Kháng chiến chống Mông – Nguyên
1. Đế chế Mông Cổ hình thành và phát triển
Đầu thế kỉ XIII, đế chế Mông Cổ hình thành. Bản đồ chính trì vùng Đông Bắc Á thay đổi. Năm 1206 đại hội quý tộc Khurintai trên bờ sông Ôdôn đã tôn Têmujin làm Thành Cát Tư Hãn (Tringit Khan nghĩa là “vua vĩ đại”). Quốc gia Mông Cổ thống nhất, một nhà nước quân sự tập quyền chuyên chế ra đời[1].
Cuộc xâm lược đầu tiên của Thành Cát Tư Hãn nhằm vào nước Tangút (Tây Hạ). Năm 1209, Thành Cát Tư Hãn lại tiến đánh nước Kim (quốc gia do tộc Nữ Chân lập nên ở Bắc Trung Quốc từ đầu thế kỉ XII). Rất nhanh chóng, quân Mông Cổ mở rộng ra cả vùng Mãn Châu, rồi chiếm lấy Trung Đô (Bắc Kinh) vào năm 1215. Sau khi cướp được nhiều của cải và tù binh, Thành Cát Tư Hãn rút quân.
Năm 1219, Thành Cát Tư Hãn mở cuộc tiến công vào vương quốc Khôretxmơ và Uốcghentrơ thất thủ. Khôretxmơ, một quốc gia đang kì thịnh đạt, từ đó trở thành hoang vắng. Đến năm 1222, quân Mông Cổ xâm nhập Adécbaigian tiến đến Grudia, vượt qua hệ núi Cápcadơ tràn vào bán đảo Cờrưm rối tiếp tục tràn vào trung bộ sông Vônga. Ở đây họ gặp sự kháng cự quyết liệt của người Bunga, nên quay trở lại Mông Cổ.
Về Mông Cổ, Thành Cát Tư Hãn không nghỉ ngơi, lại tiếp tục tiến công Tangút. Năm 1227, Tangút bị diệt, nhưng thành Cát Tư Hãn bị chết trên con Đường viễn chinh ở Cam Túc (Trung Quốc)
Thành Cát Tư Hãn chết, đế chế Mông Cổ được phân ra cho 4 người con. Con trưởng là Jotri chiếm vùng đất từ tây sông Iêtưsơ đến tận thảo nguyên Tuốcketxtan và từ hạ lưu sông Amu Đaria đến sông Xưa Đaria. Con thứ hai là Tragatai chiếm vùng thảo nguyên Casơga và lưu vực sông Ili. Con thứ ba là Ôgôđây chiếm vùng tây Mông Cổ từ giữa núi Antai đến hồ Bancasơ. Con út là Tôlui kế thừa vùng đất Mông Cổ của cha.
Năm 1228 Ôgôđây lên ngôi Hãn, chuẩn bị khẩn trương cho cuộc tiến công đánh Kim. Năm 1234, thành Thái Châu bị hạ, vua Kim là Ai Tùng tự sát Nam Tống theo điều ước tiến quân lấy đất cũ, nhưng quân Mông Cổ đã tháo nước sông Hoàng Hà ngập chìm quân Tống. Diệt xong Kim, Nam Tống trở thành miếng mồi xâm lược của vua Mông Cổ.
Năm 1236 mở đầu cho cuộc tiến công Nam Tống, tiếp tục mở rộng đế chế Mông Cổ. Ôgôđây cử 3 đạo quân tiến công mở đầu cuộc xâm lược Nam Tông 40 năm. Batu cháu nội của Thành Cát Tư Hãn chỉ huy 15 vạn quân đánh sang châu Âu. Tháng 3 - 1238 công quốc Vlađimia bị chiếm. Năm 1240 quân Mông Cổ chiếm lấy Kiếp và toàn bộ Ucraina. Tháng 3 – 1241 Caracốp (Ba Lan) bị chiếm. Tháng 4 năm này quân Mông Cổ đánh tan liên quân Ba Lan - Tiệp, rồi tiến vào đất Hunggari. Đầu năm 1242 quân Mông Cổ truy kích vua Hung đến tận bờ biển Nam Tư gần thành Vơnidơ của Ý.
Cuộc viễn chinh Ba Tư khiến cường quốc của Jotri mở rộng to lớn. Jotri lập hẳn lều vàng. Cả châu Âu kinh hoàng, khiếp sợ. Biên niên sử của tu viện thánh Pantalêon ở Côlôn đã viết: “Nỗi sợ hãi ghê gớm trước quân dã man lan tận các nước xa xôi, không những ở Pháp mà ở Buốcgông và Tây Ban Nha, là những nơi từ trước tới nay chưa hề biết đến cái tên Tácta”. Và ở Đức xuất hiện bài kinh cầu nguyện “Chúa cứu vớt chúng con khỏi sự cuồng bạo của Tácta”. Giáo hoàng La Mã Grêgô IX kêu gọi tổ chức quân Thập Tự chống lại Mông Cổ.
Năm 1241, Ôgôđây chết. Ngôi Hãn bỏ trống 5 năm. Mãi đến năm 1246 em Hãn Ôgôđây là Guyúc được cử làm Đại Hãn. Nhưng con Jotri là Ba Tu không thừa nhận. Năm 1248 Guyúc đem quân đánh lại Ba Tu, chết ở giữa Đường. Guyúc chết, Mông Ke (Mông Kha) lên thay làm đại hãn.
Mông Ke giữ ngôi đại hãn tiếp tục các cuộc viễn chinh xâm lược. Năm 1253, Mông Ke cử quân đi xâm lược Ba Tư. Sau khi chiếm Bát Đa, quân Mông Ke tiến vào Lưỡng Hà chiếm Xyri, nhưng lại bị người Ai Cập đánh lại. Chỉ huy cuộc viễn chinh này là tướng Hulêgu trở về Ba Tư lập một nước hãn mới. Nước hãn Ba Tư trên thực tế đã thoát li khỏi đại hãn Mông Cổ của Mông Ke.
Đồng thời với cuộc viễn chinh sang châu Âu và Trung Á, đại hãn Mông Ke cùng em là Khubilai (Hốt Tất Liệt) tổ chức cuộc chiến tranh vào miền Nam Trung Quốc. Năm 1271 Khubilai diệt được Nam Tống lập nên nhà Nguyên. Năm 1279, toàn bộ Trung Quốc nằm trong tay lãnh chúa Mông Cổ.
Vậy là hơn nửa thế kỉ, quý tộc phong kiến Mông Cổ đã lôi kéo phần lớn thế giới vào những cuộc chiến tranh khủng khiếp. Gươm giáo, máu lửa, tính dã man và đầu óc bành trướng của quý tộc Mông Cổ đã tạo nên một đế chế rộng lớn từ bờ Thái Bình Dương đến bên kia Hắc Hải chưa từng có trong lịch sử thế giới.
2. Kháng chiến chống xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất (1258)
Guyúc (Quý Do) chết năm 1248, nhưng mãi đến 1251 Mông Ke mới lên ngôi đại hãn. Mông Ke ráo riết chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc. Năm 1252 Mông Ke sai Khubilai (Hốt Tất Liệt) đánh chiếm Đại Lý (rồi đổi tên là Vân Nam) lấy đó làm bàn đạp mở cuộc tiến công vào Đại Việt.
Theo kế hoạch định trước thì quân Mông Cổ sẽ đánh chiếm Nam Tống theo 4 hướng tiến công. Khubilai chỉ huy một cánh quân đánh chiếm Ngạc Châu (Hồ Bắc). Một cánh quân do Tôgatrai chỉ huy đánh xuống Kinh Châu. Mông Kha chỉ huy 4 vạn quân đánh xuống Tứ Xuyên, và Uriang Khađai (Ngột Lương Hợp Thai) chỉ huy cánh quân từ Đại Lý đánh thẳng xuống Đại Việt. Từ đó đánh vào Ung Châu (Quảng Tây), Quế Châu (Quảng Tây) rồi tiến lên hợp quân với Khubilai ở Ngạc Châu.
Vậy là cánh quân của Uriang Khaiđai phải thực hiện hai nhiệm vụ: đánh chiếm Đại Việt và từ Đại Việt đánh lên Nam Tống. Chiếm được Đại Việt còn có ý nghĩa lớn sau này cho đế quốc Mông Cổ là lập được bàn đạp cho các cuộc viễn chinh xuống Đông Nam Á. Nguyên sử cho biết: “Ngột Lương Hợp Thai vào Giao Chỉ định kế ở lâu dài”.
Chiếm được Đại Việt là mục tiêu chiến lược của kế hoạch Mông Kha và đó cũng là cố gắng rất lớn của chúng. Sau khi chiếm được Đại Lý, quân số Mông Cổ chỉ còn hơn 2 vạn người. Chúng còn dùng thêm hơn 2 vạn hàng binh của tên vua đầu hàng Đoàn Hưng Trí sáp nhập làm “quân tiên phong”. Tổng số quân xâm lược do Uriangkhađai chỉ huy có thể tới 4 vạn.
Xuống gần biên giới nước ta, chúng dừng quân và cho sứ giả đưa thư vào Đại Việt đe dọa và dụ hàng. Nhưng 3 lần liên tục cử sứ giả vào Đại Việt, cả 3 lần không thấy sứ giả trở về.
Thường xuyên theo dõi tình hình và biết rõ âm mưu xâm lược của quân Mông Cổ, nhà Trần đã chuẩn bị kháng chiến. Tháng 9 - 1257 chủ trại Quy Hóa (dọc hữu ngạn sông Hồng) cho người cấp báo về triều đình tin sứ giả Mông Cổ đến. Tháng 10, vua Trần Thái Tông xuống chiếu cho các tướng điều quân thủy bộ lên miền biên giới Tây Bắc và ra lệnh cho cả nước khẩn trương chuẩn bị đánh giặc. Các sứ giả Mông Cổ láo xược đều bị tống giam ở kinh đô Thăng Long.
Không thấy sứ giả về, Uriangkhađai quyết định tiến công. Y sai Trếch Trếch Đu (Triệt Triệt Đô) và một tướng khác chia quân làm 2 đạo tiến theo tả ngạn và hữu ngạn sông Thao. Đường tả ngạn qua vùng đất các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang ngày nay xuống Bạch Hạc (Việt Trì, Phú Thọ). Đường hữu ngạn qua vùng đất Quy Hóa (Lào Cai, Yên Bái) cùng xuống Bạch Hạc. Hai đạo quân nhỏ này chỉ là quân đi trước thăm dò, dẫn đường. Theo sau là đạo quân khác do con trai của Uriangkhađai là Aju (A-thuật) chỉ huy. Và cuối cùng là đạo quân do chính Uriangkhađai tiến sau.
Tháng 1 - 1258, hai đạo quân Mông Cổ đi trước cùng đến hội quân ở Bạch Hạc. Sau đó chúng theo Đường bộ, hướng về Thăng Long đến Bình Lệ Nguyên. Ở Binh Lệ Nguyên (có lẽ là vùng Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay) nơi có sông Cà Lồ chắn ngang, vua Trần Thái Tông đã lập phòng tuyến chặn giặc.
Thấy quân ta dàn trận bên sông, Aju vội cho người quay lại báo tin với Uriangkhađai thúc quân tiến xuống. Ngày 17-1-1258 chúng kéo đến Bình Lệ Nguyên.
Uriangkhađai tiến sát bên kia sông đang tìm cách vượt qua. Y chia quân làm 3 đợt. Đội tiền phong do Trếch Trếch Đu chỉ huy vượt qua sông sang trước. Uriangkhađai dẫn đội trung quân sang sau. Còn Khaiđu và Aju dẫn hậu đội vượt sông cuối cùng.
Quân Trếch Trếch Đu vượt sông lên đến bờ bị quân ta chặn đánh quyết liệt Vua Trần Thái Tông tự mình đốc thúc tướng sĩ, xông vào trận mạc cùng binh sĩ trực tiếp chiến đấu. Tướng Lê Tần (được gọi Lê Phụ Trần) dũng cảm cưỡi ngựa xông vào trận giặc.
Địa hình Bình Lệ Nguyên khá thuận lợi cho kị binh Mông Cổ phát huy sở trường của chúng. Trận địa của ta bị lấn dần. Những tên lính Mông Cổ thiện xạ bắn vào voi của ta. Voi hoảng sợ lồng quay lại trước sức tiến công của chúng. Quân ta rời trận địa đến sách Cụ Bản thì có quân tiếp viện của tướng Phạm Cụ Chích tiếp đến. Phạm Cụ Chích đem quân ngăn chặn giặc, và ông hi sinh, nhưng quân Trần đã rút lui an toàn. Nhà vua xuống thuyền ở bến Lãng Mĩ. Quân Mông Cổ đứng trên bờ bắn theo. Lê Tần lấy ván thuyền che cho nhà Vua. Thuyền quân ta theo sông Cà Lồ xuôi về Phủ Lỗ. Âm mưu cướp thuyền, chặn Đường rút lui và bắt sống vua Trần của địch hoàn toàn thất bại. Uriangkhađai nổi giận, đổ mọi tội lỗi lên đầu tướng tiên phong. Trếch Trếch Đu hoảng sợ uống thuốc độc tự tử.
Hôm sau (18-1-1258) vua Trần cho phá cầu Phủ Lỗ và bố trí quân lập thế trận bên hữu ngạn sông ngăn địch. Đến Phủ Lỗ, Uriangkhađai thúc quân vượt sông; đánh vào trận địa quân ta. Quân ta rút lui về Thăng Long, Cố thủ không được, triều đình quyết định rút lui khỏi kinh đô để bảo toàn lực lượng. Bà Linh Từ quốc mẫu, vợ thái sư Trần Thủ Độ, chỉ đạo việc sơ tán các cung phi và gia đình các tướng, các quan lại về vùng sông Hoàng Giang (Lý Nhân, Hà Nam). Quân đội và nhà vua thì lui về vùng sông Thiên Mạc (Duy Tiên, Hà Nam).
Thăng Long yên tĩnh trống không. Quân Mông Cổ tiến vào một kinh đô vắng lặng. Chúng sục sạo khắp nơi, chỉ thấy trong nhà ngục những sứ giả mà Uriangkhađai đã phái vào Đại Việt trước đây đang gục đầu trên mặt đất. Sách Nguyên sử loại biên chép: “Ngột Lương Hợp Thai kéo quân vào đô thành thấy 3 người sứ sai sang trước đang bị giam trong ngục, người nào cũng bị những thanh tre bó chặt vào mình, sát hằn đến da, khi cởi trói ra thì một người đã bị chết”. Bọn giặc điên cuồng tàn phá kinh thành giết hại những người ở lại.
Về phía giặc, vào Thăng Long hoang vắng, gặp khó khăn về hậu cần, chúng đánh ra vùng xung quanh kinh đô để hòng cướp bóc lương thực. Nhưng ở đây cũng bị nhân dân các hương ấp chống cự quyết liệt. Tiêu biểu nhất là cuộc chiến đấu bảo vệ làng xóm của nhân dân Cổ Sở (Yên Sở, Hoài Đức, Hà Tây). Nghe tin giặc kéo đến, nhân dân Cổ Sở đã tự tổ chức lực lượng vũ trang đào hào bao quanh làng, dựng lũy chiến đấu. Khi giặc kéo đến làng, kị binh không vượt qua được hào, lại bị cung nỏ bắn ra. Chúng phải rút lui, chịu thất bại. Thắng lợi của nhân dân Cổ Sở là thắng lợi của chiến tranh nhân dân địa phương đang mở rộng xung quanh kinh đô Thăng Long. Lực lượng quân xâm lược Mông Cổ đã thất bại đầu tiên trước những cuộc chiến đấu từ xóm làng, hương ấp. Chỉ sau mấy ngày vào Thăng Long, quân Mông Cổ hoàn toàn mất hết nhuệ khí chiến đấu. Đã không có lương ăn, lại bị các làng xóm xung quanh chống lại, Uriangkhađai và bọn tướng lĩnh đều hoảng hốt đến cực điểm. Nắm vững thời cơ, triều đình nhà Trần quyết định phản công giải phóng Thăng Long.
Ngày 29-1-1258 Trần Thái Tông cùng nhiều tướng lĩnh đem binh thuyền từ sông Thiên Mạc[2] ra sông Hồng tiến tới Thăng Long. Quân ta đổ bộ lên Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng khoảng từ dốc Hàng Than đến dốc Hòe Nhai, quận Ba Đình Hà Nội) tập kích doanh trại địch.
Địch bị đánh bật khỏi kinh thành. Uriangkhađai cho quân rút theo đường cũ theo hữu ngạn sông Hồng trở về Vân Nam. Đến trại Quy Hóa, quân giặc lại bị nhân dân miền núi dưới sự chỉ huy của trại chủ Hà Bổng đổ ra đón đánh. Quan Mông Cổ bị thiệt hại nặng, hoảng sợ, cắm đầu chạy thoát thân không dám nghĩ đến chuyện cướp bóc đốt phá như khi mới tiến vào Đại Việt Nhân dân ta bấy giờ mỉa mai gọi chúng là “giặc Phật”.
Uriangkhađai thúc tàn quân chạy ra khỏi biên giới sang Vân Nam, dừng chân tại thành Áp Xích (Côn Minh). Đợt viễn chinh của Mông Cổ sang Đại Việt đến đây hoàn toàn thất bại. Uriangkhađai tướng thân tín của đại hãn Mông Ke, từng đánh Liêu, từng theo hãn Ba Tu đánh Ba Lan, Hunggari, mà đã có thời, bọn quý tộc Mông Cổ tôn xưng y là viên tướng bách chiến bách thắng nhưng nay đã thua trận trên đất Đại Việt. Theo nhà sử học Rasít Uđin thì cánh quân của Uriangkhađai tuy không lớn, nhưng có đến 50 thân vương, trong đó có Abisca con Thành Cát Tư Hãn. Đạo quân hùng mạnh nhiều tướng tài như vậy chỉ được ở Thăng Long có 9 ngày.
Kinh thành sạch bóng quân thù, ngày 5-1-1258 là ngày tết nguyên đán năm Mậu Ngọ. Trong buổi thiết triều, Trần Thái Tông phong thưởng cho các tướng lĩnh có quân công. Lê Tần và Hà Bổng là người đứng đầu, Hà Bổng được phong tước hầu.
Cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ nhất đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong nhiều thế hệ sau. Mãi đến cuối thế kỉ XIII vua Trần Nhân Tông - người anh hùng chống Nguyên còn viết:
“Bạch đầu quan sĩ tại
Văng vãng thuyết Nguyên Phong”
(Người lính già đầu bạc
Kể mãi chuyện Nguyên Phong).
3. Cuộc kháng chiến của nhân dân Chămpa
Đầu năm 1280, sau khi chiếm xong Nam Tống, Khubilai mới ra lệnh cho quan lại ở khu mật hàn lâm viện bàn với Toa Đô chiêu dụ các nước “ngoài biển” đặc biệt là Chiêm Thành. Khubilai phong cho vua Chămpa là Chiêm Thành quận vương, hàm Vinh Lộc đại phu ban hổ phù. Tháng 10 năm Tân Tỵ (11 - 1281) thì chúa Nguyên chấm dứt kiểu chiêu dụ mà đẩy mạnh chiến tranh xâm lược. Khubilai lập hành trung thư tỉnh Chiêm Thành, do Toa Đô làm hữu thừa, Lưu Thâm làm tả thừa, và binh bộ thị lang người Uigur là Ygơmicơ làm tham tri chính sự.
Vậy là bộ máy chỉ huy cuộc viễn chinh xâm lược Chiêm Thành được thành lập.
Chúa Nguyên còn ra lệnh điều động một vạn quân thủy và hơn 100 chiến thuyền; đồng thời còn bắt vua Chămpa cung cấp lương thực cho đoàn quân này. Sau đó y còn lấy những sứ giả trước đây đã đến Chămpa như bọn Mạnh Khánh Nguyên, Tôn Thắng Phu làm tuyên úy sứ Quảng Châu kiêm trông coi việc xuất chinh.
Từ thế kỉ XI, Chămpa trải qua một thời gian rối loạn, có lúc đất nước bị chia năm xé bảy. Nhưng rồi đất nước lại thống nhất, ổn định và tiếp tục phát triển về các mặt. Kinh đô Vigiaya được xây dựng đàng hoàng hơn, nhiều chùa tháp mới được dựng lên, khu thánh địa Mỹ Sơn được hoàn thành trên cơ sở lực lượng quân sự được củng cố, vua Harivarman IV nhiều lần đánh sang Chân Lạp.
Vào nửa sau thế kỉ XII, Chămpa lại suy yếu và bị Chân Lạp xâm chiếm. Quân Chân Lạp - Chămpa nhiều lần đánh lên Đại Việt nhưng đã bị đánh lui. Khoảng năm 1220 Chămpa khôi phục được độc lập và bắt đầu đặt quan hệ với nhiều nước xung quanh. Họ cũng đã biết xây thành để phòng thủ (thành Khu Túc).
Khi quân Nguyên đánh vào Chămpa thì vua Indravarman V đã già, thái tử Harijit nắm giữ các trọng trách trong nước. Harijit không chịu lùi bước trước kẻ thù, tích cực chuẩn bị kháng chiến. Năm 1282, đồng thời với việc sai Toa Đô chỉ huy quân thủy đánh Chămpa, nhà Nguyên cử 2 sứ đoàn, 1 sứ đoàn đi Xiêm có Vạn hộ Hà Tử Chí, thiên hộ Hoàng Phủ Kiệt; và 1 sứ đoàn đi Mã Bắt nhi (Mabar) có tuyên úy sứ Lưu Vĩnh Hiền và A Lan. Cả hai sứ bộ đi qua Chămpa đều bị bắt giữ lại.
Tháng 12-1282 đoàn binh thuyền của Toa Đô xuất phát từ Quảng Châu. Ngày 30-12-1282 chúng đến cảng Chămpa tức là cảng Quy Nhơn (Bình Định).
Đoàn viễn chinh xâm lược của Toa Đô vừa đặt chân lên vùng bờ biển Quy Nhơn thì quân Chămpa ra sức củng cố thành gỗ chặn Đường tiến quân của giặc. Hàng trăm cỗ pháo “Hồi hồi” - tức là loại máy bắn đá loại lớn được đưa ra để bảo vệ thành. Nhà vua Inđravarman cũng lập hành cung cách thành gỗ 10 dặm để kịp ứng viện cho quân đội.
Dụ dỗ chiêu hàng không khuất phục được vua Chămpa. Biết Chămpa quyết chiến, Toa Đô hơi chần chừ. Đến ngày 13-2-1283 Toa Đô ra lệnh cho binh thuyền xuất phát. Nửa đêm, quân Nguyên chia làm 3 mũi tấn công thành gỗ.
- Mũi thứ nhất hơn 1600 quân thủy đánh vào phía bắc, do an phủ sứ Quỳnh Châu Trần Trọng Đạt chỉ huy.
- Mũi thứ hai hơn 300 quân đánh vào doi cát phía Đông, do Tổng bả Trương Bàn chỉ huy.
- Mũi thứ ba hơn 3000 quân đánh vào mặt nam do chính Toa Đô chỉ huy.
Cuộc chiến đấu giữ thành quyết liệt, quân Nguyên phá được cửa nam thành, tràn vào, thắng thế. Quân Chămpa biết giữ không nổi, đã rút lui. Thành gỗ lọt vào tay giặc. Thành gỗ giữ cảng thất thủ là một tổn hại lớn cho người Chămpa. Vua Inđravarman thấy chưa thể ứng chiến tiếp được, nên cho quân rút vào núi, các kho tàng quân lương không chuyển kịp đều cho đốt sạch. Đồng thời trong giờ phút này, vua Chămpa cho xử tử 2 tên sứ giả của Toa Đô là Lưu Vĩnh Hiền và A Lan, để biểu thị lòng căm thù và ý chí kháng chiến của nhân dân Chămpa.
Ngày 12-2-1283, Toa Đô tiến đánh Đại Châu (hay còn gọi là Vigiaya hay sử ta gọi là Đồ Bàn, Trà Bàn) là thành lớn kiên cố (nay thuộc địa phận xã Nhân Hậu và Đập Đá, huyện An Nhơn, Bình Định). Ngày 17-2, vua Chămpa sai sứ đến “xin hàng”. Ngày 18-2 quân Nguyên tiến sát đồn phía nam thành Vigiaya, Toa Đô thả sứ Chămpa trở về. Ngày 19-2 quân Nguyên tiến vào kinh Đô Vigiaya. Kinh Đô bỏ trống, quân Chămpa đã chủ động rút quân vào rừng núi. Thấy tòa thành trống rỗng, Toa Đô lo sợ cảnh giác, cho quân đóng bên ngoài thành. Trong thời gian hòa hoãn đó, vua Inđravarman và thái tử Harijit đã xây dựng một căn cứ ở núi Nha Hầu nằm trong rừng núi sâu hiểm, có thành gỗ vững chắc, và quân số khá lớn. Đồng thời vua Chămpa còn sai sứ giả đến Đại Việt, Chân Lạp và Đồ Bà (Giava) xin quân cứu viện. Có lẽ Đại Việt đã kéo quân sang Chămpa (mà sau đó nhà Nguyên có trách là vua Đại Việt đã giúp Chămpa 2 vạn quân 500 chiến thuyền.
Sau 1 tháng, Toa Đô biết là mình đã bị lừa, liền tổ chức một cuộc tiến công vào căn cứ địa. Ngày 16-8-1283, Toa Đô sai vạn hộ Trương Ngung dẫn quân vào chỗ vua Chămpa ở. Trải qua nhiều ngày hành quân vất vả, quân Nguyên đến được dưới chân thành gỗ, nhưng chúng bị hãm vào thế tiến thoái lưỡng nan. Cuối cùng chúng phải liều chết để thoát khỏi vòng vây “mới trở về được doanh trại”.
Trước thất bại của Trương Ngung, chủ tướng Toa Đô không dám tổ chức cuộc tiến công mới nữa. Toa Đô lại rút quân từ ngoài thành Vigiaya về cảng Quy Nhơn. Tại đây chúng dựng lại thành gỗ, chấn chỉnh đội ngũ, có ý đóng quân lâu dài chờ đợi viện binh.
Bấy giờ Khubilai cũng đang có ý tăng viện cho Toa Đô. Giữa năm 1283, y điều động thêm 3 vạn quân bổ sung cho Toa Đô và cung cấp thêm vũ khí, lương thực. Tướng giặc Arickhaya đòi Đại Việt phải cung cấp lương thực và cho mượn đường xuống Chămpa.. Đại Việt từ chối. Chúng phải dùng đường thủy để làm đường tiếp viện.
Đầu năm 1285, Toa Đô rút một bộ phận quân đổ vào chiến tranh xâm lược Đại Việt Viên tham chính Ygơmítsơ (Yigmis) vẫn đóng quân cố thủ tại vùng hồ Đại Lãng. Cho đến khi cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt bị thất bại hoàn toàn thì Ygơmítsơ mới rút khỏi Chămpa. Đất nước Chămpa hoàn toàn yên bình. Cuộc kháng chiến của nhân dân Chămpa đã góp phần trì hoãn cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt và đến lượt mình, cuộc kháng chiến của nhân dân Đại Việt lại góp phần vào việc giải phóng đất nước Chămpa.
4. Kháng chiến lần thứ hai (1285)
Việc lập An Nam tuyên úy ti và sai 1000 quân hộ tống Trần Di Ái về Đại Việt năm 1282 bị thất bại. Hốt Tất Liệt luôn luôn tìm cách sách nhiễu nhà Trần, gây sự tiến công xâm lược. Khi Toa Đô thất bại ở Chămpa và 2 vạn quân Ô Mã Nhi tan tác vì bão biển thì Hốt Tất Liệt càng muốn nhanh chóng đánh chiếm Đại Việt.
Từ bài học thất bại nặng nề ở Đại Việt năm 1258 và ở Chămpa năm 1283, nên lần này Hốt Tất Liệt lại huy động một lực lượng rất lớn. Đại Việt sử kí toàn thư chép đến 50 vạn quân (trong đó có cả tàn quân thất trận ở Chămpa). Chỉ huy đạo quân viễn chinh khổng lồ này là Thoát Hoan Là Arickhaya (Alí hải nha). Thoát Hoan là con của Hốt Tất Liệt, được phong là “Trấn Nam Vương vào giữa năm 1284. Còn Alí hải nha là viên tướng người Uigur, gian hùng tàn bạo, là một trong những viên tướng chủ chốt chinh phục Nam Tống được xếp loại công thần của triều Nguyên.
Ngòi lửa chiến tranh sắp nổ. Những ngày tháng giữa năm 1282, vua tôi nhà Trần đã gấp rút chuẩn bị kháng chiến. Tháng 11 năm này, vua Trần ra Bình Than đến Trần Xá loan mở hội nghị các vương hầu quan lại. Bình Than là bến sông lớn trên cửa sông Đuống đổ vào sông Lục Đầu (nay thuộc xã Đại Than, Gia Lương, Bắc Ninh) gần thái ấp Vạn Kiếp của Trần Hưng Đạo là địa điểm quân sự hiểm yếu.
Đây là hội nghị quân sự vô cùng quan trọng. Các vương hầu võ tướng đều có mặt để bàn kế đánh giặc: Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư, vì trước đây có phạm tội, bị cách chức, ra Chí Linh (Hải Dương) làm nghề bán than, nay vua Trần tha tội cho ông gọi về hội nghị. Khánh Dư mặc áo ngắn, đội nón lá đến Bình Than nhưng đề xuất nhiều ý kiến phù hợp với vua. Hai thiếu niên quý tộc Hoài Nhân vương Kiện, Hoài Văn hầu Quốc Toản không được vào hội nghị vì còn ít tuổi. Quốc Toản đến bến Bình Than với mong muốn thể hiện ý chí diệt giặc. Không được vào Hội nghị, cậu vô cùng uất ức “đã bóp nát quả cam trong tay lúc nào không biết”. Trở về, Quốc Toản huy động hơn nghìn gia nô và thân thuộc, sắm sửa vũ khí, đóng chiến thuyền, ngày đêm luyện tập quân sự chờ khi diệt giặc lập công. Trên lá cờ của người chỉ huy trẻ tuổi có đề 6 chữ “Phá cường địch, báo hoàng ân”.
Sau Hội nghị quân sự Bình Than, các tướng lĩnh được phân chia đem quân trấn giữ những nơi hiểm yếu, quan trọng. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn được cử làm Quốc công tiết chế thống lĩnh quân đội cả nước. Chiêu Minh vương Trần Quang Khải được cử giữ chức Thượng tướng thái sư.
Trong khi quân dân cả nước đang khẩn trương chuẩn bị cho cuộc kháng chiến, Trần Quốc Tuấn ra Hịch tướng sĩ nêu nghĩa lớn cứu nước, cứu mình. Toàn văn bài hịch là lời kêu gọi thiết tha, tràn đầy tinh thần yêu nước và chí căm thù quân cướp nước như ngọn lửa bốc cao.
Quân dân ta thích vào cánh tay của mình 2 chữ “Sát thát” (giết giặc Thát Đát - chỉ quân Mông Cổ). Rồi đến tháng 1-1285, thượng hoàng Thánh Tông mời các bậc phụ lão có uy tín trong nước về Kinh Đô Thăng Long hỏi kế đánh giặc. Trong bữa tiệc ở Điện Diên Hồng, các vị đã đồng thanh hô lớn “Đánh!”. Đại Việt sử kí toàn thư ghi rõ: “Muôn người cùng nói như một miệng sinh ra”. Khắp nơi nhân dân ta thực hiện mệnh lệnh của triều đình “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến phải liều chết mà đánh. Nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng”.
Sau cuộc duyệt binh ở Đông Bộ Đầu, theo lệnh của quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo, các đơn vị chủ lực chia nhau đi đóng giữ các khu vực trọng yếu Phạm Ngũ Lão đưa quân lên biên giới Lạng Sơn, Trần Nhật Duật tới trấn giữ vùng Tuyên Quang, Hoài Thượng hầu Trần Văn Lộng giữ vững Tam Đái (Vĩnh Phúc). Còn bản doanh của tiết chế Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn lại đóng ở Nội Bàng (Khoảng Chũ, Bắc Giang).
Vào giữa năm 1284, Thoát Hoan và Arickhaya khẩn trương điều quân vào Đại Việt Hốt Tất Liệt còn ra lệnh cho Naxirut Đin (Nạp tốc lạt dinh) là tướng đóng quân ở Vân Nam tiến vào đất lộ Tuyên Quang của ta. Đồng thời Thoát Hoan còn sai người xuống Chămpa ra lệnh cho Toa Đô từ Chămpa tiến lên mặt nam của Đại Việt. Vậy là quân Mông - Nguyên muốn diệt Đại Việt bằng 3 gọng kìm đánh vào biên giới phía bắc và phía nam.
Đầu năm 1285, quân Thoát Hoan đến Ung Châu (Nam Nanh, Quảng Tây). Chúng vào biên giới Lộc Châu (thuộc Lạng Sơn) của Đại Việt.
Tại các cửa ải biên giới, đạo quân của tướng Phạm Ngũ Lão đang sẵn sàng đợi giặc. Vừa đặt chân tới biên giới, giặc phái 2 đội quân mở đường, tiến theo 2 đường khác nhau. Một đội qua Khâu Ôn (Chi Lăng, Lạng Sơn) do tên Vạn hộ Bôkhađa (Bột la cáp đáp nhi) chỉ huy và một đội theo con đường phía Đông qua ải Khâu Cấp (có lẽ là núi Khau Túc ở Tầy nam huyện Lộc Bình) tức là con đường từ Lộc Bình đi Sơn Động (Bắc Giang). Đội quân này do Xatáctai (Tán đáp nhi tai) và vạn hộ Lý Bang Hiến chỉ huy. Còn đại quân của Thoát Hoan và Alí hải nha thì theo phía Đông.
Ngày 22-1285, quân giặc chia làm 6 mũi đánh vào Nội Bàng (Bắc Giang). Trần Quốc Tuấn chỉ huy đại quân chặn giặc. Nhưng trước thế giặc còn mạnh, quân còn Đông, quân ta bị tổn thất. Đại liêu ban Đoàn Thai bị bắt. Cùng lúc đó, cánh quân Nguyên do Bônkhađa chỉ huy theo đường phía tây cũng vượt qua ải Khâu Ôn đánh chiếm cửa quan Lão Thử (ải Chi Lăng, Lạng Sơn). Trước tình hình đó, Trần Quốc Tuấn thấy không thể chặn được địch, quyết định lui quân về Vạn Kiếp. Bấy giờ, tướng Yết Kiêu đang giữ thuyền ở bến Bãi (trên sông Lục Nam) đợi Trần Quốc Tuấn, Quốc Tuấn dự định rút theo đường núi, nhưng Dã Tượng nói: “Yết Kiêu chưa thấy đại vương, tất chưa chịu dời thuyền” và Trần Quốc Tuấn đến bến Bãi quả nhiên thấy Yết Kiêu còn chờ.
Trần Quốc Tuấn xuôi về Vạn Kiếp an toàn. Chính trong giờ phút rút lui nguy nan đó, tiết chế Trần Quốc Tuấn nhận ra vai trò to lớn của người vệ sĩ gia nô Yết Kiêu và ông đã kêu lên: “Ôi, chim hồng hộc có thể bay cao được là nhờ có 6 chiếc trụ cánh. Nếu không có 6 trụ cánh thì cũng như chim thường mà thôi”.
Thuyền chủ tướng Trần Quốc Tuấn xuôi sông Lục Nam về Vạn Kiếp. Nghe tin quân ta rút lui, vua Thánh Tông vội vã đi thuyền ra tìm gặp Quốc công tiết chế. Trời chiều, nhà vua vẫn chưa ăn sáng, người lính cận vệ nấu phần gạo xấu của mình dâng lên. Thánh Tông vờ hỏi Thống soái “thế giặc như thế, ta phải hàng thôi”. Trần Quốc Tuấn nghiêm chỉnh trả lời “Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng”
Trần Quốc Tuấn tập trung binh lực lớn ở Vạn Kiếp. Ông lấy thêm quân lộ Hải Đông (Hải Dương, Quảng Ninh) và quân các vương hầu. Ba người con trai của ông là Hưng Vũ vương Hiếu, Hưng Nhượng vương Tảng, Hưng Trí vương Nghiễn cùng với Minh Hiến vương Uất kéo quân về đây với khoảng 20 vạn người.
Ngày 11-2-1285, địch tiến công phòng tuyến Bình Than. Quân bộ đánh vào các cứ điểm ở hai bên bờ sông như Vạn Kiếp, núi Phả Lại. Quân ta chống trả mãnh liệt. Trong trận Vạn Kiếp, tướng giặc là vạn hô Nghê Nhuận bỏ mạng ở Lưu Thôn. Vua Trần dẫn quân về tăng viện cho Trần Quốc Tuấn. Cuộc chiến đấu kéo dài liên tục 4 ngày. Ngày cuối cùng, 14-2-1285, bọn tướng Nguyên là Ômô, Nakhai, Tôn Lâm Đức đã đem chiến thuyên giao chiến với quân ta do vua Trần chỉ huy trên vùng sông nước Bình Than.
Quân ta rút lui khỏi Vạn Kiếp. Vua Trần và quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn xuôi thuyền về Thăng Long.
Ngày 17-2-1285, quân Nguyên kéo tới bờ Bắc sông Hồng. Quân ta chặn đánh. Chúng không qua được sông. Đến chiều, vua Trần muốn phái một người sang trại Ô Mã Nhi, vờ cầu hòa cốt để thăm dò tình hình. Đỗ Khắc Chung xin đi, Trần Thánh Tông mừng nói “không ngờ trong đám ngựa kéo xe muối lại có ngựa kì, ngựa kí”. Trong trại giặc, Đỗ Khắc Chung bình tĩnh đối phó, ứng đối linh hoạt, khiến cho Ô Mã Nhi phải khâm phục. Sáng hôm sau, 18-2-1285, Đỗ Khắc Chung trở về doanh trại quân ta. Ô Mã Nhi hối tiếc vì đã thả Khắc Chung, Y cho quân đuổi theo, nhưng không kịp.
Trong khi vua Nhân Tông và Hưng Đạo vương đang đối phó với đạo quân của Thoát Hoan thì ở phía Tuyên Quang, võ tướng chưa đầy 30 tuổi Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật cũng đang chiến đấu chống giặc từ Vân Nam tràn xuống. Quân giặc do viên bình chương chính sự Vân Nam là Naxirut Đin chỉ huy. Trần Nhật Duật đóng quân tại trại Thu Vật (vùng Yên Bình, Yên Bái). Giặc tiến ông từ nhiều phía, quân ta giao chiến vài trận rồi rút lui. Naxirút Đin cho quân chặn đường. Biết trước quỷ kế của chúng, Trần Nhật Duật bỏ thuyền lên bộ, thoát khỏi vòng vây.
Ngày 20-2-1285 (rằm tháng giêng năm Ất Dậu), cánh quân của Trần Nhật Duật về đến Bạch Hạc, quân ta dừng lại bên bờ sông (khoảng gần cầu Việt Trì ngày nay) cắt tóc tuyên thệ trước thần linh “dốc hết lòng trung để báo đền quân thượng” . Sau đó, quân ta theo đường núi về mạn hạ lưu sông Hồng.
Thượng hoàng Thánh Tông và vua Nhân Tông theo sông Hồng về Thiên Trường (Nam Định). Thoát Hoan vừa chiếm được Thăng Long vội vàng sai quân đuổi theo.
Đến vùng Thiên Mạc (khoảng xã Châu Giang và huyên lị Duy Tiên, Hà Nam) Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng chiến đấu vô cùng dũng cảm để bảo vệ đường rút quân của ta. Nhưng vì quân ta ít, Trần Bình Trọng bị giặc bắt. Chúng vừa đe dọa vừa dụ dỗ, nhưng Bình Trọng không hề khuất phục. Ông nhịn ăn, không thèm trả lời câu hỏi của giặc. Chúng lại mua chuộc ông bằng tước vương, ông mắng lại: “ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Ngày 26 tháng 2 năm 1285, giặc giết ông.
Rời Thăng Long về Thiên Trường, Trường Yên, Trần Quốc Tuấn và vua Trần thấy rằng cần củng cố mặt trận phía nam, nhằm chặn đường tiến ra của Toa Đô, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật được lệnh vào trấn giữ Nghệ An, Chương Hiến hầu Trần Kiện vào Thanh Hóa. Rồi đến ngày 5-3-1285, vua Trần lại cử tiếp thượng tướng thái sư Chiêu Minh vương Trần Quang Khải vào tăng cường cho Nghệ An.
Alí hải nha và Thoát Hoan cố gắng kiểm soát vùng chiếm đóng. Chúng phân bố nhiều quân sĩ dựng đồn trại nhiều nơi, nhưng các đồn trại của chúng phân tán lại là mục tiêu cho các lực lượng dân binh địa phương, các Vương hầu quý tộc bao vây và tiêu diệt. Nhân dân làng Cổ Sở lại tiếp tục đào hào dựng lũy lập “làng chiến đấu” (như trong kháng chiến lần trước, 1258).
Ở miền biên giới phía bắc, Nguyễn Thế Lộc, một hào trưởng dân tộc Tày, được triều đình cử làm quản quân. Quân của ông có nhiều người Tày và có cả quân chủ lực triều đình. Gia nô của Trần Quốc Tuấn cũng có mặt trong cánh quân Nguyễn Thế Lộc. Khi quân Nguyên qua biên giới, Nguyễn Thế Lộc còn giữ Thất Nguyên (Tràng Định, Lạng Sơn) giờ đây ông cho quân hoạt động hầu khắp lộ Lạng Sơn đến ải Chi Lăng.
Nắm vững tình hình địch, tiết chế Trần Quốc Tuấn và Phạm Ngũ Lão đem hơn 1000 chiến thuyên từ Long Hưng (Hưng Hà, Thái Bình) đến Vạn Kiếp. Đại quân ta ngược sông Thái Bình, qua lộ Hải Đông. Lực lượng địch ở đây mỏng, yếu, nên quân Trần chiếm Vạn Kiếp không khó khăn lắm.
Tin Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đóng quân tại Vạn Kiếp khiến cho Thoát Hoan hoảng sợ. Y vội vàng gửi thư về nước cầu cứu viện binh. Vậy là quân Thoát Hoan và Alí hải nha đang bị cô lập. Bốn mặt chung quanh đều gặp sức chiến đấu của ta.
Ở mặt Nam, từ Thanh - Nghệ trở vào tình hình có khác ngoài Bắc. Quan ta gặp nhiều khó khăn. Tháng 2 - 1285, Toa Đô, Giảo Kì từ Chămpa đánh ra Bố Chính (Quảng Bình). Trần Nhật Duật và Trịnh Đình Toản vừa mới vào đất Nghệ An chống cự không nổi, Toa Đô chiếm Nghệ An, Trần Quang Khải tăng viện nhưng không kịp. Toa Đô tiến ra Thanh Hóa, quý tộc Chương Hiến hầu Trần Kiện cùng bọn Lê Trắc đầu hàng và dẫn đường cho giặc tiến đánh quân ta.
Cuộc chiến đấu chống quân Toa Đô của nhân dân Thanh Hóa rất kiên cường. Ngày 9 - 3, tướng Nguyên là Giảo Kì thúc quân đến Bố Vệ (Cầu Bố, Thanh Hóa). Nhân dân trong vùng nổi lên đánh địch. Dân hương Yên Duyên (xã Quảng Hùng, Quảng Xương, Thanh Hóa) dưới sự chỉ huy của đại toát Lê Mạnh đã chống cự quyết liệt. Văn bia chùa Hưng Phúc (tại địa phương) ghi rõ: “Hữu tướng giặc là Toa Đô tiến quân vào hương này. Ông đem người trong hương chặn giặc ở bến Cổ Bút. Hai bên đánh nhau, giặc cơ hồ không rút chạy được. Nhưng vì có kẻ gian hàng giặc chỉ đường nên nhà cửa của ông bị đốt phá.
Ngày 13 - 3, Trần Kiện lại dẫn đường cho bọn Giảo Kì tiến đánh quân Chiêu Minh vương Quang Khải ở bến Phú Tân. Cuộc chiến đấu ác liệt, có sự tham gia của Văn Túc vương Đạo Tái (con Trần Quang Khải) và Tá Thiên vương Đức Việt (con Thánh Tông). Một số võ quan như Chiêu Hiến vương (không rõ tên) và đại liêu Hộ hí sinh. Chưa thể chặn bước tiến của giặc Trần Quang Khải cho lùi quân.
Giữa tháng 3 - 1285, chiến cuộc vẫn gay go phức tạp. Quân Trần tiến về Thăng Long, nhưng sau trận thử sức lại phải lui. Thoát Hoan lại thúc quân đánh xuống Thiên Trường, Trần Quốc Tuấn lại rút quân từ Vạn Kiếp về Thiên Trường. Cuộc rút quân thật tài tình; ông cho quân xuống phía Đông ở các lộ ven biển, chờ cho quân Toa Đô tiến ra phía bắc thì vượt biển vào Thanh Hóa.
Vua Trần theo sông Hồng ra cửa Giao Hải (cửa sông Hồng ở Giao Thủy, Nam Định) rồi ngược lên phía bắc quay vào nguồn Tam Trĩ (Ngã Ba Chẽ, Quảng Ninh) để đánh lừa giặc. Ngày 7-4-1285, vua Trần hành quân bộ từ Tam Trĩ về Thủy Chú (khoảng huyện lị Yên Hưng, Quảng Ninh) rồi đi thuyền ra cửa Nam Triệu vào Thanh Hóa. Ngày 15-4, giặc Nguyên đuổi đến Tam Trĩ thì vua Trần đã đi khỏi nơi đây.
Khi đại quân rút lui khỏi Thiên Trường, một số quý tộc dao động, hèn nhát đầu hàng giặc như Chiêu Quốc vương Trần ích Tắc, Văn Nghĩa hầu Trần Tú Hoãn, Văn Chiêu hầu Trần Văn Lộng. Một số quan lại nhà Tống, sau khi mất nước đã chạy sang Đại Việt cũng quay ra đầu hàng quân Nguyên.
Trên đường vượt biển, Trần Nhân Tông viết lên đuôi thuyền câu thơ:
“Cối Kê cựu sự quân tu kí
Hoan Diễn do tồn thập vạn binh”.
(Chuyện cũ Cối Kê người nên nhớ
Hoan Châu, Diễn Châu vẫn còn 10 vạn quân)
Vào lúc ấy, Toa Đô kéo quân từ Thanh Hóa ra Trường Yên (Ninh Bình). Y sai các tướng Tanggutai, Giảo Kì ra Thiên Trường gặp Thoát Hoan báo cáo về tình hình mệt mỏi, khốn quẫn và nhiều thất bại từ ngày ở chiến trận Chămpa. Thoát Hoan lại ra lệnh cho Toa Đô đóng quân ở Trường Yên tự “kiếm lương ăn” (có nghĩa là cho phép Toa Đô thả quân cướp bóc). Vậy là cả hai đạo quân Thoát Hoan và Toa Đô đều đã hết lương thực, cả hai đều không nuôi nổi mình. Vì vậy nên, như Nguyên sứ ghi “Toa Đô vẫn phải đóng cách đại doanh hơn 200 dặm”. Chúng vẫn phân tán mà hậu cần mang theo lại cạn kiệt. Tình hình ngày càng căng thẳng.
Biết vua Trần đã vào Thanh Hóa, Thoát Hoan lại ra lệnh cho Toa Đô từ Trường Yên vào Thanh Hóa để đuổi theo quân ta. Ô Mã Nhi còn phải đưa 60 chiếc thuyền với 1300 quân phối hợp với Toa Đô. Toa Đô gượng gạo lên đường. Binh sĩ ốm yếu, đói khát hành quân chậm chạp, thậm chí có bộ phận ở lì tại Trường Yên, Toa Đô không thực hiện được mệnh lệnh của Thoát Hoan.
Vào cuối tháng 4 - 1285, nắng hè đổ xuống, “quân Nguyên vốn ở vùng khô, lạnh giờ đây bị đau ốm liên miên gặp lúc nắng mưa, bệnh dịch hoành hành”. Rồi mùa mua ập đến lại làm cho chúng thêm khốn khổ “nước lụt dâng to, ngập ướt doanh trại”.
Tháng 5 - 1285, Thoát Hoan sai Manglai Siban (Minh lý tí Tích ban) đưa bọn phản bội Trần Kiện, Trần Tú Hoãn sang Trung Quốc. Khi chúng đến Lạng Sơn thì gặp đội dân binh Tày do Nguyễn Thế Lộc và em là Nguyễn Lĩnh tập kích tại trại Ma Lục vùng Chi Lăng. Cả bọn Việt gian cùng quân hộ tống đều bị bao vây. Nguyễn Địa Lô, gia nô trung thành của Trần Hưng Đạo bắn chết Trần Kiện. Thuộc hạ của Kiện là Lê Trắc ôm xác Kiện chạy đến Khâu Ôn mới chôn.
Tháng 5 - 1285, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn và Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, cùng nhiều tướng lĩnh khác đưa binh thuyền ra Bắc. Chiến lược phản công bắt đầu.
Mục tiêu trước hết của quân ta là đánh tan các đồn trại của quân giặc ở cùng Khoái Châu (Hưng Yên). Đánh tan các đồn trại này là chia cắt được quân Thoát Hoan và quân Toa Đô, đồng thời uy hiếp trực tiếp Thoát Hoan, tiếp tục đẩy quân Thoát Hoan vào thế cô lập bị động. Bộ phận quân Nguyên đóng ở dọc sông Hồng có quân của Toa Đô do Giảo Kỳ chỉ huy. Chúng đã bị thua ở Chămpa chạy ra Thanh Hóa rồi đến Trường Yên, sau đó ra Thiên Trường nên mệt mỏi. Vua Trần đã nhận xét “quân giặc đi xa nhiều năm, lương thảo chuyên chở hàng vạn dặm, thế tất mệt mỏi. Lấy nhàn chống mệt, trước hãy làm chúng nhụt chí, thì ắt đánh bại được”.
Đồng thời, trong kế hoạch phản công, Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn lại tự mình đảm nhiệm công việc kéo quân lên vùng Bắc Giang diệt địch trên con đường tháo chạy. Biết chắc kế hoạch phản công nhất định thắng lợi, ông để các tướng Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đánh vào đến trại của giặc ở dọc sông Hồng rồi tiến lên giải phóng Thăng Long; còn tự mình cầm đại quân hợp vây diệt địch.
Trên đường tiến về Vạn Kiếp, quân Trần Quốc Tuấn đánh chiếm đồn A Lỗ ở mạn sông Luộc tiếp giáp sông Hồng. Tướng giặc là Vạn hộ Lưu Thế Anh bỏ chạy về Thăng Long. Đây là đồn quan trọng của giặc ở ven biển Thiên Trường.
Vào cuối tháng 5 - 1285, đạo quân của Trần Quang Khải ngược sông Hồng đánh vào 2 cứ điểm quan trọng nhất của địch là Tây Kết và Hàm Tử. Tây Kết và Hàm Tử là 2 địa điểm bên tả ngạn sông Hồng, cách nhau 2 km, gần bãi Màn Trù (Khoái Châu, Hưng Yên). Chiêu Thành vương (không rõ tên), tướng quân Nguyễn Khoái và Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản chỉ huy quân đánh Tây Kết. Đồn Tây Kết bị diệt; đồng thời Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật cùng các tướng khác đánh vào Hàm Tử.
Trong đội quân của Trần Nhật Duật lại có nhiều binh sĩ nhà Tống. Khi đóng quân ở lộ Tuyên Quang, Nhật Duật đã thu nhận họ. Họ là những người mong muốn đánh được quân Mông Nguyên, nên khi sang Đại Việt, họ kề vai với quân dân ta chiến đấu chống kẻ thù chung. Trong số đó có Triệu Trung làm gia tướng của Nhật Duật đã chiến đấu dũng cảm ở trận Hàm Tử, lập công lớn.
Cùng thời gian đó, Trần Quang Khải và các tướng khác đánh vào căn cứ Chương Dương (bên hữu ngạn sông Hồng, đối diện với Hàm Tử, nay thuộc địa phận làng Chương Dương, Thường Tín, Hà Tây). Phối hợp với quân Trần Quang Khải còn có đạo dân binh ở các lộ kéo về do Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp và Nguyễn Truyền chỉ huy. Cứ điểm Chương Dương của giặc bị tiêu diệt nhanh chóng, tàn quân địch rút về Thăng Long.
Sau các chiến thắng Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, quân ta tiến lên bao vây Thăng Long, quân thủy bộ từ các mặt áp sát, tiến công dữ dội. Địch ra sức cố thủ. Sử liệu Trung Quốc ghi “quân thủy và quân bộ tiến đánh đại doanh, vây quanh thành mấy vòng: Tuy tử trận nhiều, nhưng quân tăng thêm càng Đông. Quan quân (chỉ quân Nguyên) cố đánh từ sáng đến tối, mệt mỏi, thiếu thốn, khí giới đều hết”.
Trước tình cảnh hiểm nghèo, chúng liều chết phá vây vượt qua sông Hồng chạy sang Gia Lâm. Kinh thành Thăng Long sau mấy tháng bị chiếm đóng nay được hoàn toàn khôi phục.
Toán quân Giảo Kỳ và Tanggutai bị đánh ở dọc sông Hồng, đến ngày 9-6-1285 kéo đến Thăng Long tìm gặp Thoát Hoan. Nhưng Thoát Hoan đã bị bại, chạy sang Gia Lâm. Giảo Kỳ đụng đầu với quân ta ở Thăng Long, hoảng sợ bỏ chạy sang Gia Lâm tìm gặp Thoát Hoan. Thoát Hoan ra lệnh rút quân.
Sức đã tàn, thế đã yếu, Thoát Hoan rút theo hướng Vạn Kiếp. Hưng Đạo vương Quốc Tuấn và Hưng Ninh vương Trần Tung chỉ huy 1 vạn quân chặn đánh. Cuộc chiến đấu quyết liệt có lẽ diễn ra ở vùng Quế Võ (Bắc Ninh). Vạn hộ Lưu Thế Anh, tên tướng trước đó đã bị thua ở trận A Lỗ, giờ đây giữ chức tiên phong lại bị đánh tơi bời. Cả đạo quân của Thoát Hoan phải chạy sang phía sông Như Nguyệt (Bắc Ninh) hòng trốn tránh chủ lực ta. Nhưng đường đi của Thoát Hoan cũng không ngoài dự kiến của Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn.
Quan Thoát Hoan đang cố vượt qua sông Như Nguyệt thì gặp ngay quân của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản đổ ra đánh. Đạo quân của người anh hùng trẻ tuổi này lại lập chiến công. Bị đánh vào lúc đang vượt sông, quân Nguyên bị tổn thất nặng.
Thua đau ở Như Nguyệt, quân Thoát Hoan chạy sang Vạn Kiếp. Đến đây chúng sa vào cạm bẫy phục kích của Tiết chế Trần Quốc Tuấn bố trí trước. Sông Thương chặn trước mặt, giặc lại bắc cầu phao. Đợi khi đại quân giặc đang qua cầu, quân ta đổ ra đánh mạnh ngang sườn. Bị bất ngờ, đội ngũ giặc rối loạn chúng xô đẩy nhau. Cầu phao bị đứt, số lớn bị đổ xuống sông chết đuối, quân đi sau cũng bị tập kích chết rất nhiều, Tanggutai thoát chết.
Chiến thắng Vạn Kiếp làm cho đại quân Thoát Hoan hoảng loạn, tiền quân tan tác, hậu quân rêu rã. Thoát Hoan phải sai Lý Hằng cố gắng chỉ huy đám tàn quân này và mở đường máu chạy về biên giới Lạng Sơn.
Trên đất biên giới, quốc công tiết chế đã bố trí quân chặn giặc ở các cửa ải hiểm yếu đợi chúng. Tại Vĩnh Bình, quân của Hưng Vũ vương Hiến đang phục sẵn. Giặc vừa tới, tên thuốc độc bắn xối xả, tướng giặc hoảng sợ phải giấu Thoát Hoan vào ống đồng khiêng chạy. Lý Hằng bị tên thuốc độc bắn vào đầu gối trái, được một vệ sĩ công tới biên giới. Tì tướng của Hằng là Lý Quán cũng bị quân của Hưng Vũ vương bắn chết.
Cùng lúc đó ở biên giới phía tây bắc, tàn quân của Naxirút Đin cũng tìm đường về Vân Nam, khi qua huyện Phù Ninh (nay thuộc Phong Châu, Phú Thọ), lại gặp đội dân binh của phụ đạo Hà Đặc. Đây là lực lượng vũ trang của dân tộc thiểu số chiến đấu rất ngoan cường. Sách Toàn thư chép “Giặc đến huyện Phù Ninh, mà phụ đạo huyện ấy là Hà Đặc lên núi Trĩ Sơn cố thủ, Giặc đóng ở động Cự Đà (có thể là xã Tử Đà huyện Phong Châu, Phú Thọ). Hà Đặc lấy tre đan thành những hình người to lớn cứ đến chiều tối thì dẫn ra dẫn vào. Lại dùi thủng cây to cắm tên lớn vào giữa lộ, để giặc ngờ là có sức bắn khỏe xuyên suốt được. Giặc sợ không dám đánh nhau với Đặc, quân ta hăng hái xông lên đánh bại được giặc. Đặc đuổi đánh đến A Lạp bắc cầu phao qua sông, hăng hái quá bị tử trận. Em là Chương bị giặc bắt, lấy trộm được cờ xí, y phục của giặc trốn về, đem dâng lên, xin dùng cờ xí giả làm quân giặc đến trại giặc. Giặc không ngờ là quân ta, do vậy đã cả phá được chúng”.
Khi quân chủ lực của Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn đang tổ chức những trận đánh tiêu diệt đạo quân Toa Đô, thì ngày 24-6-1285, đại quân của nhà vua tiến công quyết liệt vào đoàn thuyền Toa Đô, tướng giặc Trương Hiền đầu hàng. Đồng thời cũng ở Tây Kết, quân ta lại phá tan được binh thuyền giặc. Toa Đô bị chém đầu. Ô Mã Nhi và Lưu Khuê lấy thuyền nhẹ chạy ra biển.
Đến đây, sau một tháng liên tục phản công quyết liệt bằng những trận quyết chiến, quân ta đã lập nên những chiến công vang dội có ý nghĩa chiến lược. Các trận Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long, Vạn Kiếp, đã tiêu diệt và quét sạch 50 vạn quân xâm lược ra khỏi bờ cõi Tổ quốc. Cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên năm 1285 đã kết thúc thắng lợi.
Ngày 9-7-1285, thượng hoàng Thánh Tông và vua Nhân Tông cùng triều đình và quân dân tiến vào Đô thành Thăng Long. Nhìn lại những chiến công chói lọi, tự hào và tin tưởng vào đất nước hùng mạnh, thượng tướng thái sư Chiêu Minh vương Trần Quang Khải đã viết bài thơ khải hoàn:
“Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm tử quan
Thái Bình tu trí lực
Vạn cổ cựu giang san”.
5. Kháng chiến lần thứ ba (1288)
Hai lần xâm lược, hai lần bị thất bại thảm hại, vua Nguyên Hốt Tất Liệt mất mặt, tức tối muốn tổ chức ngay cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ ba hòng trả thù, đồng thời cũng để gấp rút đánh thông con đường bành trướng xuống Đông Nam Á. Hốt Tất Liệt bãi bỏ kế hoạch đánh Nhật Bản đã được chuẩn bị từ trước để tập trung lực lượng cho cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần này.
Toàn bộ quân viễn chinh lần thứ ba lại đặt dưới quyền thống lãnh của thân vương Thoát Hoan với tước hiệu Trấn Nam vương như cũ. Khác với hai lần trước, lần này ngoài bộ binh (bao gồm cả kị binh), nhà Nguyên còn dùng một lực lượng thủy binh khá mạnh và mang theo lương thực đầy đủ. Với tổng số khoảng 30 vạn quân chúng chia thành ba đạo:
- Đạo quân do Thoát Hoan chỉ huy từ Quảng Tây theo đường Lạng Sơn tiến vào.
- Đạo quân do Ái Lỗ chỉ huy từ Vân Nam theo sông Hồng tiến xuống.
- Đạo quân thủy do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy với hơn 600 chiến thuyền từ Quảng Đông vào vịnh Hạ Long theo sông Bạch Đằng tiến vào hội quân ở Vạn Kiếp (Chí Linh, Hải Dương).
Ngoài ra, có một đoàn thuyền vận tải do Trương Văn Hổ giữ chức Giao Chỉ hài thuyên Vạn hộ cầm đầu, chở 70 vạn thạch lương theo sau.
Các tướng giặc chỉ huy cuộc viễn chinh lần thứ ba đều là những tên thiện chiến, hầu hết rất quen thuộc với chiến trường Đại Việt. Thoát Hoan giữ chức Tiết chế tổng chỉ huy là kẻ cầm đầu cuộc xâm lược lần trước.
Khác với lần trước, lần này bọn xâm lược đặc biệt chú trọng thủy quân. Trong chiến tranh lần thứ hai, chúng dùng thủy quân khá nhiều, nhưng tác dụng chẳng được bao nhiêu. Lần này đem quân vào một nước sông ngòi chằng chịt, chúng lại tăng cường thủy quân rất mạnh, thành một đạo quân chiến lược dưới quyền chỉ huy của những tên tướng dày kinh nghiệm.
Lần thứ hai Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn lại được cử làm Quốc công Tiết chế lĩnh sứ mệnh tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang. Qua kinh nghiệm dày dạn phong phú của hai cuộc kháng chiến trước, ông đề ra kế hoạch đánh giặc rất chủ động. Buổi đầu trước thế mạnh của địch, quân ta rút về vùng ven biển để bảo toàn lực lượng. Nhưng khắp nơi, nhân dân trên đường tiến quân của giặc và trong vùng chiếm đóng đều được lệnh cất giấu lương thực, kiên quyết triệt nguồn tiếp lương của chúng, đồng thời cùng với dân binh đẩy mạnh hoạt động đánh địch làm cho chúng tiêu hao sinh lực, ăn không ngon, ngủ không yên, đẩy quân địch lâm vào thế bị động.
Được tin giặc sắp tràn vào biên giới, vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Quốc Tuấn: “Giặc tới, liệu tình hình thế nào?”. Vị Tiết chế khẳng định: “Năm nay đánh giặc nhàn”.
Lần này Trần Quốc Tuấn và triều đình rất chú trọng đến chiến trường ven biển Đông bắc. Đó là đường tiến quân của thủy quân và đoàn thuyền tải lương của giặc. Phó tướng Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư được Hưng Đạo vương giao cho mọi công việc về biên thùy ven biển và Phán thủ thượng vi Nhân Đức hầu Trần Toàn có nhiệm vụ ngăn chặn thủy quân giặc.
Vùng biển Đông bắc, thủy binh của Ô Mã Nhi bị quân ta đánh ở Ngọc Sơn (Mũi Ngọc, Quảng Ninh). Thủy quân ta do Trần Toàn chỉ huy đã đặt phục binh trước, nhưng vì tương quan lực lượng rất chênh lệch, quân địch khí thế đang hăng nên đạo quân của Trần Toàn, có nhiệm vụ tiêu diệt đội thuyền đi sau của chúng. Trận Mũi Ngọc quân ta thu được thắng lợi lớn “giặc chết đuối rất nhiều, ta bắt sống 40 tên và thu được thuyền, ngựa, khí giới, đem về dâng”. Tuy có bị một số thiệt hại như vậy, nhưng lực lượng thủy binh của Ô Mã Nhi vẫn rất mạnh, chúng vượt qua vùng biển Hạ Long và An Bang (Quảng Ninh) và gặp quân phục kích của Trần Khánh Dư. Tại đây đã diễn ra trận giao chiến khá quyết liệt, nhưng không ngăn cản được đạo quân của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp. Chúng ngược sông Bạch Đằng kéo vào Vạn Kiếp hội quân với Thoát Hoan. Đến đầu tháng 2 năm 1288 quân số địch ở Vạn Kiếp tăng lên 30 vạn.
Tin Trần Khánh Dư thất trận về tới triều đình, thượng hoàng Trần Thánh Tông sai quan đến trách hỏi. Trần Khánh Dư thưa “Lấy quân pháp mà xử, tôi cam chịu tội, nhưng xin khất hai, ba ngày để mưu lập công rồi về chịu tội búa rìu cũng chưa muộn”. Ông biết chắc rằng theo sau đạo binh thuyền của Ô Mã Nhi còn có đoàn thuyền lương 70 vạn thạch do Trương Văn Hổ chỉ huy. Bởi vậy Trần Khánh Dư khẩn trương chuẩn bị cho trận phục kích mới ở Vân Đồn - Cửa Lục.
Một ngày thượng tuần tháng 2, đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ theo gió mùa Đông bắc nặng nề tiến vào trận địa mai phục của ta. Dưới sự chỉ huy của Trần Khánh Dư, quân ta tiêu diệt sạch đoàn thuyền lương của chúng. Chủ tướng hải thuyền Vạn hộ họ Trương vội vã lấy một thuyền nhẹ chạy tháo mạng về Quỳnh Châu (đảo Hài Nam, Trung Quốc).
Chiến thắng Vân Đồn - Cửa Lục đánh vào chỗ yếu có tính chất chiến lược của địch, làm phá sản từ đầu kế hoạch tiếp tế lương thực của Thoát Hoan, tạo điều kiện thuận lợi cho quân dân ta nhanh chóng chuyển lên phản công chiến lược. Các nhà sử học thời Lê nhận xét: “Cho nên, năm này vết thương của dân không thảm như năm trước. Khánh Dư có phần công lao trong đó”.
Về phía địch, sau cuộc hội quân thủy, bộ ở Vạn Kiếp, Thoát Hoan cố xây dựng vùng đất này thành một căn cứ quân sự. Y để một số quân đóng giữ Vạn Kiếp rồi đưa đại bộ phận lực lượng tiếp tục tiến về Thăng Long. Đạo quân dân ta tạm thời rút khỏi kinh thành. Từ Thăng Long, chủ tướng Thoát Hoan huy động một lực lượng quân thủy bộ dọc sông Hồng đuổi theo ráo riết. Ô Mã Nhi đe dọa vua Trần “Ngươi chạy lên trời, ta theo lên trời; ngươi chạy xuống đất ta theo xuống đất; ngươi trốn lên núi ta theo lên núi; ngươi lặn xuống nước ta theo xuống nước”[3].
Nhưng Ô Mã Nhi không sao bắt được những người lãnh đạo chủ chốt của ta. Quân giặc tức tối mặc sức tàn sát nhân dân. Chúng sục sạo vào phủ Long Hưng quật mộ Thái Tông Trần Cảnh vị vua anh hùng của cuộc kháng chiến lần thứ nhất. Chúng triệt hạ nhiều điền trang, thái ấp ở Ngư Thiên, Hồng Châu, Hải Đông, gây trăm ngàn tội ác. Sử nhà Nguyên cũng phải ghi nhận “đốt phá chùa chiên, đào bới lăng mộ, cướp giết người già trẻ em, tàn phá sản nghiệp của trăm họ, không có điều gì không làm.
Một dải đồng bằng từ Thăng Long đến các lộ Hồng, Khoái tiêu điều xơ xác.
Hậu cần bao giờ cũng là một vấn đề then chốt của bất cứ một quân đội nào. Quân Nguyên sang cướp nước ta lần này hậu cần tại chỗ không có, bao nhiêu hi vọng và tham vọng chỉ trông chờ vào đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ. Đã gần hai tháng đóng ở Thăng Long, mấy chục vạn quân Nguyên lâm vào tình trạng thiếu lương thực nghiêm trọng. Thoát Hoan lại phái quân ra bờ biển Đông bắc tìm thuyền lương Trương Văn Hổ đến cửa Đại Bàng (Hải Phòng) bị quân ta chặn đánh, bất được hơn 300 chiến thuyền. Tuy bị tổn thất nặng nề, nhưng Ô Mã Nhi vẫn buộc phải cố gắng đi tìm kiếm đoàn thuyền lương. Đến Tháp Sơn (Đồ Sơn, Hải Phòng), chúng lại bị quân ta đón đánh, nên Ô Mã Nhi buộc phải theo sông Bạch Đằng tìm đường trở về lại Vạn Kiếp.
Sau chiến thắng Vân Đồn - Cửa Lục, Trần Khánh Dư sai người chạy ngựa tâu báo với vua Trần. Thượng hoàng Trần Thánh Tông bàn: “Chỗ trông cậy của quân Nguyên là lương thảo, khí giới, nay đã bị ta bắt được, sợ nó chưa biết có thể còn hung hăng chăng”[4]. Thánh Tông ra lệnh cho Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư đưa những tên giặc vừa bị bắt đến doanh trại Thoát Hoan trực tiếp báo tin toàn bộ thuyền lương đã bị đánh chìm.
Thắng lợi của quân dân miền Đông bắc khiến cho Thoát Hoan càng bị cô lập suy yếu Mất sạch lương thực, lại bị tiêu diệt một bộ phận thủy quân, chúng hoang mang lo sợ. Đến đầu tháng 3, Thoát Hoan buộc phải quyết định bỏ Thăng Long chuyển quân về Vạn Kiếp tổ chức phòng thủ. Quân giặc đã lâm vào thế bị động. Nguy cơ bị tiêu diệt đã đến, chúng bàn với nhau “ở Giao Chỉ không có thành trì để giữ, không có lương thực để ăn, mà thuyền lương của Trương Văn Hổ không đến. Vả lại, khí trời nóng nực, lương hết, quân mệt không lấy gì chống giữ lâu được, lấy làm hổ thẹn cho triều đình, chi bằng nên toàn quân rút về thì hơn”[5], chúng nhất trí bảo nhau “nên về không nên ở”. Cuối cùng Thoát Hoan quyết định chia làm hai đạo quân theo hai đường thủy bộ rút về nước.
- Quân bộ do Thoát Hoan chỉ huy đi theo đường Lạng Sơn, có Abátxích (Abatri) dẫn kị binh đi trước mở đường.
- Quân thủy do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy rút về theo đường sông Bạch Đằng. Cùng chạy theo đạo quân này có thân vương Tích Lệ Cơ và viên quan vạn hộ thủy quân Trương Ngọc. Để đảm bảo an toàn hơn, chúng cho một đội kị binh theo dọc sông hộ tống.
Kinh nghiệm hai lần chiến tranh trước, đánh địch trên đường rút chạy, quần dân ta đã thu được kết quả to lớn. Trận Vạn Kiếp giữa tháng 6 năm 1285, quân Nguyên bị mai phục chen nhau xô đẩy đứt cầu phao ngã xuống sông chết đuối rất nhiều. Trận Tây Kết lần thứ hai cuối tháng 6 năm đó đã đánh tan đạo quân thủy của địch, thống lĩnh Toa Đô bị giết. Ô Mã Nhi, Lưu Khuê phải dùng thuyền nhẹ trốn ra biển. Lần này, sau trận Vân Đồn - Cửa Lục, lương thực mất sạch, địch thế nào cũng phải rút quân về nước. Chính vì thế mà Trần Quốc Tuấn chủ trương dồn chúng vào thế khốn quẫn, buộc chúng phải rút chạy rồi mở trận quyết chiến chiến lược.
Biết trước được ý đồ và đường hành quân của địch, Trần Quốc Tuấn chuẩn bị một cuộc phản công chu đáo. Sông Bạch Đằng được chọn làm điểm quyết chiến tiêu diệt đạo quân Ô Mã Nhi.
Trong cuộc phản công lần này, chiến trường ven biển đóng vai trò quan trọng. Nếu như trong chiến tranh lần trước, hai tháng cuối của đợt phản công chiến lược, Trần Quốc Tuấn lấy đồng bằng ven sông Hồng phía nam Thăng Long làm địa bàn mở các trận quyết chiến, thì trong chiến tranh lần này khi quân Nguyên mới tiến công vào Vạn Kiếp, Thăng Long, quân ta lại rút về vùng ven biển Đông bắc chuẩn bị mở trận quyết chiến ở đây.
Đạo quân của hai vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông chỉ huy đóng ở vùng Hiệp Sơn (Kinh Môn, Hải Dương)[6], chủ lực của Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư đóng ở vùng Vân Đồn và Yên Hưng, thuộc đất An Bang (đều thuộc Quảng Ninh) là lực lượng chính trong trận quyết chiến Bạch Đằng tiêu diệt binh thuyền Ô Mã Nhi.
Sông Bạch Đằng hiểm yếu mà hùng vĩ chày giữa hai huyện Yên Hưng (Quảng Ninh) và Thủy Nguyên (Hải Phòng), cách vịnh Hạ Long, Cửa Lục khoảng 40 km, cách Vạn Kiếp - nơi đóng quân của Thoát Hoan hơn 30 km theo ngược dòng sông Kinh Thầy.
Nước Bạch Đằng theo thủy triều lên xuống, khi triều lên cao, mặt sông ở vùng Tràng Kênh trải rộng hơn 1.200 mét. Dòng sông đã rộng lại sâu. Khi triều xuống nước rặc, nơi sâu nhất đến 16 mét, trung bình giữa dòng cũng sâu từ 8 đến 11 mét[7]. Theo sông Đá Bạc chày xuống đến đầu bắc dãy núi Tràng Kênh, sông Bạch Đằng phình to hẳn ra. Đó là nơi tập trung các dòng nước của các sông Khoai, sông Xinh bên tả ngạn và sông Gia Đước, sông Thái, sông Giá bên hữu ngạn đổ về.
Sông Chanh, sông Kênh (cửa sông này ngày nay đã bị lấp) và sông Rút (còn gọi là sông Nam) là chi lưu bên tả ngạn Bạch Đằng chia nước chảy ra vịnh Hạ Long[8]. Một khúc sông không dài quá 5 km mà có năm dòng nước đổ về và có ba nhánh sông phụ đưa nước ra biển. Đó là hình thế của thượng lưu Bạch Đằng.
Ở lòng sông Bạch Đằng từ bên hữu ngạn (thuộc xã Phục Lễ, Thủy Nguyên) có một dải còng đá ngầm chạy qua vào quãng giữa sông Chanh và sông Rút, nhân dân địa phương gọi đó là Ghềnh Cốc. Ghềnh Cốc có năm cồn đá chắn ngang ba phần tư sông Bạch Đằng. Khi triều xuống thấp nhất, nơi cạn là 0,40 mét, nơi sâu là 3,70 mét, thuyền nhẹ đi trên sông có thể thấy được cồn đá. Ghềnh Cốc là dải đá gốc của chân núi Tràng Kênh kéo dài ra. Khi chuẩn bị chiến trường, Ghềnh Cốc đã khiến Trần Quốc Tuấn phải chú ý. Ông đã lợi dụng địa hình thiên nhiên này sử dụng nó như là chiến lũy ngầm làm chỗ dựa cho thuyền ta lao nhanh ra ngang sông chặn địch.
Đặc điểm địa hình nổi bật của vùng thượng lưu Bạch Đằng là sông núi tiếp liền nhau. Từng ngọn núi nhấp nhô của vùng núi đá Tràng Kênh ở phía đông huyện Thủy Nguyên kéo nhau chạy sát tới bờ sông. Ở đây có nhiều thung lũng nhỏ nằm gọn giữa những ngọn núi đá vôi nối liền với lạch nước ra tận bờ sông mà nhân dân địa phương quen gọi là áng núi như Áng Hồ, Áng Lác, Áng Chậu, Áng Táu...
Các sông Khoai, sông Xinh bên tả ngạn và sông Thái, sông Giá, sông Gia Đước bên hữu ngạn Bạch Đằng chạy theo các áng, len qua các dãy núi, là đường giao thông thuận lợi cho quân thủy. Những ngọn núi chắn tấm mắt địch. Áng núi và lạch sông là nơi có thể tập trung quân thủy bộ với khối lượng lớn, giấu quân kín đáo, xuất kích bí mật và dễ dàng, từng đội thuyền ra vào nhẹ nhàng, nhanh chóng. Có thể nói đây là trận địa mai phục lí tưởng của quân ta. Thủy quân địch rút lui theo đường Bạch Đằng buộc phải qua đây. Dù có đề phòng cẩn thận, chuẩn bị sẵn sàng, binh thuyền của chúng cũng tự nhiên phải đàn hàng qua khúc sông hiểm yếu này. Đối với ta, thủy binh và bộ binh mai phục từ các nhánh sông, các áng núi, các cánh rừng ven sông, nhanh chóng đổ ra hiệp đồng chiến đấu dễ dàng, thuận lợi.
Để bảo đảm cho thế trận bao vây địch thật hoàn chỉnh, ngoài việc dựa vào địa thế thiên nhiên hiểm yếu và lợi dụng Ghềnh Cốc như một chướng ngại tự nhiên. Trần Quốc Tuấn còn xây dựng ở các cửa sông những trận địa cọc vững vàng, quy mô lớn. Đây là một trong những công tác quan trọng trong việc chuẩn bị chiến trường, thể hiện rõ tư tưởng chủ động tích cực tiêu diệt địch của quân và dân thời Trần.
Sách Đại Việt sử kí toàn thư chép “Trước đây, Vương (chỉ Trần Quốc Tuấn) đã đóng cọc ở sông Bạch Đằng phủ cỏ lên trên”. Cả trận địa cọc chỉ được ghi chép đơn sơ có từng ấy chữ. Tuy nhiên nó cũng cho ta thấy ý nghĩa quan trọng của hàng cọc trong trận chiến đấu này.
Lòng sông Bạch Đằng rất rộng và sâu, khó có thể dựng được những hàng cọc chắn ngang sông. Ở ghềnh Cốc cạn hơn nhiều nhưng là đá gốc kéo dài từ Tràng Kênh nên cũng không thể nào cắm cọc được. Mặt khác nước triều lên xuống mạnh, độ chênh lệch khá lớn. Lưu tốc nước là 0,26 mét - 0,86 mét/giây, độ lệch trung bình khi nước lên xuống là 2,30 mét. Những số liệu trên cũng cho ta một ý niệm về sông nước Bạch Đằng đời Trần. Trong điều kiện đó phủ cỏ lên trên, như Đại Việt sử kí toàn thư nói - liệu có giữ được không.
Ba cửa sông Chanh, sông Kênh, sông Rút cạnh nhau dẫn thuyền từ Bạch Đằng xuôi biển. Những tài liệu gần đây đã xác định trận địa cọc của Trần Quốc Tuấn được cắm ngang qua các cửa sông này. Đó là những bãi cửa sông Chanh, cửa sông Kênh.
Bãi cọc chính nằm ở cửa sông Chanh sát liền với sông Bạch Đằng, ngày nay ta quen gọi là bãi cọc Yên Giang. Hàng cọc đóng ngang qua sông, theo hướng nam - bắc. Hầu hết các cọc đều bằng lim hoặc gỗ cứng to và vững chắc có đường kính từ 20 cm đến 30 cm và dài từ 1,50 mét trở lên, phổ biến là hai mét, những cọc đóng ở giữa lòng sông dài đến gần ba mét. Khoảng cách giữa các cọc trung bình từ 0,9 mét đến 1,2 mét. Phần cọc phía dưới được đẽo vát nhọn với độ dài 0,80 mét đến một mét. Đa số được cắm thẳng đứng, đóng sâu xuống đất đáy từ một mét đến 1,50 mét, giữa các hàng cọc có nhiều khúc gỗ nằm ngang, có lẽ là khúc gỗ cài để chặn thuyền giặc.
Chỉ trong một thời gian rất ngắn, sớm nhất là sau trận càn quét của Ô Mã Nhi ở trại Yên Hưng ngày 25-3, trận địa cọc mới bắt đầu được bố trí. Thế mà không quá 20 ngày, sức lực và của cải của nhân dân đã dồn lại khắc phục mọi khó khăn, gian khổ hoàn thành trận địa cọc với hàng ngàn chiếc.
Trần Quốc Tuấn đã bố trí một lực lượng quân đội phối hợp với dân binh địa phương đánh địch trên suốt đường rút lui từ Vạn Kiếp đến Bạch Đằng. Nhiệm vụ trước hết của lực lượng này là đánh lui đội kị binh hộ tống của Thoát Hoan nhằm cô lập hoàn toàn chiến thuyền của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, và để cho chúng không phát hiện được trận địa mai phục của ta ở hai bên bờ sông. Sau đó quân ta đánh kiềm chế để bảo đảm đưa đoàn thủy quân địch vào trận địa quyết chiến sau khi ta đã chuẩn bị xong và đúng lúc nước triều bắt đầu xuống. Kế hoạch phải được thực hiện thật chính xác. Những ngày tháng 3 năm ấy, trong khi cuộc chuẩn bị cho trận đánh quyết định trên sông Bạch Đằng đang được khẩn trương tiến hành thì các khu vực khác, quân và dân nhà Trần dồn dập mở nhiều trận phản công đánh vào một loạt căn cứ quan trọng của địch. Nguyên sử (A-bát-xích truyện) chép: “Bấy giờ các trại man (chỉ quân ta - B.T) làm phản, những chỗ xung yếu trước đây lấy được nay đều bị thất thủ. Các tướng bàn kế rút về nước”.
Trước đó, trong cuộc họp bàn với các tướng lĩnh, Trần Quốc Tuấn đã trả lời nhà vua: “Chúng đã khiếp sợ vì sự thất bại của Hằng, Quán, tinh thần chiến đấu không còn nữa. Cứ ý thần xem thì tất đánh được”[9]. Lời nhận định sáng suốt đó truyền cho quân và dân ta niềm tin và quyết tâm giành thắng lợi.
Về phía địch, thực hiện kế hoạch đã định, từ căn cứ Vạn Kiếp, Thoát Hoan cho đạo quân của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp rút lui trước. Trên bờ có đội kị binh hộ tống do hữu thừa Trình Bằng Phi và Thiêm tỉnh Đạt Truật chỉ huy.
Do bị ta triệt phá cầu đường và liên tục đánh giặc, kị binh địch hành quân rất khó khăn chậm chạp. Ngày 4 tháng 4 chúng đến chợ Đông Triều nhưng không qua được sông. Ngay đêm hôm đó, chúng tìm đường quay trở lại. Sợ rằng đi theo đường cũ sẽ bị quân ta tiêu diệt nên Trình Bằng Phi và Dạt Truật đã tìm đường tắt quay trở về Vạn Kiếp để kịp theo Thoát Hoan rút chạy về nước.
Đạo binh thuyền Ô Mã Nhi rời Vạn Kiếp từ ngày 30 tháng 3 vẫn hành quân rất chật vật. Từ ngày bước chân vào Đại Việt đạo binh thuyền này phải chiến đấu gần như liên tục ở An Quảng, Đại Bàng, Tháp Sơn và nhiều lần bị thất bại thảm hại. Quân lính mệt mỏi, bọn chỉ huy hoang mang lo lắng.
Dọc đường từ Vạn Kiếp qua sông Kinh Thầy, quân dân ta bố trí nhiều trận đánh tiêu hao địch. Chủ lực của hai vua Trần phối hợp với dân binh ở vùng Hiệp Môn (Kinh Môn, Hải Dương) mở nhiều trận đánh kìm hãm bước tiến của địch. Chúng đi rất chậm chạp phải “giao chiến ngày này qua ngày khác”.
Ngày 8 tháng 4, đội tiền vệ của địch do tướng Lưu Khuê chỉ huy đến đầu sông Giá. Chúng vừa thăm dò lực lượng quân ta vừa tìm đường gần nhất theo sông này ra Bạch Đằng.
Đến vùng Trúc Động, Lưu Khuê bị quân ta đón đánh, Trúc Động nay là một thôn thuộc xã Lưu Kiếm, trước kia là một tổng lớn (gồm cả Liên Khê và Lưu Kiếm). Trúc Động có rừng núi hiểm trở, hai dòng Đá Bạc và sông Giá bao quanh, lại sát liền với dãy Tràng Kênh. Chính Trần Quốc Tuấn đã qua đây quan sát địa hình. Khi rút lui khỏi Vạn Kiếp, rời kinh thành Thăng Long, một bộ phận quân Trần đã về Trúc Động và Thụ Khê đóng giữ. Hai tháng trước Ô Mã Nhi và Abátxích đã bị đánh ở đây.
Qua một ngày đêm chiến đấu, mưu trí và linh hoạt, quân dân Trúc Động đã đánh cho đội quân tiền vệ Lưu Khuê thất bại hoàn toàn, số lớn bị tiêu diệt, số còn lại phải quay ra dòng Đá Bạc xuôi xuống cùng đoàn thuyền Ô Mã Nhi.
Mờ sáng ngày 9 tháng 4, đoàn binh thuyền Ô Mã Nhi xuôi theo sông Đá Bạc tiến xuống. Đội tiến quân do tham chính Phàn Tiếp chỉ huy đi đầu. Nước triều còn mênh mông, thuyền địch đi chậm chạp. Chiến sĩ ta trên các mỏm núi đá có đầy đủ cung tên, gươm giáo, chờ lúc nước triều xuống mạnh và đạo binh thuyền Ô Mã Nhi qua sông Đá Bạc lọt vào sông Bạch Đằng mới đổ ra quyết chiến. Khoảng 6-7 giờ sáng (giờ mão) nước triều từ từ xuống và các bãi cọc có thể phát huy tác dụng. Trần Quốc Tuấn cho “một đội thuyền khiêu chiến, rồi giả cách thua chạy. Giặc đuổi theo, đội thuyền đi đầu của Phàn Tiếp tiến lên phía trước.
Nước triều xuống mạnh càng đẩy thuyền địch lao nhanh. Phàn Tiếp vội vàng đưa thuyền áp sát về phía Tràng Kênh rồi thúc quân “chiếm lấy núi cao” hòng chặn quân ta phía núi, hỗ trợ cho trung quân và hậu quân của chúng tiến lên.
Địch lọt vào trận địa, giờ quyết chiến đã điểm. Trống lệnh nổi hồi, cờ lệnh tung bay phấp phới thôi thúc toàn quân và dân binh chiến đấu. Thủy binh từ các ngả sông nhánh, nhất tê xông tới đánh địch.
Bộ phận chủ lực và dân binh của ta dưới quyền chỉ huy của Trần Quốc Toản đóng ở các áng núi, lạch sông, mai phục sẵn ở Tràng Kênh lao ra quyết chiến. Từ trên các mỏm núi cao, quân ta đánh hất địch xuống hết đợt này đến đợt khác, quyết giữ vững vị trí.
Thủy quân Hải Đông - Văn Trà từ các phía Điền Công, Gia Đước, sông Thái, sông Giá nhanh chóng tiến ra sông Bạch Đằng. Quân Thánh Dực nghĩa dũng lộ Hồng Khoái (Hải Hưng) do tiết chế Nguyễn Khoái chỉ huy với hàng trăm chiến thuyền cùng quân các lộ căng tay chèo lao nhanh ra sông, đưa vào Ghềnh Cốc lập thành một dãy chiến thuyền chặn đầu địch “chắn chiến hạm ở ngang sông”.
Đoàn thuyền Ô Mã Nhi đang xuôi sông Bạch Đằng. Khi đoàn thuyền địch trôi vào trận địa, quân ta từ Tràng Kênh lập tức đánh áp vào và từ đằng sau xông tới. Thuyên chiến của ta tả xung hữu đột trên quãng Ghềnh Cốc. Các đại thủy quân của ta “bắn tên như mưa”, dồn thuyền địch về bền tả ngạn sông. Ô Mã Nhi phải thúc thuyền tiến về hướng các cửa sông Chanh, sông Kênh, sông Rút để tìm đường tháo chạy.
Trận địa cọc im lìm bấy giờ ẩn dưới làn nước triều mênh mông, giờ đây bỗng nhiên xuất hiện như vùng lên cùng người đánh giặc. Bị nước đẩy xuôi, lại bị đánh gấp sau lưng, thuyền giặc lớp trước lớp sau bị dồn vào bãi cọc. Nhiều thuyền bị nghẽn trước cửa sông Chanh, một số thuyền bị cọc đâm thủng, nhiều thuyền va vào Ghềnh Cốc, một số dồn lại trước cửa sông Kênh, sông Rút. Số thuyền địch bị thương bị đắm hoặc “bị mắc cạn không tiến lên được” nhiều vô kể.
Trên đà thắng lợi, quân dân ta càng hăng hái diệt địch, phía núi Tràng Kênh, quân ta vừa dùng cung tên, vừa đánh gần, gạt toàn bộ quân Phàn Tiếp xuống sông. Địch chết, bị thương không kể xiết. Phàn Tiếp bị trúng tên, nhảy xuống nước, quân ta lấy câu liêm móc lên và bắt sống.
Trong trận này, chiến thuật hỏa công cũng góp phần quan trọng. Giữa lúc thuyền địch bị đánh mạnh, tắc nghẽn trước hàng cọc dày đặc, các bè nứa, thuyền nan chứa đầy chất dễ cháy giấu sẵn ở Tràng Kênh và các làng Do Lễ, Phục Lễ, Phả Lễ được các đội dân binh đốt cháy thả xuôi theo dòng nước, lao nhanh vào trận địa.
“Bạch Đàng nhất trận hỏa công.
Tặc binh đại phá, huyết hồng mãn giang”.
Đương lúc thủy chiến hỏa công quyết liệt thì đoàn thuyền chiến cửa hai vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông theo kế hoạch định trước xông tới kịp thời tiến công quân địch.
Trước đó, đạo quân do hai vua chỉ huy đóng ở vùng Hiệp Môn bên bờ sông Giá (sông Kinh Thầy, vùng Kinh Môn, Hải Dương) làm nhiệm vụ đánh tiêu hao và kìm bước đi của địch. Khi biết giặc đã tràn vào sông Bạch Đằng, hai vua Trần sẵn sàng đội ngũ, cờ hiệu rợp sông, theo đà nước xuống cố sức chèo mạnh để kịp thời đánh dịch. Toàn thư chép: khi đến trận địa, hai vua “tung quân đánh lớn”. Trận chiến đấu của hai vua Trần đánh sau lưng địch, đã khiến cho chúng càng bị động lúng túng và tổn thất rất nặng.
Bị đánh mạnh trên sông, một bộ phận địch hoảng hốt bỏ thuyền chạy lên bờ bên tả ngạn Yên Hưng hòng tìm đường trốn thoát. Nhưng vừa mò lên tới bờ thì chúng lại vấp phải bộ binh ta phục sẵn ở đây từ trước. Những trận đánh quyết liệt trên bộ tiếp tục diễn ra. Nếu như trận thủy chiến trên sông đã tiêu diệt phần lớn sinh lực địch thì trận đánh trên bộ lại bối thêm cho chúng những đòn chí tử.
Đến chiều trận đánh kết thúc[10]. Đại quân Thoát Hoan vẫn không đến ứng cứu, bỏ mặc binh thuyền Ô Mã Nhi chống đỡ bị động và đều bị tiêu diệt hoàn toàn.
Cả trận tuyến thủy bộ được Trương Hán Siêu mô tả.
… “Bấy giờ
Muôn dặm thuyền bè, tinh kì phấp phới
Sáu quân oai hùng, gươm giáo sáng chói
Sống mái chưa phân, Bắc -Nam lũy đối.
Trời đất rung rinh (chừ) sắp tan
Nhật nguyệt u ám (chừ) mờ tối”...
(Phú sông Bạch Đằng).
Ngoài hai chủ tướng Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp bị bắt, tên đại quý tộc Mông Cổ tước vương Tích Lệ Cơ cùng bọn bộ hạ cũng bị bắt sống, ta còn thu được hơn 400 chiến thuyền.
Trong lúc đó, tại Vạn Kiếp, đạo quân bộ do Thoát Hoan chỉ huy cũng vội vã theo đường Lạng Sơn rút về nước. Thừa thắng quân dân Đại Việt tiếp tục chặn đánh và truy kích địch.

Sơ đồ hình thái bao vây và tiến công địch trên sông Bạch Đằng

Sơ đồ bố trí các bãi cọc
Tin đại thắng Bạch Đằng nhanh chóng truyền lan khắp nước, càng làm nức lòng quân dân Đại Việt, là nguồn động viên mạnh mẽ đối với tất cả các chiến sĩ miền biên giới hăng hái xông lên tiêu diệt đạo quân Thoát Hoan. Những chiến thắng to lớn ở cửa quan Hãm Sa, các ải Nội Bàng, Nữ Nhi, Khâu Cấp (đều thuộc Bắc Giang và Lạng Sơn) đã liên tiếp giáng cho đạo quân này những đòn thất bại nặng nề. Mấy chục vạn quân địch phải rải xác trên đường rút chạy. Mãi đến ngày 19 tháng 4 năm 1288, Thoát Hoan đành phải giải tán quân bại trận ở châu Tư Minh (Quàng Tây, Trung Quốc).
Chín ngày sau đại thắng Bạch Đằng, ngày 18 tháng 4, hai vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông đem bọn tù binh ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ và các tên thiên hộ, vạn hộ về phủ Long Hưng (Thái Bình) làm lễ mừng thắng trận trước lăng vua Thái Tông, người lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất, năm 1258.
Trong buổi lễ trang nghiêm, Trần Nhân Tông nhớ lại những ngày gian khổ, cảm khái đọc:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Giang sơn mãi mãi vững âu vàng)

Đền thờ Trần Hưng Đạo (Chí Linh – Hải Dương)