Tài liệu: Đấu tranh quân sự ngoại giao (1951-1954)

Tài liệu

Tóm tắt nội dung

Sau chiến dịch Biên giới, ta nhanh chóng chấn chỉnh đội ngũ, mở một loạt cuộc tiến công nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích
Đấu tranh quân sự ngoại giao (1951-1954)

Nội dung

Đấu tranh quân sự ngoại giao (1951-1954)

1. Đấu tranh trên mặt trận quân sự

Sau chiến dịch Biên giới, ta nhanh chóng chấn chỉnh đội ngũ, mở một loạt cuộc tiến công nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích, phá kế hoạch củng cố lực lượng và bình định đồng bằng của địch, giữ vững quyền chủ động chiến lược của ta trên chiến trường chính. Đó là các chiến dịch tiến công địch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ.

Chiến dịch Trần Hưng Đạo, tiến công địch ở tuyến trung du từ Việt Trì đến Bắc Giang. Mục đích của chiến dịch này nhằm tiêu diệt sinh lực địch mở rộng khu lương thực, phát triển chiến tranh du kích; tranh thủ thời gian, phá vỡ kế hoạch củng cố của địch, tạo điều kiện mới để tiêu diệt sinh lực địch nhiều hơn nữa. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp làm chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm có Đại đoàn 308 (có 3 trung đoàn), Đại đoàn 312 (có 2 trung đoàn), 2 trung đoàn độc lập của bộ (174 và 98), 4 tiểu đoàn bộ đội địa phương, 4 đại đội pháo binh 75 mm. Số dân công thường trực của chiến dịch là 27.658 người, dân công huy động từng đợt là 272.259 người; ta còn chuẩn bị được 4.960 tấn lương thực và 416 tấn đạn dược vũ khí.

Trung du là một tuyến phòng thủ chủ yếu của địch để bảo vệ vùng đồng bằng, nơi địch phòng thủ vững chắc và cũng là nơi chúng phát huy được sức cơ động của quân ứng chiến và ưu thế về phi pháo.

Chiến dịch đã diễn ra từ 25-12-1950 đến 17-1-1951 với mức độ vô cùng ác liệt.

Trải qua 23 ngày đêm chiến đấu, quân ta đã tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu 5000 địch, diệt 30 vị trí và 40 tháp canh, thu nhiều súng, phá hủy nhiều xe và các phương tiện kĩ thuật khác.( Song mục tiêu mở rộng khu lương thực và phát động chiến tranh du kích vẫn ở mức thấp, thế trận của địch chưa bị phá vở, kế hoạch củng cố của chúng chưa bị đảo lộn, lực lượng của ta bị thương vong nhiều.

Chiến dịch Hoàng Hoa Thám tiến công địch ở phòng tuyến đường số 18, thuộc khu vực từ Phả Lại đến Uống Bí, Mạo Khê.

Mục đích của chiến dịch là tiêu diệt sinh lực địch và phát triển chiến tranh du kích, coi tiêu diệt sinh lực địch là mục tiêu cơ bản và phát triển chiến tranh du kích là mục tiêu quan trọng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy chiến dịch. Lực lượng tham gia chiến dịch này có Đại đoàn 308, Đại đoàn 312, 2 trung đoàn độc lập (trung đoàn 98 và trung đoàn 174), 4 đại đội pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh và một số đơn vị thuộc lực lượng vũ trang địa phương. Lực lượng dân công phục vụ chiến dịch khoảng 57.000 người với 2280 tấn lương thực, 226 tấn đạn dược. Phương châm chiến dịch là “đánh điểm diệt viện”.

Chiến dịch được diễn ra từ ngày 29-3 đến ngày 5-4-1951. Kết thúc chiến dịch ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.900 tên địch, diệt và bức rút khoảng 130 vị trí và tháp canh, phá hủy 20 cầu cống, 36 xe cơ giới, thu nhiều súng và phương tiện chiến tranh... Song ta đã không hoàn thành nhiệm vụ thật đầy đủ và lực lượng bị tiêu hao nhiều.

Chiến dịch Quang Trung, tiến công địch ở vùng đồng bằng thuộc các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình nhằm mục đích: tiêu diệt thêm một bộ phận sinh lực địch, phá tan khối ngụy quân, thúc đẩy chiến tranh du kích phát triển, giành lấy kho người, kho của ở vùng đồng bằng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được cử làm chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đàng ủy mặt trận.

Lực lượng tham gia chiến dịch gồm Đại đoàn 308, Đại đoàn 304, Đại đoàn 320, 5 đại đội pháo binh, một số đơn vị công binh, trinh sát và lực lượng vũ trang địa phương. Ta đã huy động trên 100.000 dân công, 160 tấn lương thực cho chiến dịch. So với địch, lực lượng bộ binh ta hơn gấp đôi, song chúng có ưu thế tuyệt đối về cơ giới, máy bay, tàu chiến, điều kiện cơ động thuận lợi cho nên cuộc chiến đấu giữa ta và địch đã diễn ra rất quyết liệt từ 28-5 đến 20-6-1951.

Sau 24 ngày chiến đấu, ta đã diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hơn 4.000 địch, diệt và bức rút hơn 30 vị trí, phá hủy hơn 30 xe đội nước, thu hơn 1000 súng và nhiều phương tiện chiến tranh... giải phóng được một số xã, xây thêm khu căn cứ Bình Lục, Lí Nhân Hà Nam. Song lực lượng của ta cũng bị tổn thất nặng.

Trải qua 3 chiến dịch tiến công ở trung du và đồng bằng, ta đã tiêu diệt hơn một vạn tên địch, phá hủy nhiều vị trí và tháp canh, giải phóng một phần đất đai, tạo điều kiện để phát triển chiến tranh du kích ở một số địa phương. Song, nhìn chung cả ba chiến dịch trên đều không đạt được mục đích chiến lược và lực lượng của ta đã bị tổn thất không nhỏ. Điều đó nói lên rằng ta phạm sai lầm chủ quan trong việc phân tích đánh giá lực lượng so sánh giữa ta và địch ở các địa bàn này nên đã chọn hướng tiến công chiến lược chưa chính xác.

Hoạt động ở vùng sau lưng địch

Từ năm 1951 trở đi, thực dân Pháp đã đẩy mạnh chiến tranh tổng lực đánh phá dữ dội cơ sở kháng chiến, chớp của, bắt lính, chống lại chiến tranh du kích nên đã gây cho ta nhiều khó khăn. Các căn cứ du kích và khu du kích của ta ở đồng bằng bị đánh phá nặng nề, nhiều vùng bị chúng chiếm đóng trở lại. Hàng ngàn vị trí, tháp canh của địch được dựng lên khắp nơi. Chúng ráo riết thực hiện chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, dùng người Việt đánh người Việt”.

Nhằm phá tan âm mưu thâm độc của địch, đưa những hoạt động kháng chiến ở vùng sau lưng địch, nhất là chiến tranh du kích, vượt qua khó khăn để tiến lên, Hội nghị lần thứ hai của Ban chấp hành Trung ương Đảng (họp từ 27-9 đến 5-10-1951) đã xác định công tác vùng tạm bị chiếm và vùng du kích là một công tác quan trọng và đề ra nhiệm vụ, phương châm của công tác vùng sau lưng địch nhằm vận động quần chúng đấu tranh, vận động binh lính địch, thực hiện chiến tranh du kích. Vận động ngụy binh cũng là một nhiệm vụ chiến lược, chiến tranh du kích là nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định, thúc đẩy cuộc chiến tranh toàn diện của nhân dân ta ở vùng sau lưng địch. Nghị quyết của Hội nghị lần thứ hai của Ban chấp hành Trung ương có tác dụng chỉ đạo sư chuyển hướng mạnh mẽ công tác ở vùng sau lưng địch, đẩy mạnh đấu tranh kinh tế và chính trị, phối hợp giữa chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy.

Cuộc đấu tranh ở vùng tạm bị chiếm và vùng du kích đã mở ra một cục diện mới, cơ sở quần chúng được phục hồi và mở rộng.

Công tác vận động binh lính địch cũng được tăng cường. Nhiều cơ sở kinh tế và quân sự của địch bị ta đánh phá.

Chiến tranh du kích được đẩy mạnh và phối hợp ngày càng có hiệu quả với chiến tranh chính quy trên khắp toàn quốc.

Chiến dịch Hòa Bình - Hòa Bình là một trung tâm chính trị của đồng bào Mường, là cửa ngõ nối liền vùng tự do với vùng đồng bằng Bắc Bộ qua chợ Bến, là mạch máu giao thông giữa Việt Bắc với Liên khu IV. Nhân, vật lực từ vùng tự do Liên khu IV được chở qua đường số 6 để chi viện cho các chiến dịch lớn ở chiến trường miền Bắc.

Thực hiện kế hoạch chiến lược quân sự mới, tướng Đơ Lat chọn Hòa Bình làm điểm quyết chiến, hi vọng có thể ngăn chặn đường giao thông từ Bắc vào Nam, buộc chủ lực của ta phải tham chiến, qua đó giành một thắng lợi quân sự để ổn định tinh thần quận ngụy, lập lại “xứ Mường tự trị”.

Sau một thời gian củng cố thế phòng ngư, tăng cường lực lượng và đẩy mạnh bình định, ngày 9-11-1951, Đơ Lat đã sử dụng một lực lượng quân cơ động chiến lược (khoảng 20 tiểu đoàn bộ binh, 7 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn thiết giáp, 2 đại đội xe tăng và nhiều tàu thuyền cùng quân dù), mở cuộc hành quân đánh chiếm chợ Bến. Đến ngày 14-11-1951, chúng đánh chiếm Hòa Bình. Khu vực Hòa Bình - Sông Đà - đường số 6 trở thành hệ thống cứ điểm mạnh, tổ chức chiếm đóng có quy mô lớn của thực dân Pháp.

Cuộc tiến công quy mô lớn của quân đội Pháp lên Hòa Bình đã gây cho ta những khó khăn mới song cũng tạo ra cơ hội tốt để ta tiêu diệt địch.

Ngày 24-11-1951, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị về “Nhiệm vụ phá tan cuộc tiến công Hòa Bình của địch”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho cán bộ, bộ đội chủ lực và dân quân du kích tham gia chiến dịch Hòa Bình. Trong thư, Người nêu rõ: “Trước kia, ta phải lừa địch ra mà đánh. Nay địch tự ra cho ta đánh. Đó là cơ hội rất tốt cho ta. Muốn thắng thì ta phải tích cực, tự động, bí mật, mau chóng, kiên quyết, dẻo dai. Chắc thắng mới đánh”[1].

Nắm bắt cơ hội này, quân ta cho mở chiến dịch Hòa Bình. Hòa Bình là mặt trận chính diện và vùng sau lưng địch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ là mặt trận phối hợp nhằm mục đích tiêu diệt sinh lực địch ở chiến trường Hòa Bình, phá kế hoạch bình định của chúng ở đồng bằng Bắc Bộ, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích của ta.

Lực lượng tấn công địch ở mặt trận Hòa Bình gồm có các Đại đoàn 808, 312 và 804, lực lượng tấn công ở mặt trận phối hợp gồm Đại đoàn 320 và Đại đoàn 316. Ngoài ra còn có lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích cũng được điều động phối hợp.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp là chỉ huy trưởng chiến dịch.

Chiến dịch Hòa Bình được bắt đầu từ ngày 10-12-1951 và kết thúc vào ngày 25-2-1952.

Sau hơn hai tháng chiến đấu, quân ta đã diệt khoảng 22.000 tên địch trên cả hai mặt trận. Riêng mặt trận phối hợp vùng sau lưng địch, ta đã diệt 15.000 tên, tiêu diệt và bức hàng, bức rút hơn 1000 đồn bốt, tháp canh của địch. Ta đã giải phóng hoàn toàn khu vực Hòa Bình, sông Đà - rộng 2.000 km2 với 15 vạn dân. Các căn cứ du kích của ta được mở rộng và nối liền với nhau thành thế liên hoàn từ Bắc Giang, xuống Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, Hà Đông. Khoảng 2 triệu dân được giải phóng, kết quả bình định đồng bằng của địch trong năm 1951 bị phá vở phần lớn. Âm mưu phản công nhằm tiêu diệt bộ đội chủ lực ta và giành lại thế chủ động chiến lược trên chiến trường chính của địch bị thất bại.

Chiến thắng Hòa Bình có ý nghĩa chiến lược lớn về quân sự và chính trị. Ta đã đánh bại một kế hoạch chiến lược quân sự lớn của địch, đẩy địch lùi sâu vào thế phòng ngư bị động về chiến lược, giáng một đòn quan trọng vào chính sách bình định, càn quét ở vùng sau lưng địch và chính sách “dùng người Việt đánh người Việt”, “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của chúng.

Thắng lợi của chiến dịch Hòa Bình là thắng lợi điển hình về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược quân sự của Đảng và Bộ Tổng tư lệnh, về sự kết hợp tiến công địch trên cả hai hướng chiến lược (Hòa Bình và trung du, đồng bằng), kết hợp chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích trên một phạm vi rộng lớn ở chiến trường Bắc Bộ, kết hợp chiến đấu của 3 thứ quân, kết hợp tác chiến với dân vận, kết hợp giữa tiền tuyến với hậu phương. Thắng lợi của chiến dịch Hòa Bình là một thử thách và là trường học rèn luyện, nâng cao trình độ chiến thuật, kĩ thuật, về khả năng chiến đấu dài ngày, liên tục trên hai mặt trận rộng lớn và phức tạp của quân đội ta.

Chiến dịch Hòa Bình đã tạo ra một cơ hội cho các chiến trường Bình-Trị-Thiên, Nam Trung Bộ và Nam Bộ đẩy mạnh chiến tranh du kích, liên tục tiến công, tiêu diệt sinh lực địch, phát triển lực lượng kháng chiến, mở rộng thêm nhiều vùng căn cứ, làm cho cục diện các chiến trường thay đổi ngày càng có lợi cho ta, tạo đà tiến lên mạnh mẽ hơn nữa.

Rút kinh nghiệm qua các chiến dịch tiến công của tạ kể từ sau chiến dịch Biên giới. Phân tích tình hình các chiến trường, đánh giá khách quan hơn về tương quan lực lượng giữa ta và địch, Đảng và Bộ Tổng chỉ huy quân đội ta đã nhận định phương hướng tiến công chiến lược có lợi cho ta lúc này là chiến trường rừng núi. Vì vậy, tháng 9-1952, Trung ương Đảng chủ trương: tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, tìm nơi sơ hở của địch mà đánh và hướng tiến công chiến dịch là Tây Bắc.

Tây Bắc là một vùng chiến lược quan trọng và là nơi hiểm yếu. Ở đây, địch có thể uy hiếp căn cứ Việt Bắc, che chở cho Thượng Lào. Song lực lượng của địch ở đây yếu và sơ hở, chúng chỉ có 8 tiểu đoàn và 43 đại đội, phần lớn là quân ngụy với 11 khẩu pháo.

Lực lượng của ta tham gia chiến dịch này có Đại đoàn 308, Đại đoàn 312, Đại đoàn 316, Tiểu đoàn 910, 6 đại đội sơn pháo 75 li (24 khẩu), 3 đại đội súng cối 120 li, đại đoàn công pháo 351 và 11 đại đội bộ đội địa phương của các tỉnh Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai.

Lực lượng vật chất phục vụ chiến dịch là 9.360 tấn gạo, 164 tấn muối, 195 tấn thịt, 71 tấn thực phẩm khác, 33 tấn đạn, 194.400 dân công với khoảng 7 triệu ngày công.

Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ nhân dân, giải phóng đất đai, nhiệm vụ chính là tiêu diệt sinh lực địch.

Đây là một chiến dịch rất quan trọng. Vì vậy, Hồ Chí Minh chỉ thị cho cán bộ và chiến sĩ tham gia chiến dịch Tây Bắc “phải đánh cho thắng”. Chiến dịch được bắt đầu từ ngày 14-10-1952 và kết thúc ngày 10-12-1952.

Ở mặt trận Tây Bắc, quân ta đã tiêu diệt, làm bị thương và bắt sống 6.000 tên địch. Âm mưu củng cố xứ Thái, xứ Nùng tự trị của Pháp bị thất bại hoàn toàn. Tỉnh Sơn La (trừ Nà Sản), 4 huyện phía nam Lai Châu, 2 huyện phía tây Yên Bái - một vùng rộng 28.000 km2, chiếm 8/10 đất đai Tây Bắc với 25 vạn dân được giải phóng, nối liền với căn cứ địa Việt Bắc.

Thế uy hiếp của địch với Việt Bắc từ phía tây và uy hiếp Thượng Lào từ phía đông bị phá vỡ.

Với chiến thắng Tây Bắc, quyền chủ động tiến công về chiến lược của ta tiếp tục được giữ vững và mở rộng. Lực lượng vũ trang của ta càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm chiến đấu, bước đầu làm quen với cách tấn công vào hệ thống cứ điểm mạnh của địch.

Chiến thắng Tây Bắc đã khẳng định sự lựa chọn phương hướng chiến lược của Đảng và Bộ Tổng chỉ huy quân đội ta lúc bấy giờ là đúng đắn.

Chiến thắng Tây Bắc của ta càng đẩy địch vào thế bị động, thế thua. Đối với các nhà chỉ huy quân đội xâm lược Pháp ở Đông Dương thì tiếng súng Tây Bắc báo hiệu một mùa đông đáng lo ngại nữa cho Pháp, mùa đông thứ tám của cuộc chiến tranh ngày càng gợi ra những hình ảnh lo âu thất vọng”[2].

Cùng với chiến dịch Tây Bắc thu đông 1952, tại chiến trường đồng bằng Bắc Bộ, Bình-Trị-Thiên, Nam Trung Bộ và Nam Bộ, ta đã tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh địch khắp nơi, tiêu diệt sinh lực địch và giành thêm nhiều vùng đất đai.

Trong không khí chiến thắng trên chiến trường cả nước, cuối tháng 1-1953, Hội nghị lần thứ IV của Ban chấp hành Trung ương đã họp và nhận định: “Địch đã thất bại to lớn ở chiến dịch Hòa Bình đầu năm 1952 và chiến dịch Tây Bắc cuối năm 1952. Bộ đội ta tiến bộ nhiều về tinh thần, về chiến thuật cũng như kĩ thuật, trình độ tác chiến ngày một nâng cao ở cả địa hình đồng bằng, trung du và miền núi”. Phương châm tác chiến của ta là “tạm thời tránh chỗ mạnh, đánh địch ở những nơi địch sơ hở, đồng thời phải hoạt động ở sau lưng địch”.

Ngày 2-2-1953, Tổng quân ủy đã thông qua phương hướng mở chiến dịch xuân - hè 1953.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai, Đông Dương là một chiến trường. Nhân dân và quân đội cách mạng cả 3 nước Việt, Miên, Lào cùng phối hợp và liên minh chống kẻ thù chung là thực dân xâm lược Pháp.

Quá trình tiến triển của cuộc kháng chiến là quá trình phối hợp liên minh chiến đấu ngày càng cao của quân và dân cả 3 nước, của sự giúp đỡ ngày càng to lớn và có hiệu quả của quân và dân Việt Nam đối với Lào và Miên.

Sau chiến thắng Tây Bắc, Việt Nam có thêm điều kiện để phối hợp tốt hơn với chính phủ và quân đội kháng chiến Lào.

Mùa xuân năm 1958, Trung ương Đảng, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã cùng Chính phủ kháng chiến và Mặt trận Itxala quyết định đưa quân đội Việt Nam sang phối hợp với quân giải phóng Pathét Lào mở chiến dịch Thượng Lào, tiến công Sầm Nưa.

Mục đích chiến dịch nhằm: tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một phần đất đai, xây dựng và mở rộng khu căn cứ du kích, tạo lập hậu phương kháng chiến, thúc đẩy cuộc kháng chiến của Lào, phá thế bố trí chiến lược của địch ở Bắc Đông Dương.

Thượng Lào là một vùng chiến lược quan trọng, là hậu phương an toàn của địch. Sau thất bại ở Tây Bắc Việt Nam, địch đã tăng cường phòng thủ ở Thượng Lào, xây dựng Sầm Nưa thành một tập đoàn cứ điểm có 3 tiểu đoàn chiếm giữ. Lực lượng của ta tham gia chiến dịch gồm có Đại đoàn 308, Đại đoàn 316, Đại đoàn 312, Đại đoàn 304 và Trung đoàn 148. Ngoài ra, còn có 7 đại đội pháo binh, 2 tiểu đoàn súng phòng không 12,7 li, 1 tiểu đoàn thông tin. Một số đơn vị quân giải phóng Pathét Lào đóng quân ở địa bàn Sầm Nưa đã phối hợp cùng chiến đấu.

Mở chiến dịch Thượng Lào là thực hiện một nghĩa vụ quốc tế quan trọng và vẻ vang của quân dân Việt Nam đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Lào. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ: “Giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”. Người chỉ thị cho cán bộ và chiến sĩ của ta phải “nêu cao tinh thần quốc tế, tôn trọng chủ quyền, tôn trọng phong tục tập quán, yêu nhân dân nước bạn, tuyệt đối giữ gìn kỉ luật, giữ gìn danh tiếng của Quân đội nhân dân Việt Nam”[3].

Theo kế hoạch tác chiến, hướng chính của chiến dịch là Sầm Nưa, hướng phối hợp ở phía bắc là lưu vực sông Nậm Hu, ở phía nam là Xiêng Khoảng.

Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp và Hoàng thân Chủ tịch Xuphanuvông đi chiến dịch ở hướng chủ yếu.

Ngày 9-4-1958, các đơn vị tham gia chiến dịch được lệnh vượt biên giới đến vị trí tập kết.

Ngày 12-4-1953, phát hiện các đơn vị đi đầu của quân đội ta cách Sầm Nưa gần một ngày đường hành quân, tướng Xalăng đã vội ra lệnh cho toàn bộ quân địch bỏ thị xã rút chạy.

Tình huống chiến dịch đã thay đổi. Từ phương án vận động bôn tập từ xa đến bao vây, đánh địch trong công sự vững chắc, bộ đội ta đã thích ứng với tình huống mới, thực hiện phương án vận động truy kích tiêu diệt địch từ ngày 18-4-1953.

Cuộc vận động truy kích tiêu diệt địch của quân đội ta ở hướng chính và cuộc tiến công của các cánh quân phối hợp ở hướng Bắc và hướng Nam đã giành được thắng lợi.

Ngày 18-5-1953, chiến dịch Thượng Lào kết thúc. Quân ta đã diệt, bắt sống và làm tan rã gần 2800 lính và sĩ quan của địch (bằng 1/5 tổng số lực lượng của chúng ở Lào), giải phóng một vùng đất rộng 4.000 km2 gồm toàn tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phongxali (chiếm khoảng 1/5 diện tích Bắc Lào) và hàng chục vạn dân.

Lực lượng kháng chiến Lào còn có một địa bàn đóng quân rộng lớn và vững chắc nối thông với hậu phương chiến lược của Việt Nam, thế phối hợp chiến lược cách mạng và kháng chiến của Việt - Lào thêm vững chắc và thuận lợi.

Thắng lợi của chiến dịch Thượng Lào càng củng cố vững chắc thêm quyền chủ động chiến lược tiến công của quân và dân ta, không chỉ trên chiến trường Bắc Bộ mà đã mở rộng trên toàn chiến trường miền Bắc Đông Dương.

Cục diện chiến tranh ở Việt Nam và trên toàn cõi Đông Dương đã chuyển biến mạnh mẽ, có lợi hơn cho quân và dân Việt Nam, Lào và Campuchia, bất lợi cho thực dân Pháp và can thiệp Mĩ.

Lực lượng kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã lớn mạnh toàn diện và vượt bậc.

Chế độ dân chủ cộng hòa Việt Nam được củng cố và lớn mạnh. Hậu phương kháng chiến được tăng cường về mọi mặt. Khối đoàn kết toàn dân được củng cố. Chính quyền được kiện toàn. Các chính sách kinh tế, tài chính của Đảng và Chính phủ được thực hiện từ năm 1951 đã đạt kết quả tốt. Đặc biệt, lực lượng vũ trang 3 thứ quân đã lớn mạnh vượt bậc về cả số lượng và chất lượng, nhất là khối cơ động chiến lược gồm 7 đại đoàn và nhiều trung đoàn chủ lực đã trưởng thành trong đánh vận động, đánh công kiên và trong nghệ thuật tiến công chiến dịch. Đánh giá sự lớn mạnh của Việt Nam, tướng Nava nhận xét rằng: “Việt Minh là một quốc gia rõ rệt. Họ có chính quyền, ảnh hưởng của họ lan vào cả vùng kiểm soát của quân đội viễn chinh. Tại đó họ tuyển được người, thu được thuế, thực hiện được các chính sách, mua được các thứ cần thiết cho chiến tranh. Từ năm 1945 đến nay họ chỉ có một Chính phủ Hồ Chí Minh, chỉ có một tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, trong khi nước Pháp đã 19 lần thay đổi chính phủ và 7 lần thay đổi chỉ huy... Họ làm việc bí mật, dân chúng ủng hộ họ, không hở ra một tí gì cho phòng nhì cả. Quan chủ lực của Việt Minh rất gan dạ, rất cơ động và đặc biệt có đức tính “hòa tan” trong nhân dân lúc cần, để rồi bất thần tập hợp lại chủ động mở những chiến dịch quy mô lớn”[4].

Điều kiện để giành thắng lợi lớn, thắng lợi có tính quyết định của kháng chiến càng tăng lên rõ rệt.

Ngược lại, càng ngoan cố kéo dài chiến tranh xâm lược, thực dân Pháp càng gặp khó khăn lớn, càng bị thất bại nặng nề và phụ thuộc vào đế quốc Mĩ. Mĩ ngày càng trực tiếp tham gia điều khiển cuộc chiến tranh ở Đông Dương, nắm lấy ngụy quân, ngụy quyền, từng bước gạt thực dân Pháp.

Cuộc tiến công chiến lược đông xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao là trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ.

Vào mùa hè 1953, Chính phủ Pháp triệu hồi tướng Xalăng về nước và cử Nava sang làm chỉ huy các lực lượng quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương.

Nava đã vạch ra một kế hoạch chiến lược, hi vọng trong vòng 18 tháng phải giành được một thắng lợi quyết định về quân sự để làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có “danh dự” cho Pháp.

Kế hoạch quân sự Nava đại thể gồm hai bước:

Bước thứ nhất - giữ thế phòng ngự chiến lược ở miền Bắc và tiến công bình định ở miền Nam, miền Trung Đông Dương, xóa bỏ vùng tự do Liên khu V.

Bước thứ hai - thực hiện chiến lược tiến công ở miền Bắc, giành thắng lợi quân sự, buộc ta phải đàm phán theo những điều kiện có lợi cho chúng.

Để thực hiện kế hoạch đó, Nava đã ra sức bắt lính để mở rộng ngụy quân, rút các lực lượng lính Âu Phi tinh nhuệ của chúng ở một số vị trí về tập trung lại, đồng thời xin tăng viện binh để xây dựng một lực lượng cơ động mạnh, nhằm quyết chiến với quân chủ lực của ta.

Bước vào thu - đông 1953, Nava đã tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ một lực lượng cơ động khá mạnh, gồm 44 tiểu đoàn tăng tổng số 84 tiểu đoàn quân cơ động của chúng trên toàn chiến trường Đông Dương.

Kế hoạch quân sự Nava là một kế hoạch dựa trên sự nỗ lực cao nhất của Chính phủ Pháp và sự viện trợ lớn nhất của Mĩ, với một số quân đông nhất, một khối quân cơ động chiến lược mạnh nhất và một số phương tiện chiến tranh nhiều nhất, một kế hoạch tiến công với quyết tâm “chuyển bại thành thắng” của chúng. Chính phủ Pháp đặt nhiều hi vọng vào kế hoạch tác chiến chiến lược này, như Thủ tướng Lanien (Laniel) đã nói: “Kế hoạch Nava chẳng những được Chính phủ Pháp mà cả những người bạn Mĩ cũng tán thành. Nó cho phép kì vọng đủ mọi điều”[5].

Từ hè thu 1953, Nava đã liên tiếp mở những cuộc hành quân càn quét dữ dội trong các vùng chúng chiếm đóng ở Bắc Bộ, Bình-Trị-Thiên, Nam Bộ. Chúng cho quần nhảy dù xuống hậu phương của ta, tập kích Lạng Sơn (7-1953), rút lực lượng ở Nà Sân (8-1958) vế tập trung ô đồng bằng Bắc Bộ.

Trước tình hình mới, cuối tháng 9-1958, tại căn cứ địa Việt Bắc, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng họp bàn kế hoạch quân sự đông-xuân 1953-1954. Bộ Chính trị đã quyết định: sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tấn công vào những hướng địch sơ hở, đồng thời tranh thủ cơ hội tiêu diệt địch trong vận động ở những hướng địch có thể đánh sau vào vùng tự do của ta, trong lúc đó đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch và tích cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích các vùng tự do để cho chủ lực rảnh tay làm nhiệm vụ.

Bộ Chính trị đã nhấn mạnh phương châm: “tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt” Và nhấn mạnh các nguyên tắc chỉ đạo chiến lược và chỉ đạo tác chiến là: tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, đánh ăn chắc, đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt, chọn nơi địch sơ hở và nơi tương đối yếu mà đánh, giữ vững chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng.

Công tác chuẩn bị để thực hiện kế hoạch tác chiến được triển khai rất khẩn trương. Hội đồng cung cấp tiền phương được thành lập để chỉ đạo việc huy động sức người, sức của tổ chức chuyển vận ra mặt trận. Hàng chục vạn dân công được điều động vào việc chuẩn bị vận tải cho các chiến trường. Các tuyến đường đã được sửa chữa.

Trong khi quân và dân ta đang chuẩn bị triển khai kế hoạch thì ngày 15-10-1953, Nava sử dụng 6 binh đoàn mở cuộc hành quân Hải Âu (Mouette) đánh ra tây-nam Ninh Bình, hoạt động nghi binh ở vùng biển Thanh Hóa. Đại đoàn 320 cùng với lực lượng vũ trang địa phương tổ chức chiến dịch phản công, làm cho địch bị tổn thất nặng nề buộc chúng phải rút quân (6-11-1953).

Theo kế hoạch tác chiến đã định ngày 15-11-1953, một bộ phận chủ lực của ta bắt đầu tiến quân lên Tây Bắc. Một bộ phận khác lên đường ngày 20-11-1953, sang chiến đấu ở mặt trận Trung Lào. Các bộ phận khác tiếp tục triển khai theo thế trận đã định.

Phát hiện quân ta tiến lên Tây Bắc, Nava quyết định điều một lực lượng lên Tây Bắc và một bộ phận khác đến Trung Lào.

Ngày 20-11-1953, Nava đã cho thực hiện cuộc hành binh Hải Li (Castor) đưa 6 tiểu đoàn quân dù đánh chiếm Điện Biên Phủ, vừa để yểm trợ cho Lai Châu, vừa để bảo vệ Thượng Lào.

Ngày 3-12-1953, Nava tăng cường thêm 3 tiểu đoàn bộ binh và 3 tiểu đoàn pháo binh để xây dựng Điện Biên Phủ thành một cứ điểm. Đấy là một điểm bổ sung ngoài dự kiến ban đầu của Nava.

Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị thông qua phương án mở chiến dịch Điện Biên Phủ của Tổng quân ủy. Võ Nguyên Giáp được chỉ định trực tiếp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch. Như vậy, địch và ta đều đã chấp nhận giao chiến ở Điện Biên Phủ - một trận quyết chiến lịch sử.

Để tiến tới trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, quân đội ta lần lượt thực hiện các đòn tiến công chiến lược trên các chiến trường Đông Dương.

Tiến công địch ở Lai Châu. Ngày 10-12-1953, quân của Đại đoàn 316 bắt đầu nổ súng tiến công địch ở Lai Châu. Trải qua 12 ngày đêm liên tục chiến đấu, truy kích, bao vây, tập kích địch trên miền rừng núi hiểm trở, Đại đoàn 316 đã tiêu diệt và bức hàng 24 đại đội địch, giải phóng toàn bộ khu vực Lai Châu, uy hiếp Điện Biên Phủ từ phía bắc. Bị động đối phó, Nava quyết định tầng cường cho Điện Biên Phủ 3 tiểu đoàn bộ binh, 1 đại đội xe tăng nhẹ, đưa lực lượng ở đây lên 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, 2 tiểu đoàn và 3 đại đội pháo, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội vận tải với tổng số quân 12.000 người. Như vậy ngoài đồng bằng Bắc Bộ, Điện Biên Phủ trở thành nơi tập trung binh lực thứ hai của địch.

Tiến công địch ở Trung Lào, có trung đoàn 66 thuộc Đại đoàn 304, trung đoàn 101 và tiểu đoàn 274 của trung đoàn 18 thuộc Đại đoàn 325 cùng một số đơn vị quân tình nguyện của Liên khu IV và Liên khu V đã sang hoạt động phối hợp với quân nước bạn từ trước. Ngày 21-12-1953, quân ta nổ súng mở đầu trận tiến công địch, giải phóng Thà Khẹt và nhiều vùng quan trọng ở Trung Lào, uy hiếp Xavanakhẹt và Xênô. Địch vội điều động lực lượng từ đồng bằng Bắc Bộ và các chiến trường khác đến cứu nguy, tổ chức Xênô thành một tập đoàn cứ điểm mới. Xênô trở thành nơi tập trung binh lực thứ ba của địch.

Tiến công địch ở Hạ Lào và Đông Campuchia. Sau chiến thắng ở Trung Lào, bộ đội Việt-Lào tiếp tục tiến công xuống Hạ Lào, giải phóng thị xã Atôpơ và toàn bộ cao nguyên Bôlôven.

Thừa thắng, quân ta tiến công giải phóng một khu vực rộng ở Tây Bắc Campuchia, nối liền khu căn cứ Hạ Lào.

Tiến công địch ở mặt trận Tây Nguyên. Ở Liên khu V, ngày 20-1-1954, địch mở chiến dịch Atlăng đánh vào Tuy Hòa, Phú Yên nhằm chiếm vùng tự do của ta. Quân ta sử dụng một bộ phận nhỏ bộ đội chủ lực cùng bộ đội địa phương đánh tiêu hao ngăn chặn địch, bảo vệ hậu phương. Còn đại bộ phận lực lượng chủ lực của liên khu gồm Trung đoàn 108, 803 và hai tiểu đoàn chủ lực độc lập  cùng với bộ đội địa phương theo kế hoạch đã bất ngờ tiến công ở bắc Tây Nguyên. Chiến dịch bắt đầu từ 26-1-1954. Ngày 5-2-1954, ta đã giải phóng thị xã Kontum, uy hiếp thị xã Plâycu. Quân Pháp đã ngừng cuộc tiến công ở đồng bằng Liên khu V, vội điều động quân lên tăng cường cho Tây Nguyên, tổ chức 2 tập đoàn cứ điểm ở An Khê và Plâycu để đối phó với quân ta, biến nơi đây thành điểm tập trung binh lực thứ tư của địch. Cùng với những cuộc tiến công địch ở các mặt trận Lai Châu, Trung-Hạ Lào, Tây Nguyên, quân và dân ta đã tích cực chuẩn bị chiến dịch Điện Biên Phủ (mang mật danh chiến dịch Trần Đình). Đại tướng Võ Nguyên Giáp là Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch.

Căn cứ vào tình hình địch và ta, trước mắt chúng ta chuẩn bị đánh Điện Biên Phủ theo phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh”. Trong khi ta gấp rút chuẩn bị thì Nava cũng ráo riết củng cố Điện Biên Phủ thành một “pháo đài khổng lồ không thể phá vỡ được . Theo dõi tình hình địch đang liên tiếp tăng cường lực lượng, xây dựng trận địa, tổ chức hệ thống phòng ngự kiên cố, nên đánh theo phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” sẽ không chắc thắng. Vì vậy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định chuyển sang đánh theo phương châm “đánh chắc, tiến chắc”. Quyết định đó đã được Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị phê chuẩn.

Ngày 25-1-1954, Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh kéo pháo ra khỏi trận địa, tích cực chuẩn bị, bố trí thế trận theo phương châm mới.

Để tiếp tục công việc chuẩn bị, cô lập hơn nữa tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và đánh lạc hướng phán đoán cửa địch, ngày 26-1-1954 Đại đoàn 308 được lệnh gấp rút hành quân sang phối hợp với quân giải phóng Lào tiến công quân địch ở phòng tuyến sông Nậm Hu, Thượng Lào, giải phóng Nậm Hu và toàn bộ tỉnh Phongxalì, bao vây địch ở Mường Sài. Nava vội vàng điều 5 tiểu đoàn tăng cường cho Luông Phabang và 3 tiểu đoàn cho Mường Sài. Luông Phabang và Mường Sài trở thành nơi tập trung binh lực thứ năm của quân Pháp.

Phối hợp với 5 đòn tiến công chiến lược trên của quân chủ lực ta trên các hướng chiến lược trọng yếu, ở các chiến trường sau lưng địch, quân và dân ta đã nắm vững thời cơ thuận lợi, đẩy mạnh tác chiến, tiêu diệt và tiêu hao nhiều sinh lực địch, mở rộng căn cứ du kích.

Ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ, quân ta đã đẩy mạnh tiến công địch ở cả tuyến ngoài và tuyến sau lưng địch, diệt và bức rút nhiều vị trí địch, trong đó có các vị trí quan trọng như phân khu Cầu Lồ (Bắc Giang), Diêm Điền và Cao Mại (Thái Bình), Kinh Môn (Hải Dương), Phù Lưu Tế (Hà Đông), Ao Khoang, Suối Me (Sơn Tây).

Đường số 5 bị cắt đứt thường xuyên. Sân bay Cát Bi (Hải Phòng) và Gia Lâm (Hà Nội) bị quân ta tiến công phá hủy 78 máy bay của địch.

Chiến tranh du kích phát triển mạnh ở vùng châu thổ sông Hồng.

Vùng căn cứ du kích và khu du kích được mở rộng trên một diện tích đất đai rộng lớn vùng sau lưng địch.

Ở Bình-Trị-Thiên và Nam Trung Bộ, quân và dân ta cũng đẩy mạnh hoạt động phối hợp với các chiến trường.

Trên đường số 9 (Quảng Trị), quân ta đánh mạnh, diệt và buộc địch rút khỏi nhiều vị trí (Đầu Mầu, Tân Lâm, Rào Quán, Khe Sanh). Huyện Hương Hóa và một phần huyện Cam Lộ được giải phóng.

Nhiều cầu cống trên đường số 1 và đường số 9 bị phá, nhiều đoàn ô tô vận tải và tàu quân sự của địch bị lật đổ.

Nhiều trận đánh địa lôi diễn ra ở Lăng Cô, Hương Thủy, Phú Ốc (Thừa Thiên).

Bộ đội địa phương ở Quảng Nam, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận diệt nhiều cứ điểm địch. Vùng Điện Bàn (Quảng Nam), vùng Hòn Khoai, huyện Lương Sơn và Tánh Linh (Bình Thuận) được giải phóng.

Ở Nam Bộ, quân và dân ta nắm vững phương châm hoạt động đánh nhỏ ăn chắc, kết hợp với việc phát động quần chúng nổi dậy phá tề, trừ gian, đã diệt nhiều sinh lực địch, phá hủy nhiều đoàn xe, tàu chiến của địch, cắt đứt nhiều đường giao thông. Sân bay Tân Sơn Nhất bị tập kích làm nổ hàng trăm tấn bom, một khách sạn ở Vũng Tàu bị đánh làm thiệt mạng nhiều sĩ quan địch. Hơn 1.000 đồn trại, tháp canh địch bị điện và bức rút. Hàng ngàn địch bỏ ngũ.

Nắm vững chủ trương chiến lược và phương châm tác chiến “tích cực, chủ động, cơ động linh hoạt”, trên khắp các chiến trường quân và dân ta đã liên tục tiến công bằng các đòn chiến lược lớn, kết hợp chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích, kết hợp đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ đã diệt được nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn và phân tán, kiềm chế lực lượng cơ động chiến lược của Nava. Lực lượng cơ động chiến lược của Nava ở đồng bằng chỉ còn khoảng 20 tiểu đoàn.

Hình thái chiến trường trên các mặt trận mùa đông 1953 – mùa xuân 1954

Các đợt tấn công mạnh mẽ và rộng khắp trong thời kì đông - xuân 1958 - 1954 đã làm cho kế hoạch Nava bước đầu bị phá sản và tạo điều kiện rất thuận lợi cho mặt trận Điện Biên Phủ.

Trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ (từ 13 - 3 đến 7 - 5 – 1954)

Nava đã tập trung mọi cố gắng để xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Tổng số binh lực ở tập đoàn này vào lúc cao nhất là 16.200 người, gồm có 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội tăng M24, 1 đại đội vận tải, 1 phi đội 12 máy bay thường trực được bố trí thành 3 phân khu, 49 cứ điểm tổ chức thành các cụm cứ điểm đề kháng có khả năng phòng ngự mạnh. Các tướng lĩnh, chính khách Pháp[6] đã đến tận nơi để kiểm tra đều thống nhất đánh giá tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là một “pháo đài khổng lồ không thể công phát”.

Lực lượng quân đội ta tham gia chiến dịch gồm có 4 đại đoàn bộ binh (308, 316, 312, 304), 1 đại đoàn công pháo 351, các tiểu đoàn công binh, các đơn vị thông tin, vận tải, quân y.,. Tổng số quân khoảng 55.000 người, Dân công hỏa tuyến gồm 260.000 người với trên 11 triệu ngày công. Phương tiện vận chuyển gồm 628 ôtô, 11.800 thuyền, hơn 20 ngàn xe đạp thồ và hàng ngàn phương tiện vận chuyển thô sơ khác.

Hàng chục ngàn tấn vũ khí đạn dược, 27.000 tấn gạo, hơn 1.800 tấn thịt đã được chuyển ra mặt trận. Riêng đồng bào các dân tộc ở Tây Bắc đã đóng góp được 7.310 tấn gạo, 389 tấn thịt và 31.818 dân công với 1.296.075 ngày công.

Cả hậu phương đã dốc sức người, sức của và tinh thần cho chiến dịch Điện Biên Phủ.

Trong khi quân và dân ta đã hoàn tất việc chuẩn bị và sẵn sàng nổ súng thì quân Pháp vẫn chủ quan thiển cận cho rằng quân ta không còn khả năng tiến công nữa nên đã ra lệnh mở cuộc hành quân Atlăng (Atlante) đánh vào vùng tự do Liên khu V nhưng bị thất bại nặng nề.

Giữa lúc đó, ngày 13-3-1954, quân ta được lệnh nổ súng tấn công vào tập đoàn Điện Biên Phủ. Chiến dịch đã bắt đầu.

Ngày 15-3-1954, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện khen ngợi động viên cán bộ, chiến sĩ mặt trận. Bức điện nhấn mạnh: “Chiến dịch này là một chiến dịch lịch sử của quân đội ta, ta đánh thắng chiến dịch này có ý nghĩa quân sự và chính trị quan trọng”

Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến dịch đánh công kiên có tính chất trận địa, quy rất lớn, gồm một loạt trận chiến đấu công kiên, tiếp diễn trong thời gian khá dài, tập trung ưu thế binh lực tiêu diệt địch từng bộ phận, tiến tới tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm.

Chiến dịch Điện Biên Phủ được diễn ra thành 3 đợt: đợt 1, bắt đầu từ 13-3, đợt 2, bắt đầu ngày 30-3, đợt 3, bát đầu từ ngày 1-5 và đến ngày 7-5-1954 thì kết thúc.

Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ - một “pháo đài khổng lồ không thể công phá” của quân đội thực dân Pháp, đã bị tiêu diệt. Tướng Đờ Caxtơri và toàn bộ Bộ tham mưu của tập đoàn cứ điểm đã đầu hàng. Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng đã tung bay trên nóc hầm chỉ huy địch. Ở các cứ điểm còn lại xung quanh, binh lính và sĩ quan của địch lũ lượt giương cờ trắng ra hàng.

Trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ đã toàn thắng.

Cờ chiến thắng trên nóc hầm Đờ Caxtơri (Ảnh của VNTTX)

Các chiến trường trên toàn quốc đã phối hợp chặt chẽ, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, kìm chân địch và giải phóng thêm nhiều vùng đất đai của Tổ quốc.

Ở Điện Biên Phủ, tổng số quân địch bị diệt và bị bắt sống là 16.200 tên, gồm 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 3 tiểu đoàn pháo binh, súng cối, 10 đại đội ngụy và các đơn vị công binh, xe tăng, xe vận tải, không quân. Tổng số sĩ quan, hạ si quan bị diệt và bị bắt sống là 1.766 tên, trong đó có thiếu tướng Đờ Caxtơri (De Castries), 10 đại tá và trung tá, 353 sĩ quan (từ thiếu úy đến trung tá), 57 máy bay bị bắn rơi và phá hủy tại mặt trận. Quân ta thu toàn bộ vũ khí, kho tàng, cơ sở vật chất kĩ thuật của chúng ở Điện Biên Phủ.

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc oanh liệt cuộc tiến công chiến lược đông xuân 1953-1954 của quân và dân Việt Nam, đánh bại kế hoạch quân sự Nava, làm sụp đổ niềm hi vọng của các giới quân sự và chính trị ở Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo cơ sở cho cuộc đấu tranh ngoại giao thắng lợi ở Giơnevơ (Genève).

Chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ “đã được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa ở thế kỉ XX, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”[7].

Chiến thắng Điện Biên Phù là tiếng chuông báo tử của chủ nghĩa thực dân”, là niềm hi vọng lớn lao và tươi sáng, ngọn cờ cổ vũ các dân tộc thuộc địa trên thế giới đứng lên đấu tranh mạnh mẽ để thủ tiêu chế độ thực dân, giành lại quyền độc lập, tự do và nhân phầm.

2. Đấu tranh trên mặt trận ngoại giao

Phối hợp với cuộc tiến công chiến lược đông - xuân 1958 - 1954, Đảng, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã mở cuộc tấn công trên mặt trận ngoại giao.

Trải qua gần 9 năm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa, nước Pháp đã bị những thiệt hại nặng nề về người và của. Càng mở rộng và kéo dài cuộc chiến tranh, thất bại càng lớn, nội bộ chính giới Pháp càng phân hóa đưa đến hình thành phái chủ hòa và phái chủ chiến.

Tháng 7-1953, Hiệp định đình chiến ở Triều Tiên được kí kết đã gây thúc đẩy xu thế giải quyết các cuộc xung đột trên thế giới bằng con đường đàm phán ngoại giao. Cuộc đấu tranh giữa phái chủ chiến và phái chủ hòa ở Pháp về vấn đề chiến tranh ở Đông Dương ngày càng gay gắt. Nhân dân Pháp đấu tranh mạnh mẽ hơn đòi Chính phủ Pháp phải chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược ở Đông Dương.

Diên biến chiến dịch Điện Biên Phủ

Trung Quốc và Liên Xô cũng chủ trương sớm đi tới một giải pháp hòa bình cho vấn đề Đông Dương theo kiểu đình chiến ở Triều Tiên.

Ban Thường trực Hội đồng hòa bình thế giới cũng thông qua Nghị quyết (10-9-1953), kêu gọi nhân dân các nước đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh, giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương.

Đại hội công đoàn thế giới lần thứ ba họp ở Viên (Áo) tháng 10-1953 cũng quyết định lấy ngày 19-12-1953 làm ngày lao động thế giới đoàn kết tích cực với nhân dân Việt Nam, đòi chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.

Trong bối cảnh đó, phối hợp với cuộc tiến công chiến lược đông – xuân 1953-1954, Đảng và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã mở cuộc tấn công trên mặt trận ngoại giao.

Ngày 26-11-1953, trả lời phỏng vấn báo Expressen của Thụy Điển về vấn đề chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, Hồ Chí Minh nói:

“Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là do Chính phủ Pháp gây ra. Nhân dân Việt Nam phải cầm vũ khí anh dũng chiến đấu bảy, tám năm nay chống kẻ xâm lược chính để bảo vệ nền độc lập và quyền tự do được sống hòa bình. Hiện nay, nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thì nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó. Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”[8].

Tuyên bố của Hồ Chí Minh là xuất phát từ nguyện vọng hòa bình của nhân dân ta, nhân dân Pháp và nhân dân thế giới. Song hòa bình cũng như độc lập phải đấu tranh gian khổ mới giành được. Vì vậy, phải đẩy mạnh kháng chiến, tiêu diệt nhiều sinh lực địch hơn nữa thì chúng mới chịu thương lượng để giải quyết hòa bình trên cơ sở tôn trọng quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam ta.

Chủ trương mở mặt trận ngoại giao của Hồ Chí Minh đưa ra giữa lúc thực dân Pháp đang đẩy mạnh việc thực hiện kế hoạch Nava, càng thúc đẩy nhân dân Pháp đấu tranh đòi Chính phủ Pháp phải thương lượng với Chính phủ Việt Nam và gây tiếng vang lớn trên thế giới.

Hội nghị các ngoại trưởng Liên Xô, Anh, Pháp, Mĩ ở Beclin ngày 25-1-1954 đã đi đến nhất trí sẽ triệu tập hội nghị quốc tế, có đại diện của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tham dự tại Giơnevơ từ ngày 26-4-1954, để bản giải pháp hòa bình cho vấn đề Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương. Quyết định này được dư luận quốc tế hoan nghênh.

Ngày 8-5-1954, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương khai mạc tại Giơnevơ: Tham dự hội nghị có đại diện 9 nước: đoàn Liên Xô do Môlôtốp đứng đầu, đoàn đại diện Cộng hòa nhân dân Trung Hoa do Chu Ân Lai đứng đầu, đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa do Phạm Văn Đồng đứng đầu, đoàn đại diện Cộng hòa Pháp do Biđôn (G.Bidault) đứng đầu, đoàn đại diện Mĩ do Smit đứng đầu, đoàn đại diện Anh do Iđơn (Eden) đứng đầu, cùng các đoàn đại diện của chính quyền Bảo Đại (Nguyễn Quốc Định), Chính phủ Vương quốc Campuchia (Nhiếp Tiên Long) và Chính phủ Vương quốc Lào (Phoui Sananikone)[9].

Với tư thế đại diện cho một dân tộc vừa mới tạo nên chiến công Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, tại diễn đàn hội nghị, Phạm Văn Đồng đã tuyên bố lập trường của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa về việc lặp lại hòa bình ở Đông Dương phải là một giải pháp toàn bộ về chính trị và quân sự cho cả Việt Nam, Lào và Campuchia trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của từng nước ở Đông Dương.

Do sự đối sánh của các lực lượng trên phạm vi thế giới và khu vực, trực tiếp là sự đối sánh trên chiến trường chi phối và lợi ích của các nước tham dự hội nghị khác nhau, nên cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao ở hội nghị đã diễn ra gay go, phức tạp. Trải qua 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp, ngày 21-7-1954 các hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào và Campuchia lần lượt được kí kết. Bản tuyên bố cuối cùng về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương đã được đại diện các nước dự hội nghị chấp thuận cam kết chính thức, Đại diện Mĩ ra tuyên bố riêng thừa nhận tôn trọng hiệp nghị.

Bản Tuyên bố cuối cùng của hội nghị Giơnevơ gồm có 13 điều:

1- Xác nhận những văn bản hiệp định về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, ở Lào, ở Campuchia và về tổ chức kiểm soát quốc tế.

2- Khẳng định sự hài lòng của các bên tham gia hội nghị về việc chấm dứt chiến sự ở các nước Đông Dương.

3. Xác nhận những lời tuyên bố của Chính phủ Vương quốc Campuchia và của Chính phủ Vương quốc Lào về tổng tuyển cử tự do sẽ được tổ chức trong năm 1955 ở hai nước này.

4- Cấm việc đem quân đội và nhân viên quân sự nước ngoài vào các nước Đông Dương.

5- Cấm việc đặt căn cứ quân sự nước ngoài ở Đông Dương và việc các nước Đông Dương tham gia các liên minh quân sự với nước ngoài.

6- Quy định lấy vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam.

7- Khẳng định các bên tham gia hội nghị thừa nhận về nguyên tắc độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, việc hiệp thương giữa hai miền bắt đầu từ ngày 20-7-1955 và việc tổng tuyển cử tiến hành vào tháng 7-1956.

8- Cam kết tôn trọng quyền tự do lựa chọn nơi sinh sống của nhân dân trong mỗi nước.

9- Cam kết không có hành động trả thù đối với những người thuộc phía đối phương trong thời kì chiến tranh.

10- Quy định việc quân đội Pháp rút khỏi các nước Đông Dương,

11- Pháp cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn Vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia.

12- Quy định những nguyên tắc trong quan hệ giữa ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào, tôn trọng chủ quyền độc lập thống nhất, không can thiệp vào nội bộ của nhau.

13- Quy định những biện pháp cần thiết đề đảm bảo việc tôn trọng hiệp nghị.

Hiệp định Giơnevơ đã được các nước tham dự cam kết tôn trọng. Hòa bình được lập lại ở Đông Dương theo giải pháp do Liên Xô, Trung Quốc phối hợp với sự đề xuất của các nước Anh, Pháp.

Giải pháp Giơnevơ về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương là sự phản ánh tương quan lực lượng đối sánh của các bên tham chiến trên chiến trường ở Đông Dương và lực lượng các nước lớn trên trường quốc tế, phản ánh mối quan hệ quốc tế cực kì phức tạp và ý đồ chiến lược của các bạn đồng minh trong bước cuối của cuộc hòa đàm.

Vì hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ nên Việt Nam phải tiến hành cuộc kháng chiến kéo dài trong 9 năm, đã giành được thắng lợi to lớn và toàn diện, nhất là về quân sự. Những thắng lợi ấy đã làm cho lực lượng so sánh giữa ta và địch biến chuyển có lợi cho ta nhưng chưa phải biến chuyển căn bản có tính chất chiến lược... nhưng chúng ta cũng cần nhận rõ do chiến tranh trường kì, nhân dân ta phải đóng góp sức người, sức của cũng nặng. Nếu chiến tranh kéo dài thì có thể sinh ra những hiện tượng mệt mỏi và khó khăn của chúng ta có thể nhiều hơn”[10].

Trong khi đó, thừa dịp “thực dân Pháp thua nặng, đế quốc Mĩ can thiệp trắng trợn vào Đông Dương, kiên quyết thi hành kế hoạch kéo dài và mở rộng chiến tranh Đông Dương, đang biến Đông Dương thành thuộc địa và căn cứ quân sự của chúng. Nếu đế quốc Mĩ trực tiếp tham gia chiến tranh Đông Dương thì lực lượng so sánh giữa ta và địch sẽ có thể thay đổi không có lợi cho ta”. Còn các bạn đồng minh chiến lược của Việt Nam là Liên Xô và Trung Quốc đều theo một xu thế muốn kết thúc cuộc chiến tranh, không ủng hộ Việt Nam tiếp tục kháng chiến lâu dài nữa, “Trung Quốc đã lựa chọn cùng tồn tại hòa bình mà họ cho rằng chỉ như thế mới phù hợp với lợi ích dân tộc của mình”[11]. Tại cuộc họp trù bị ở Matxcơva của các nước Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam trước khi khai mạc hội nghi Giơnevơ, Chu Ân Lai đã tuyên bố: trong trường hợp cuộc xung đột ở Đông Dương mở rộng, chính phủ của ông ta “không thể viện trợ thêm cho Việt Minh được nữa”. Trong những điều kiện đó, Việt Nam đã chấp nhận giải pháp Giơnevơ để lập lại hòa bình ở Đông Dương, không thể một mình tiếp tục cuộc chiến đấu, nhất là phải sớm trực tiếp đương đầu với đế quốc Mĩ.

Giải pháp Giơnevơ là một biểu hiện cụ thể rằng Việt Nam là một nước nhỏ, lại thường phải đương đầu với các nước đế quốc xâm lược to trong bối cảnh các quan hệ quốc tế cực kì gay gắt và mối quan hệ với các bạn đồng minh diễn ra không kém phần phức tạp cho nên cuộc chiến đấu giành độc lập tự do là lâu dài, gian khổ, quanh co, phức tạp để giành lấy thắng lợi từng bước là một vấn đề có tính quy luật của cách mạng.

Ngày 22-7-1954, Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi, khẳng định: “Ngoại giao ta đã thắng to” và vạch rõ trong tình hình mới, cuộc “Đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”[12].

Để giành thắng lợi, chúng ta cần đoàn kết chặt chẽ, tư tưởng phải thống nhất, hành động phải nhất trí. “Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất danh thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”[13].

Lịch sử Việt Nam, từ tháng 9-1945 đến tháng 7-1954, là lịch sử kháng chiến và kiến quốc. Trong lò lửa kháng chiến, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được củng cố và phát triển, tạo dựng sức mạnh để đưa kháng chiến đến thắng lợi.

Cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và can thiệp Mĩ (1945-1954) là một cuộc chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng vì độc lập và thống nhất, vì nền dân chủ cộng hòa và gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội.

Với ý chí “Thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, nhân dân cả nước từ Nam đến Bắc đã nhất tề đứng lên kháng chiến với mọi phương tiện và vũ khí có sẵn trong tay, kể cả gậy tầm vông vót nhọn, chiến đấu kiên cường và anh dũng, thông minh và sáng tạo, lấy ít đánh nhiều, vừa đánh vừa xây dựng, phát triển lực lượng từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến mạnh, vừa vót nhọn khoa học nghệ thuật đánh giặc, nghệ thuật tiến công từ nhỏ đến lớn, từ đánh du kích đến đánh chính quy, từ tiến công chiến thuật, tiến lên tiến công chiến dịch, tiến công và phản công chiến lược, giành thắng lợi từ nhỏ đến lớn dân đến chiến công lịch sử Điên Biên Phủ vĩ đại.

Trải qua 9 năm chiến đấu gian khổ và hi sinh, chúng ta đã loại khỏi vòng chiến đấu trên nửa triệu quân xâm lược của thực dân Pháp. Hàng ngàn xe quân sự, hàng trăm máy bay, tàu chiến, các loại pháo của địch... bị phá hủy. Chính phủ Pháp phải tiêu phí vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương khoảng 3 ngàn tỉ phơ-răng, 2,6 tỉ đô la viện trợ của Mĩ và 8 tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương đã lần lượt thua trận, góp phần làm cho 20 lần nội các của Pháp bỉ đổ. Cuối cùng, Chính phủ Pháp buộc phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và cả của Lào, Campuchia, phải chấp nhận rút quân khỏi Việt Nam, Lào và Campuchia.

Quân và dân Việt Nam đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp. Đây là “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới”[14].

Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mĩ đã bảo vệ và phát triển thành quả của Cách mạng tháng Tám, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, chấm dứt hẳn ách thống trị của thực dân Pháp trên đất nước ta, đưa cách mạng Việt Nam chuyển qua một giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng miền Bắc theo con đường xã hội chủ nghĩa và tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, hoàn thành độc lập dân tộc, dân chủ và thống nhất đất nước.

Thắng lợi đó đã cố vũ mạnh mẽ các dân tộc bị nô dịch trên thế giới vùng lên chống chủ nghĩa đế quốc thực dân vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội, Đây là một cống hiến to lớn của nhân dân Việt Nam vào cao trào giải phóng dân tộc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, báo hiệu sự sụp đổ từng mảng của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, góp phần thúc đẩy tiến trình cách mạng của thời đại. Kiên quyết tiến hành kháng chiến và đưa kháng chiến đến thắng lợi, nhân dân Việt Nam không những đã làm tròn nhiệm vụ dân tộc thiêng liêng của mình mà còn làm nhiệm vụ quốc tế to lớn.

Thắng lợi oanh liệt về quân sự của quân và dân ta trên chiến trường trong 9 năm kháng chiến là thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và củng cố chế độ dân chủ cộng hòa.

Sức mạnh trên chiến trường là sự phản ánh của hậu phương, của chế độ xã hội đang tiến hành cuộc chiến tranh đó.

Trong lò lửa của cuộc kháng chiến, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được rèn đúc và thử thách về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội, về cả lực lượng vật chất lẫn tinh thần và tư tưởng.

Chế độ dân chủ cộng hòa Việt Nam đã xây dựng được bộ máy nhà nước vững chắc. Đó là nhà nước dân tộc dân chủ nhân dân, nhà nước của công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tư sản dân tộc và thân sĩ yêu nước dựa trên cơ sở chính trị vững mạnh là khối đại đoàn kết toàn dân vĩ đại nghĩa dân tộc, được tập hợp trong mặt trận Liên Việt.

Chế độ mới lại có một công cụ bạo lực mạnh mẽ gồm có lực lượng vũ trang ba thứ quân lớn mạnh và lực lượng công an nhân dân. Đó là một đội quân chiến đấu và công tác luôn luôn “trung với nước, hiếu với dân”.

Những thành tựu về xây dựng nền kinh tế kháng chiến có tính chất dân tộc và dân chủ, về nền văn hóa giáo dục có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng, những biến chuyển về quan hệ giai cấp là chỗ dựa về kinh tế, giai cấp xã hội và tinh thần chính trị của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Hậu phương là một nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh. Nếu không có hậu phương vững mạnh bào đảm sự chi viện thường xuyên về lực lượng, của cải và tinh thần chính trị cho tiền tuyến thì không một quân đội nào có thể giành thắng lợi. Một hậu phương mạnh là một hậu phương có chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội tiên tiến. Vì vậy, xây dựng chế độ mới là xây dựng hậu phương của kháng chiến. Đó là một yêu cầu khách quan của sự nghiệp kháng chiến của dân tộc.

Hồ Chí Minh đã nói: “Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi”[15].

Vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của đế quốc Pháp có sự can thiệp của đế quốc Mĩ, bảo vệ và xây dựng nền dân chủ cộng hòa lớn mạnh là nội dung cơ bản trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam từ tháng 9-1945 đến tháng 7-1954. Thắng lợi lịch sử của sự nghiệp kháng chiến và xây dựng chế độ dân chủ cộng hòa là kết quả tổng hợp của một số nhân tố tạo nên. Dân tộc Việt Nam đã hình thành và phát triển lâu dài trong lịch sử, có lòng nồng nàn yêu nước, ý chí độc lập tự cường, kiên cường bất khuất, đùm bọc, đoàn kết thống nhất, có tình nghĩa đồng bào sâu nặng. Chủ nghĩa dân tộc, giá trị tinh thần truyền thống là một động lực lớn của đất nước, là điểm tựa vững bền cho Việt Nam tạo nên những chiến công hiển hách trong lịch sử, bảo vệ và xây dựng thành một quốc gia độc lập. Sức mạnh truyền thống đó được năng lên tầm cao cách mạng của thời đại Hồ Chí Minh, gắn kết cả dân tộc trong một tổ chức mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi - Mặt trận Liên Việt - tạo nên một động lực mới, sức mạnh cách mạng mới nên đã đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc thành công. Cả dân tộc đại đoàn kết, đồng tâm hiệp lực chiến đấu và xây dựng vì độc lập, thống nhất, dân chủ phú cường, là sức mạnh vô địch của Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt như thế nào đi nữa, đụng vào bức tường đó thì chúng cũng nhất định thất bại. Từ sự thất bại của đế quốc Pháp trên chiến trường Lơcơléc - một danh tướng của quân đội Pháp đã rút ra kết luận cô đọng: “Người ta không thể nào dùng sức mạnh để phá tan chủ nghĩa dân tộc Việt Nam”[16].

Sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc đó được Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đấu, lãnh đạo, Đảng có đường lối chính trị và quân sự đúng đắn, đoàn kết nhất trí, liên hệ mặt thiết với nhân dân, chiến đấu dũng cảm và sáng tạo. Quá trình lãnh đạo kháng chiến và kiến quốc là quá trình xây dựng và rên luyện Đảng ngang tầm đòi hỏi của lịch sử, bảo đảm cho Đảng hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình với dân tộc và quốc tế.

Lực lượng toàn dân được động viên và tập hợp trong các đoàn thể quần chúng, trong mặt trận Liên Việt là lực lượng tiến hành kháng chiến toàn diện và xây dựng chế độ mới, là cơ sở để tổ chức và thực hiện chiến lược toàn dân kháng chiến, đặc biệt lực lượng vũ trang gồm 3 thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Lực lượng vũ trang nhân dân đóng vai trò quyết định tiêu diệt lực lượng địch trên chiến trường; đánh bại mọi chiến lược, chiến thuật quân sự, giải phóng đất đai, đè bẹp ý chí của địch, đưa kháng chiến đến thắng lợi. Lực lượng công an nhân dân được tổ chức thích hợp với yêu cầu của kháng chiến và xây dựng chế độ mới, là một đội quân trung thành với Tổ quốc, tận tụy với nhiệm vụ, kiên quyết, khôn khéo đối với địch. Lực lượng công an là một công cụ sắc bén trong cuộc đấu tranh chống phản cách mạng và các tội phạm khác, chống bọn gián điệp của đế quốc và tay sai, bảo vệ công cuộc kháng chiến, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ hậu phương kháng chiến.

Chính quyền dần chủ nhân dân, một chính quyền của dân, do dân và vì dân được củng cố lớn mạnh. Đó là một công cụ tổ chức toàn dân kháng chiến và  xây dựng chế độ mới. Chính quyền dân chủ nhân dân có một cơ sở chính trị vững mạnh là khối đoàn kết toàn dân tập hợp trong mặt trận Liên Việt, có một công cụ bạo lực sắc bén là lực lượng vũ trang nhân dân và công an nhân dân. Cơ quan nhà nước tối cao là Quốc hội và Hội đồng chính phủ, ở các địa phương là Hội đồng nhân dân và ủy ban kháng chiến hành chính được kiện toàn phù hợp với yêu cầu kháng chiến và kiến quốc.

Bộ máy chính quyền không những được tổ chức thích hợp với thực tiễn kháng chiến, kiến quốc mà còn có một đội ngũ cán bộ nhân viên được sàng lọc thử thách qua lò lửa kháng chiến. Đó là một bộ máy chính quyền mạnh mẽ, liêm khiết và biết làm việc, đoàn kết, tận tụy phục vụ kháng chiến, phục vụ Tổ quốc và nhân dân, được dân tin, dân phục và dân yêu.

Có một chế độ xã hội mới - chế độ dân chủ nhân dân được xây dựng và rèn đúc trong tiến trình kháng chiến, đủ sức tự bảo vệ và chiến thắng kẻ thù xâm lược. Xây dựng chế độ mới cũng chính là xây dựng hậu phương của kháng chiến. Hậu phương kháng chiến ngày càng mở rộng và vững chắc về mọi mặt, bảo đảm sự chi viện ngày càng lớn sức người, sức của và cả tinh thần tư tưởng chính trị cho tiền tuyến chiến đấu và chiến thắng.

Sự liên minh chiến đấu keo sơn của ba dân tộc anh em Việt Nam, Lào, Campuchia ngày càng bền vững nhằm chống kẻ thù chung là thực dân xâm lược Pháp và can thiệp Mĩ. Sự liên minh chiến đấu trong sáng của các lực lượng yêu nước và cách mạng của ba nước anh em trên bán đảo Đông Dương là một điển hình của chủ nghĩa quốc tế vô sản, được xây dựng và vun trồng bằng xương máu của hàng vạn cán bộ chiến sĩ cách mạng.

Cuộc kháng chiến của Việt Nam còn được sự giúp đỡ của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa, của Đàng Cộng sản và nhân dân Pháp cùng các lực lượng dân tộc dân chủ ở châu Á và thế giới.

Thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc đã mở ra một thời kì phát triển mới của dân tộc ta trên con đường hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên xây dựng một nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, thống nhất dân chủ và phú cường theo con đường cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/4654-02-633921712666403750/Cuoc-khang-chien-phat-trien-manh-me-va-ke...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận