất của nhà nước và thành lập Chính phủ mới. Chủ tịch nước VNDCCH là Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch nước là Tôn Đức Thắng, ủy ban thường vụ Quốc hội gồm 21 thành viên chính thức và 5 thành viên dự khuyết do Trường Chinh làm Chủ tịch.
Hội đồng chính phủ do Phạm Văn Đồng làm Thủ tướng, các Phó Thủ tướng là: Phạm Hùng, Võ Nguyên Giáp, Phan Kế Toại, Nguyễn Duy Trinh và Lê Thanh Nghị.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là Hoàng Quốc Việt, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là Phạm Văn Bạch.
Thành công của việc bầu cử Quốc hội khóa II - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và Quốc hội đã bầu những người đứng đầu nhà nước và chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, lập Chính phủ mới... là một bước tiến của việc củng cố và tăng cường bộ máy nhà nước ở Trung ương nhằm thực hiện nhiệm vụ quan trọng nhất của nhân dân, Quốc hội và Chính phủ ta là: phải ra sức phấn đấu để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới[8].
Giữa lúc kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế và văn hóa ở miền Bắc sắp hoàn thành và cách mạng ở miền Nam đã tiến một bước nhảy vọt, Đại hôi đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Hà Nội, từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960. Dự đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên của Đảng trong cả nước. Gần 20 đoàn đại biểu quốc tế đến dự Đại hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
Hồ Chí Minh đọc diễn văn khai mạc Đại hội. Người nêu khái quát nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam và nhấn mạnh: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà”[9].
Lê Duẩn đọc Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Lê Đức Thọ đọc Báo cáo về sửa đổi Điều lệ Đảng. Nguyễn Duy Trinh đọc Báo cáo về phương hướng và nhiệm vụ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua Báo cáo chính trị, phương hướng và nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Điều lệ sửa đổi của Đảng và bầu Ban chấp hành Trung ương mới của Đảng - gồm 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết.
Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng và Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất của Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội xác định nhiệm vụ của toàn thể nhân dân ta trong giai đoạn cách mạng lúc này là: tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.
Nhiệm vụ cách mạng XHCN ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự nghiệp cách mạng của cả nước. Còn cuộc cách mạng ở miền Nam có ý nghĩa quyết định trực tiếp để đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mĩ và tay sai, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước.
Cách mạng XHCN ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt, nhằm đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sản xuất cá thể về tư liệu sản xuất thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, từ nền kinh tế phân tán lạc hậu trở thành một nền kinh tế cân đối và hiện đại. Công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trọng tâm của thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là con đường tất yếu để cải biến nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu ở nước ta.
Thành công của Đại hội lần thứ III của Đảng là cơ sở cho “Toàn Đảng và toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối khổng lồ. Chúng ta sáng tạo. Chúng ta xây đựng. Chúng ta tiến lên”[10].