Tình hình văn hóa - Giáo dục
1. Tôn giáo, tín ngưỡng
- Ở các thế kỉ X - XIV, những tín ngưởng cổ truyền vẫn phổ biến. Bên cạnh các tục thờ tích cực ngày càng được mở rộng như tục thờ tổ tiên, thờ những anh hùng dân tộc, những người có công với làng, với nước v.v.. các tục thờ nguyên thủy “vạn vật hữu linh vẫn còn nhiều. Nhà nước cũng như các vị quan có ý thức đã nhiều lần ra lệnh hủy bỏ bớt các tục thờ có mang tính “mê tín, dị đoan” đó nhưng chỉ hạn chế được một phần. Đáng chú ý là nhà nước, chủ yếu là thời Lý – Trần, đã góp phần trực tiếp vào sinh hoạt tín ngưỡng và tôn giáo chung của nhân dân. Nhà Lý đã dựng đền “Đồ đại thành hoàng”, đền “Đồng cổ” (Trống đồng), đền thờ Hai Bà Trưng, đền thờ Phùng Hưng, đền thờ Phạm Cự Lạng ở kinh thành Thăng Long, nâng lễ thờ thần Phù Đổng (Bắc Ninh) lên trình độ “quốc tế” (quốc gia) v.v.
Trong một thời gian dài, tín ngưỡng dân gian cổ truyền vẫn giữ một vị trí quan trọng trong sinh hoạt tâm linh của cư dân Đại Việt.
- Các tôn giáo lớn như Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo được truyền vào nước ta từ thời Bắc thuộc.
Phật giáo sớm phổ cập trong nhân dân và đạt mức cực thịnh ở các thế kỉ XI - XIII. Chùa chiền mọc lên từ nhiều nơi. Từ thời Đinh - Tiền Lê, một số nhà sư như Ngô Chân Lưu, Pháp Thuận, Vạn Hạnh v.v.. đã tham gia tích cực vào việc xây dựng chính quyền. Sớm mang nặng tư tưởng sùng Phật, Lý Công Uẩn mới lên ngôi, đã cho dựng nhiều chùa, cấp độ điệp cho hàng ngàn người làm sư, phát hàng ngàn lạng vàng, bạc thuê thợ đúc chuông lớn đặt ở các chùa... khiến nhà sử học Lê Văn Hưu ở thế kỉ XIII đa nhận xét: Lý Thái Tổ lên ngôi mới được hai năm, tôn miếu chưa dựng, xã tắc chưa lập mà đã dựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức, lại sửa chùa quán ở các lộ, cấp độ điệp cho hơn 1000 người ở kinh sư làm tăng...
Các vua nhà Lý kế nghiệp cũng không ngừng cho xây dựng chùa chiền, đúc chuông, tô tượng, cho người sang nhà Tống xin kinh Phật, biến các chùa thờ Phật thành nơi cầu đảo, làm lễ tạ ơn khi chiến thắng quân xâm lược, lễ đại xá Quý tộc, quan lại, nhân dân theo đó, xây dựng chùa chiền ở khắp nơi, bia chùa Linh Xứng đã ca ngợi: “Từ khi đạo Phật truyền sang nước ta đến nay đã hơn 2000 năm mà việc phụng thờ ngày càng thêm mới. Hễ những chỗ nào núi cao, cảnh đẹp đều mở mang để lập chùa chiền, như thế nếu không phải là nhờ bậc vương công, đại nhân giúp đỡ xây dựng thì làm sao nên được”. Thừa nhận thực tế đó, nhà sử học Lê Văn Hưu viết: “cho nên đời sau mới xây trong cao ngất trời, tạc cột, chùa bằng đá, làm chùa thờ Phật lừng lẫy hơn cả cung điện của vua. Rồi người dưới bắt chước, có kẻ hủy cả thân thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân thích, nhân dân quá nửa làm sư, trong nước chỗ nào cũng có chùa”.
Phật giáo tiếp tục phát triển ở thời Trần, mặc dầu có phần hạn chế hơn. Các vua đầu thời Trần đã tìm đến cửa Phật, Trần Nhân Tông thực sự vứt bỏ áo bào, cạo đầu, trở thành một vị sư danh tiếng. Đầu thế kỉ XIV, nhà nho Trương Hán Siêu đã kêu lên: “thiên hạ năm phần thì sư tăng chiếm một”; đến giữa thế kỉ đó, nhà nhọ Lê Quát than thở: “nhà Phật lấy họa phúc để cảm động lòng người, sao mà được người tin theo lâu bền như thế! Trên từ vương công, dưới đến dân thường, hễ bố thí vào việc nhà Phật dù đến hết tiền của cũng không xén tiếc... chỗ nào có người ở tất có chùa Phật, bỏ đi rồi lại dựng lên, nát đi rồi lại sửa lại, lâu đài chiêng trống chiếm đến nửa phần so với dân cư” (bia chùa Chiêu Phúc).
Các chùa đều có đất riêng. Nhiều chùa lớn như Quỳnh Lâm (Đông Triều, Quảng Ninh) có trên 2000 mẫu ruộng, hàng trăm tam bảo nô...
Do du nhập vào Đại Việt từ nhiều con đường khác nhau cũng như, do sự tiếp thu của người dân Việt đương thời, Phật giáo không có một dòng duy nhất. Có dòng hòa nhập với tín ngưởng dân gian Việt cổ truyền (các chùa Pháp Vân, Pháp Vũ, chùa Diên Hựu (Một Cột)...), có dòng thiên về Mặt tông (với những nhà sư giỏi pháp thuật và chữa bệnh...), có dòng tu ở chùa, thoát tục, có dòng tu tại gia lấy “cái tâm” làm gốc v.v... Trong trào lưu chung đó, giai cấp thống trị đã mong muốn tìm ra một tôn giáo làm nền cho sinh hoạt tinh thần và tâm linh của người Việt, thoát khỏi những ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo phương Bắc. Dòng Thiền của Phật giáo đã được lựa chọn. Nối tiếp ý tưởng của cha, ông, Lý Thánh Tông đã có ý định sáng lập phái Thiền Thảo Đường với nhiều nét của phương Nam, nhưng không thành. Dần dần hình thành một sự hòa hợp giữa Phật giáo và Nho giáo. Lý Nhân Tông đã khuyên thiền sư Mãn Giác: “bậc chí nhân hiện thân giữa cõi đời phải tế độ chúng sinh... chẳng những đắc lực về thiền định và trí tuệ mà cũng có công giúp đỡ nhà nước”. Văn bia chùa Linh Xứng cũng có đoạn: “Ôi! sinh nuôi ta, không ai lớn hơn vua, cha cho nên phải tôn kính...”.
Ý tưởng của các vua Lý được các vua đầu thời Trần tiếp nhận và thực hiện. Trần Thái Tông, một ông vua đã từng xông pha nơi chiến trận, suốt đời ghi nhớ câu nói của quốc sư Phù Vân: “Phàm đã làm vua của thiên hạ phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, phải lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình”, nhưng không quên sùng Phật. Trong Thiền tông chỉ nam ông đã nói lên sự kết hợp đạo với đời, “Đạo Phật không chia nam bắc, đều có thể tu cầu. Tính người có hiền ngu, đều cùng được giác ngộ, vì vậy, đại giáo của đức Phật là phương tiện để mở lòng mê muội, là con đường soi rõ lẽ tử sinh. Còn trách nhiệm nặng nề của tiên thánh là đặt mực thước cho tương lai, nêu khuôn phép cho hậu thế”. Hòa nhập Phật giáo và Nho giáo vào cùng một đích chung của công cuộc ổn định xã hội. “Tam giáo đồng nguyên” là như vậy.
Phát triển tư tưởng đó của ông mình và dựa vào lí thuyết của Tuệ Trung thượng sĩ (Trần Tung), Trần Nhân Tông đã dựng nên dòng Phật Đại Việt với tên gọi Trúc Lâm. Xuất phát từ giáo lí Thiền Tông, dòng Phật Trúc Lâm lấy sự gắn liền giữa “tâm” và “Phật”, “Phật ở trong lòng” làm hạt nhân.
Bài “Phật tâm ca” của Tuệ Trung thượng sĩ có đoạn:
Phật, Phật, Phật bất khả biến
Tâm, Tâm, Tâm bất khả thuyết
Nhược tâm sinh thời thị Phật sinh
Nhược Phật diệt thời thị tâm diệt
Diệt tâm tồn Phật thị xứ vô
Diệt Phật tồn tâm hà thời yết
(Nghĩa là: Phật không thể biến được
Tâm không thể nói được
Tâm sinh thì Phật cũng sinh
Phật diệt ắt tâm cũng mất
Không đâu tâm diệt mà còn Phật
Chẳng lúc nào Phật diệt mà còn tâm)
Trần Nhân Tông cũng nói:
“Chỉn Bụt là lòng, sá ướm hỏi đòi cơ Mã tổ”
Từ đó mà có quan niệm, “lấy tâm truyền tâm, không dùng văn tự”, “Phật ở trong lòng, lòng lặng lẽ và sáng suốt, đó chính là chân Phật”, nghĩa là “giác ngộ được bản tâm” có thể thành Phật. Một khi lòng đã giác ngộ, thanh tĩnh thì cũng
Chẳng còn bỉ thử, tranh nhân chấp ngã
Toàn duyên rũ hết, thị phi chẳng nề ...
Thân này chẳng quản bữa đói bữa no
Công danh chẳng trọng, phú quý chẳng màng...
(Trần Nhân Tông)
Và lúc ấy dù là vua quan, đại thần, thừa tướn g hay quốc sư, cư sĩ đều có thể thành Phật.
Tóm lại, Thiền Trúc Lâm lấy sự giác ngộ trong lòng làm gốc, mong muốn đưa Phật đến mọi nhà, mọi người đồng thời cũng gắn Phật với cuộc sống thực tại, với vận mệnh dân tộc.
Trần Nhân Tông được xem là vị tổ thứ nhất của Phật Trúc Lâm. Người kế tục là sư Pháp Loa và sau đó là sư Huyền Quang...
Tuy nhiên, công cuộc xây dựng một nhà nước theo mô hình Hán – Đường, việc tiếp xúc thường xuyên với nền văn minh Trung Hoa và sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc đã không cho phép Phật giáo - dù là phái Trúc Lâm, phát triển thành quốc giáo. Các vua quan nhà Trần sau thời Nhân Tông đã xa dần Phật giáo.
2. Giáo dục và Nho giáo
Từ đầu công nguyên, chính quyền đô hộ đã du nhập chữ nho, mở trường dạy học trên đất Âu Lạc. Nhưng với quan niệm đó là công cụ đồng hóa của giai cấp thống trị ngoại tộc, nhân dân ta đã chống lại. Cho đến thế kỉ X, tuy chữ Hán đã trở thành chữ viết chính thức nhưng số người biết chữ, biết Nho học còn ít ỏi. Các nhà sư thường là lớp trí thức quan trọng bên cạnh các viên chi hậu, viên ngoại lang. Việc xây dựng nhà nước theo mô hình phương Bắc trở thành tất yếu thì Nho học cũng ngày càng có vai trò quan trọng.
Năm 1070, Lý Thánh Tông cho xây dựng Văn Miếu ở kinh thành, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công, tứ phối và 72 người hiền của đạo Nho, nho thái tử ra đó học. Giáo dục Nho học chính thức được thiết lập. Năm 1075, nhà Lý mở khoa thi Minh kinh đầu tiên. Người đỗ đầu là Lê Văn Thịnh (người Già Bình - Bắc Ninh) được đưa vào cung dạy thái tử rồi sau đó, được cử làm quan (thăng dần đến chức thái sư). Năm 1076, nhà Lý cũng mở kì thi viết, toán và luật để chọn người làm lại viên và năm 1195 mở kì thi tam giáo đầu tiên. Tuy nhiên, giáo dục Nho học dưới thời Lý chưa phát triển. Với mong muốn tăng nhanh trình độ học vấn của quan chức, ngay từ năm 1282, nhà Trần đã mở khoa thi đầu tiên của triều đại mình.
Năm 1247, nhà Trần đặt lệ lấy Tam khôi (3 người đỗ đầu: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) và quy định cứ 7 năm mở 1 khoa thi.
Năm 1255, vua Trần đặt lệ lấy 2 trạng nguyên: 1 kinh (cho các tỉnh phía bắc) 1 trại (cho Thanh Hóa, Nghệ An) để khuyến khích việc học tập của các lộ phương nam. Năm 1275 lệ này bị bãi bỏ vì không cần thiết nữa.
Năm 1304, nhà nước quy định rõ nội dung thi 4 trường:
Trường 1: Thi ám tả cổ văn.
Trường 2: Thi kinh nghi, kinh nghĩa, thơ, phú.
Trường 3: Thi chế, chiếu, biểu.
Trường 4: Thi đối sách.
Sau đó mở kì thi Đình để phân hạng cao thấp các thái học sinh.
Năm 1396, nội dung thi 4 trường được quy định lại
Trường 1: Thi kinh nghĩa
Trường 2: Thi thơ phú
Trường 3: Thi chế, chiếu, biểu.
Trường 4: Thi văn sách.
Kì thi Hương ở địa phương cũng bắt đầu được tổ chức.
Các sách học chính cũng được quy định: Ngũ kinh, Tứ thư, Bắc sử...
Những người đỗ đạt được bổ vào các chức ở viện Hàn lâm, các cơ quan hành khiển, sung vào các phái bộ sứ thần hay tiếp sứ Trung Quốc. Dần dần họ trở thành một bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước, đặc biệt ở thời Trần. Nhiều người trong số đó đã đóng góp quan trọng vào công cuộc ngoại giao cũng như chính trị, như Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Sư Mạnh, Lê Quát v.v…
Trong nhân dân, Nho học cũng từng bước phát triển. Ban đầu các nhà chùa là nơi dạy học chữ nho, các sách kinh sử. Về sau, nhiều nhà nho, nhiều thái học sinh không làm quan, ở nhà dạy học. Một trong nhũng người thấy giáo xuất sắc hội ấy là Chu An.
Sự phát triển của giáo dục Nho học đã góp phần phổ cập Nho giáo trong nhân dân với các quan niệm về tam cương, ngũ thường, trung quân. Truyền thống tôn sư trọng đạo cũng hình thành. Tuy nhiên, Nho giáo phổ biến chủ yếu trong tầng lớp quan chức, các nho sĩ. Nhân dân chỉ tiếp nhận những gì gần gũi với bọ, góp phần củng cố những tục lệ cổ truyền của họ. Vì vậy mà sứ thần nhà Nguyên sang Đại Việt vào cuối thế kỉ XIII đã nhận xét
Hạ tục kiêu phà thậm
Trung Hoa lễ nhạc vô
(nghĩa là “Tục dân rất nông nổi, không lễ nhạc Trung Hoa”)
Giữa thế kỉ XIV, nhà nho Lê Quát nhận xét: “Ta từng dạo xem núi sông, dấu chân đi hằng nửa thiên hạ mà tìm nhà học và văn miếu thi chẳng thấy đâu”.
Vì vậy, nảy sinh cuộc đấu tranh phê phán Phật giáo trong giới nho sĩ. Từ cuối thế kỉ XIII, Lê Văn Hưu đã phê phán nhà Lý quá tôn sùng Phật giáo “tiêu phí của và sức dân vào việc thổ mộc”. Sang thế kỉ XIV, Trương Hán Siêu viết bài kí tháp Linh Tế núi Dục Thúy (Ninh Bình) cho là “Phật giáo mê hoặc chúng sinh... phá hoại di luân, hao phí của cải, nườm nượp mà đi, nhung nhúc mà theo, ít kẻ không phải là yêu ma gian tà”. Bất bình vì lắm kẻ “Trốn việc quan đi ở chùa”, nhiều vị sư sa đọa, ông viết ở bài văn bia chùa Khai Nghiêm: “một bọn giảo hoạt gian ngoan, mất hết cả bản ý khổ hạnh, không hư, chỉ ham chiếm đoạt được vườn xinh, cảnh đẹp, để nhà cửa lộng lẫy như vàng ngọc”...
Tình hình đó, buộc Hồ Quý Ly, năm 1396 phải ra lệnh sa thãi bớt tăng đồ ai chưa đến 50 tuổi đều phải hoàn tục. Đồng thời, tư tưởng Nho học “gắn liền học với hành” của Chu An cũng nổi lên làm cơ sở cho nhà Hồ chống lại những quan điểm gò bó của Tống nho.
Địa vị của Nho giáo dần dần được nâng cao.
Đạo giáo du nhập vào Đại Việt, đến đây nhanh chóng hòa vào các tín ngưỡng cổ truyền của nhân dân hoặc chuyển hóa sang Phật giáo.
3. Văn học - nghệ thuật
+ Tình hình xã hội và sự phát triển của giáo dục đã góp phần quan trọng tạo nên một nên văn học phong phú và đậm đà bản sắc dân tộc. Điều đáng tiếc là hiện nay số thơ văn đương thời còn lại rất ít. Từ thế kỉ X, nhà sư Ngô Chân Lưu đã viết nên những bài thơ đầy cảm xúc:
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương tang
Cứu thiên quy lộ trường
Tình thảm thiết, đối ly thường
Phan luyến sứ linh lang
(nghĩa là: Muôn trùng non nước mênh mang, Đường xa bao dặm trường
Tình lưu luyến, chén đưa đường, Nhớ vị sứ lang)
Có thể phần thành 2 giai đoạn: Trước thế kỉ XIII và thế kỉ XIII - XIV. Ở gia đoạn đầu, thơ văn để lại chủ yếu là sáng tác của các nhà sư, đậm đà màu sắc Phật giáo. Chẳng hạn như những câu thơ của nhà sư Lã Định Hương
Bản lai vô xứ sở
Xứ sở thị chân tông
Chân tông như thị huyễn
Huyễn hữu tức không không (chân dữ huyễn)
(nghĩa là: Vốn xưa không xứ sở, Xứ sở là chân tông, Chân tông như thị huyễn, Giả, có cũng không không)
Sư Hải Thiền cũng viết trong bài Cảm hoài:
Nhân tâm tận thức vô vi lạc
Nhược đắc vô vi thủy thị gia
(nghĩa là: Người người hiểu rõ vô vi là vui, Nếu được vô vi mới chính là nhà)
Tuy nhiên, cuộc sống sôi động cũng lời kéo các nhà sư về với những nét đẹp của đất trời. Nhà sư Mãn Giác đã viết:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tục dạ nhất chi mai
(Cáo tật thị chúng)
(nghĩa là: Chớ tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở cành mai)
hoặc như nhà sư Quảng Nghiêm viết:
Nam nhi tự hữu xung thiên chí
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành
(nghĩa là: Làm trai tự có chí xông lên, Sao chỉ biết làm theo đúng Như Lai).
Chúng ta cũng còn được đọc lời Chiếu dời đô đậm đà niềm tin vào sự tự cường của dân tộc hoặc bài “thơ thần” “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” vốn được xem là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên. Ở giai đoạn hai, tuy văn học Phật giáo còn tiếp tục phát triển với nhiều bài văn bia, tập Khóa hư lục của Trần Thái Tông, các bài ngữ lục của Trần Nhân Tông, Tuệ trung thượng sĩ ngữ lục vv… nhưng cùng với sự phát triển của giáo dục, một dòng văn học trần tục, yêu nước đã nổi lên làm rạng rỡ cho thơ văn một thời.
Bản thiên cổ hùng văn Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo có thể xem là áng văn mở đầu cho dòng văn học đó. Ngày nay chúng ta không khỏi xúc động khi đọc lại những câu: “Huống chi ta cùng các ngươi sinh ra vào lúc rối ren, lớn lên trong buổi hoạn nạn, thấy sứ giả của giặc qua lại dọc ngang ngoài đường, khua tấc lưỡi cú vọ mà khinh rẻ triều đình, đem câu thần chó dê mà ngạo mạn tể tướng, thác lệnh của Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để thỏa lòng tham vô cùng... ta từng đến bữa quên ăn, nửa đêm đập gối, nước mắt giàn giụa, lòng dạ như dần, vẫn căm giận muốn ăn thịt nằm da, nhai gan uống máu của giặc. Dẫu trăm thây ta phơi ngoài bãi đồng, nghìn xác ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm...” Đó là đạo lí làm người dân Việt trước họa xâm lăng của một kẽ thù hung bạo.
Và từ ý thức dân tộc kiên cường đó mà có những câu thơ của Trần Quang Khải:
Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ cựu giang san
(Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù, Thái bình nên gắng sức, Non nước ấy ngàn thu)
hoặc niềm tự hào của Trần Nhân Tông:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu
(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá, Sơn hà muôn thuở vững âu vàng)
hoặc lời tự vịnh đầy khí phách của Phạm Ngũ Lão:
Hoành sáo giang sơn cáp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
(Vung giáo non sông đã mấy thu, Ba quân như hố nuốt phăng trâu, Công danh trai chửa đền xong nợ, Những thẹn khi nghe chuyện Vũ hầu).
Niềm tự hào dân tộc, lòng yêu nước chân chính lan truyền trong các nhà nho của nửa đầu thế kỉ XIV làm nên hàng loạt thơ, phú “khôi kì, hùng vĩ”. Bài phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu với những câu (bản dịch):
Bây giờ muôn dặm thuyền bè
Cờ bay phấp phới
Sáu quân oan hùm, gươm đao sáng loáng...
Tướng Bồ Kiên trong trận Hợp Phì, chỉ nháy mắt đã hồn bay thành khói...
Đến nay dòng sông vẫn chưa rửa sạch nhuốc nhơ
Công tái tạo ngàn năm còn chói lọi...
và kết luận: Bụi Hồ không dám động chừ, ngàn năm thanh bình
Tin rằng không phải vì sông hiểm chứ mà vì đức lớn mênh mông...
Tinh thần đó cũng thể hiện rõ trong bài Bạch Đằng của Phạm Sư Mạnh hoặc trong hàng loạt bài thơ của ông trong Hiệp Thạch tập, trong Giới hiên thi tập của Nguyễn Trung Ngạn như bài Ung châu với câu:
Chúng quân lão thú tằng kinh chiến
Thuyết đáo nam chinh các tự sầu
(Lính già từng trải mùi chinh chiến, Nói đến nam chinh ủ mặt mày)
Bên cạnh đó là hàng loạt bài thơ ca ngợi cảnh thiên nhiên, giàu đẹp của đất nước, hay đầy cảm xúc tự nhiên như:
Đứng mãi nào hay ngày đã muộn
Khắp đồng lúa tốt tựa mây xanh
(dịch thơ Bùi Tông Quán)
hoặc:
Ruộng xanh như gốm nay lại thấy
Mây phủ nhà vua mất lối đi
(dịch thơ Phạm Sư Mạnh)
hoặc:
Sáng dậy mở cửa sổ
Xuân đi nào có hay
Một đôi bươm bướm trắng
Phấp phới lướt hoa bay
(dịch thơ Trần Nhân Tông)
Vào nửa sau thế kỉ XIV, cùng với sự suy thoái của nhà Trần, xuất hiện những nhà thơ Trần Nguyên Đán, Chu An, Nguyễn Phi Khanh... với những bài thấm đượm tình thương yêu nhân dân, thông cảm với cuộc sống khổ cực của nhân dân.
Một thành tựu lớn của thời kì này là sự sáng tạo ra chữ Nôm trên cơ sở chữ Hán. Không lâu sau khi ra đời, chữ Nôm được hoàn thiện dần và được dùng để sáng tác thơ văn, xuất hiện những nhà thơ Nôm nổi tiếng như Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Hồ Quý Ly v.v... Sử cũ cũng từng ghi, khi vua Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chămpa, nhiều người đã “làm thơ Nôm” để chê cười…
Thời Lý - Trần cũng để lại nhiều văn bia dài, nhiều bài phú “lưu loát, đẹp đẽ” như Đông hồ bút, Trảm xà kiếm, Ngọc tỉnh liên, Thiên Hưng trấn v.v...
Ngoài ra thể loại truyện cũng ra đời như Báo cực truyện, Việt điện u linh, Lính nam chích quái, Nam ông mộng lục v.v..
+ Với ý thức dân tộc sâu sắc, nhân dân Đại Việt không chỉ xây dựng cho mình một nên văn học phong phú mà còn cả một nên nghệ thuật đặc sắc. Các công trình xây dựng từ cung điện của vua đến dinh thự của các quan lại, đền đài, chùa quán nhiều không kể xiết, mặc dầu di tích còn lại không nhiều. Năm 984, Lê Đại Hành “làm điện Bách bảo thiên tuế ở núi Đại Vân, cột điện dát vàng bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong lưu, bên tây là điện Tử hoa, bền tà là điện Bồng Lai, bên hữu là điện Cực lạc.... Năm 1010, Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, ở cung thành “phía trước dựng điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu, bên tả làm điện Tập Hiền, bên hữu làm điện Giảng Võ... đều có thềm rồng, bên trong thềm rồng có mái cong, hàng hiên bao quanh 4 mặt. Sau điện Càn Nguyên dựng hai điện Long An và Long Thụy làm nơi nghỉ ngơi”. Lý Thái Tông làm thêm điện Tuyên Đức, điện Diên Phúc có thềm trước gọi là thềm rồng (long trì), bên trong hai phía đông tây có điện Văn Minh và điện Quảng Vũ lại đặt lầu chuông, phía trước làm điện Phụng Thiên, trên điện dựng lầu Chính Dương chỉ giờ khắc, phía sau làm điện Trường Xuân ... phía ngoài cung điện cho đắp Long thành...
Chùa chiền dựng lên khắp nơi và trở thành biểu tượng của nghệ thuật Phật giáo. Nổi lên các ngôi chùa lớn như Dâu, Phật Tích, Dạm ... Năm 1049, Lý Thái Tông cho xây chùa Diên Hựu “dựng cột đá ở giữa ao, làm tòa sen của phật Quan Am ở trên cột” năm 1105 Lý Nhân Tông cho sửa lại, “vét hồ Liên Hoa đài, gọi là hồ Linh Chiểu, ngoài hồ có hành lang chạm vẽ chạy xung quanh, ngoài hành lang lại đào hô gọi là Bích Trì có cầu bắc qua để đi lại…
Các chùa thường có tháp lớn như tháp Báo Thiên (Hà Nội) 12 tầng, cao mấy chục mét, tháp Phổ Minh (Nam Định) 14 tầng, cao 21m v.v..
Một công trình kiến trúc lớn đánh dấu sự phát triển của nghệ thuật xây dựng thành lũy đương thời là thành nhà Hồ ở Vĩnh Lộc (Thanh Hóa). Thành hình vuông mỗi cạnh dài 500m. Cổng thành hình vòm xây bằng những khối đá lớn, có khối dài 7m, cao 1m 5, dày 1m nặng khoảng 15 tấn. Thành đắp bằng đất có khối lượng khoảng 80.000 m3, xung quanh có hào sâu, có cống ngầm thông trong ngoài. Phía trong thành là cung điện và dinh thự các quan.
Nghệ thuật đúc chuông tô tượng rất phát triển. Người Trung Quốc đã từng nói đến “An nam tứ đại khí” là tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền (ở chùa Diên Hựu), vạc Phổ Minh (chùa Phổ Minh - Nam Định) và tượng Phật chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều - Quảng Ninh) cao 6 trượng (khoảng 20m). Bên cạnh đó còn có tượng Phật Adiđà (chùa Phật Tích - Bắc Ninh), nhiều tượng linh điểu (Garuda), người có cánh đánh trống (Kinnari) mang phong cách nghệ thuật Chămpa, rồng nằm dài theo bậc thềm, tượng người, voi, ngựa v.v…
Điêu khắc tinh tế với những bức phù điêu trang trí những mô típ hoa văn hoa cúc nhiều cánh, hoa sen, lá cây và đặc biệt là con rồng giun mình trơn nằm gọn trong chiếc lá đề. Đặc điểm chung là chân thực, khỏe mạnh, đơn giản. Điêu khắc trên các cánh cửa gỗ ở các chùa thời Trần phong phú và tinh tế hơn. Chân các bệ cột thường hình hoa sen. Ngoài ra cũng còn một số bức phù điêu khắc trên đá hình các nhạc công đang biểu diễn mang phong cách Chămpa. Cách trang trí hoa lá nói trên cũng được đưa vào nghệ thuật dân dụng (bát, chén, bình, vại)...
Âm nhạc, sân khấu đều phát triển. Ban đầu âm nhạc Việt chịu ảnh hưởng ít nhiều của nhạc Chăm. Năm 1060, Lý Thánh Tông đã cho dịch các khúc nhạc Chămpa và cho nhạc công ca hát. Về sau ảnh hưởng của nhạc phương Bắc tăng lên. Sử liệu cũ còn ghi lại các khúc “Nam thiên nhạc”, “Ngọc lầu xuân”, “Mộng du tiên”, những bài hát “Trang chu nằm mộng hóa ra con bướm”, “Bạch lạc thiên mẹ li biệt con” v.v… Nhà nước có kép hát, đào nương. Sứ giao tập của Trần Cương Trung (cuối thế kỉ XIII) mô tả lễ yến ở điện Tập hiền “tiếng hát tiếng đàn hòa lẫn nhau...” hoặc “mỗi lần rót rượu lại hô to lên rằng: “Phường nhạc tấu khúc nhạc” thì dưới giải vũ lại tấu nhạc theo luôn với những khúc như Giáng Châu Long, Nhập hoàng đô... âm điệu cũng giống âm điệu cổ nhưng ngắn hơn...”
Nhạc cụ có trống cơm, tiêu, não bạt, sáo, đàn cầm, đàn tranh, đàn tì bà, đàn 7 dây, đàn hai dây, đàn bầu...
Nhảy múa thường được tổ chức ở cung đình cũng như trong nhân dân. Ngoài ra, nghệ thuật chèo, tuồng rất phát triển. Chèo hát là sinh hoạt được các quý tộc ham thích. Cùng với chèo, hề cũng phổ biến. Sau kháng chiến chống Nguyên, tuồng cũng xuất hiện với nghệ nhân người Tống là Lý Nguyên Cát. Múa rối là một ngành nghệ thuật đặc sắc.
Cùng với âm nhạc, sân khấu, các ngày lễ hội trong nhân dân cũng có nhiều trò vui chơi, đua tài như leo dây, vật, đua thuyền, trò chơi tàng cưu, ném còn, đánh cầu... Trò “vật cù” của Phạm Ngũ Lão rất được ham chuộng:
Hai bên tranh lấy quả cầu
Dân an quốc thái sống lâu vững bền.
Tóm lại sự phát triển của văn học nghệ thuật phong phú, đa dạng, đã tạo nên một bộ phận quan trọng của nền văn minh Đại Việt đương thời.
4. Khoa học - kỉ thuật
Công cuộc xây dựng đất nước và củng cố nền độc lập dân tộc sớm làm nảy sinh nhu cầu ghi chép lịch sử. Các nhà nước Lý - Trần đều có Viện quốc sử chuyên ghi chép những hoạt động của nhà nước – chủ yếu của vua. Nguồn sử liệu cũ đã nhắc đến sách sử của Đỗ Thiện thời Lý, tuy nhiên, bộ sử chính thống đầu tiên chỉ ra đời ở thời Trần. Theo lệnh của vua, năm 1272, nhà sử học - quốc sử viện giám tu Lê Văn Hưu đã soạn xong bộ Đại Việt sử kí 30 tập, viết lịch sử nước ta từ Triệu Vũ đế đến Lý Chiêu Hoàng. Bộ sử này không còn nữa, chỉ được nhắc đến trong các bộ sử thời Lê. Tiếp theo, một số người đã viết thêm các bộ sử khác (có tính chất tư nhân) như Việt sử lược (vô danh), Việt sử cương mục và Việt Nam thế chí của Hồ Tông Thốc. Cuối thế kỉ XIII, đầu thế kỉ XIV, các vua Trần đã cho biên soạn Trung hưng thực lục nói về cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông - Nguyên, các bộ thực lục (của Đoàn Như Hài và của Nguyễn Trung Ngạn...) nhưng đều không còn nữa. Đồng thời ở nước ngoài, một người Việt là Lê Trắc đã viết An Nam chí lược bổ sung thêm tư liệu cho lịch sử.
Các nhà sư cũng có sách sử riêng, nay còn lại Thiền uyển tập anh ngữ lục và Tam tổ thực lục.
Các bộ sử đương thời đã được viết theo những dạng khác nhau như biên niên, chuyên đề...
Những tư liệu về địa lí đất nước đã được biên soạn. Năm 1172, Lý Anh Tông đã đi tuần ở các địa giới phiên bang Nam Bắc “vẽ bản đồ và ghi chép phong vật rồi về”
Toán học được sử dụng và ban đầu là một môn thi của các lại viên, về sau, Hồ Quý Ly biến thành môn thi thứ năm trong thi Hội. Tuy không còn lại các tác phẩm toán học nhưng việc xây dựng kinh thành, thành An tôn (thành nhà Hồ), các bảo tháp cao hàng chục trượng chắc chắn đòi hỏi một trình độ toán học cao.
Thiên văn học thành một bộ môn rất được quan tâm. Các sách lịch sử đã nói đến những cột đồng hồ ở cung vua, nhà thiên văn học Đặng Lộ vừa làm ra lịch mới (hiệp kỉ) dùng cho nước ta vừa làm ra một dụng cụ gọi là Linh lung nghi để khảo nghiệm thời tiết. Tư đồ Trần Nguyên Đán cũng là một nhà thiên văn học.
Cuối thế kỉ XIV, do nhu cầu quốc phòng, nhà chỉ huy quân sự Hồ Nguyên Trừng (con cả của Hồ Quý Ly) đã sáng chế ra các loại súng lớn nhỏ gọi là Thần cơ sang pháo và cùng các thợ thủ công đong loại thuyền chiến có lầu.
Tóm lại, trong những thế kỉ đầu độc lập, với tinh thần dân tộc và ý thức tự cường, nhân dân Đại Việt đã phát huy mọi khả năng để tạo nên một nền văn hóa dân tộc đa dạng, phong phú, đặc sắc, vừa có những nét tiếp nối nền văn hóa cổ truyền vừa có những nét sáng tạo, mới mẽ, xuất phát từ sự tiếp nhận ảnh hưởng của các nền văn hóa các nước xung quanh. Nền văn hoá Đại Việt thời Lý - Trần đã trở thành cơ sở vững bền cho những thành tựu văn hóa của các giai đoạn lịch sử tiếp sau của dân tộc.