Tài liệu: Thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị mở rộng đánh chiếm ra Bắc Kì

Tài liệu

Tóm tắt nội dung

Chiếm xong Nam Kì, thực dân Pháp càng có thêm điều kiện để ráo riết chuẩn bị cuộc tấn công chinh phục toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
Thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị mở rộng đánh chiếm ra Bắc Kì

Nội dung

Thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị mở rộng đánh chiếm ra Bắc Kì

Chiếm xong Nam Kì, thực dân Pháp càng có thêm điều kiện để ráo riết chuẩn bị cuộc tấn công chinh phục toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Chúng ra sức gấp rút củng cố bộ máy cai trị đàn áp từ trên xuống dưới, một bộ máy cai trị trực tiếp mang nặng tính chất độc tài quân sự nằm gọn trong tay bọn sĩ quan hiếu chiến và tham bạo. Với bộ máy cai trị này, thực dân Pháp đã thẳng tay thực hiện mọi thủ đoạn giết người, bắt sưu, đánh thuế, bắt lính trong nhân dân. Chúng cũng bắt đầu thi hành một số biện pháp kinh tế thực dân gấp rút (như ra sức vơ vét lúa gạo trong nhân dân để xuất khẩu kiếm lợi; cướp đoạt ruộng đất các nơi để bán đấu giá hay cho thuê dài hạn; bắt đầu xây dựng thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn với bến tàu, ụ sửa chữa tàu, xưởng Ba Son...). Để phục vụ đắc lực các chính sách chính trị và kinh tế trên, thực dân Pháp còn mở trường dòng, trường thông ngôn, trường Nho sĩ và trường Pháp - Việt đào tạo cấp tốc bọn tay sai các loại; ra báo chữ Quốc ngữ và chữ Pháp tuyên truyền ráo riết cho việc đánh chiếm Bắc Kì sắp tới.

Đồng thời, vừa để hợp pháp hóa việc chiếm đóng ba tỉnh miền Tây, vừa để ngăn chặn mọi ý định thương thuyết của triều đình Huế, thực dân Pháp một mặt ra sức vận động chính giới ở Pháp thừa nhận việc lấn chiếm vừa qua, mặt khác chủ động yêu cầu triều đình Huế sửa đổi điều ước năm 1862.

Âm mưu của kẻ thù thâm độc như vậy, nhưng phong kiến triều Nguyễn đã tỏ ra hoàn toàn bị động và bất lực. Trước sau, chúng vẫn tiếp tục thi hành chính sách khuất phục đầu hàng trước uy vũ của thực dân Pháp. Kẻ thù đã trắng trợn chiếm đóng phần lớn đất nước và đang ráo riết âm mưu thôn tính cả nước, nhưng triều đình phong kiến vẫn không có những biện pháp kiên quyết để đối phó lại. Nhân dân đòi hỏi triều đình phải có hành động thích hợp khi vận nước lâm nguy, nhưng triều Nguyễn chỉ tiến hành nhỏ giọt và chậm chạp một số công tác phòng thủ như tổ chức thêm một số cơ hương binh ở các tỉnh, bổ nhiệm một số võ quan đi trấn thủ các nơi xung yếu, xây thêm đồn lũy ở bến Thị Nại (Quy Nhơn) và đặt thêm đại bác, súng đồng bảo vệ Thuận An, đúc thêm súng ống... Để sau đó, triều Nguyễn lại tìm cách ngăn trở, phá hoại các cơ sở kháng chiến trong nhân dân, như giải tán các đội dân vệ do nhân dân các địa phương tự động lập ra, giáng chức hay tống giam các quan lại và sĩ phu ở các địa phương tham gia phong trào chống Pháp... Đường lối chủ yếu của triều đình trước sau như một vẫn là bằng con đường thương thuyết để xin chuộc lại sáu tỉnh đã mất.

Về nội trị, tình hình Việt Nam sau năm 1867 lại càng bi đát. Triều đình phong kiến vẫn tiếp tục ra sức vơ vét bóc lột nhân dân cả nước, vừa để thỏa mãn nhu cầu xa xỉ của giai cấp phong kiến suy tàn, vừa để có tiền bồi thường chiến phí cho Pháp. Trong khi đó thì nông nghiệp bỏ bê trễ, các công tác dinh điền và đê điều đều bị sao nhãng, nạn vỡ đê mất mùa xảy ra thường xuyên. Còn công nghiệp và thương nghiệp, so với trước vẫn không có gì khác. Các chính sách ức chế thương nghiệp, bế quan tỏa cảng trong thương nghiệp cũng như chính sách “công tượng” trong công nghiệp kìm hãm ngặt nghèo sự phát triển của hai ngành đó. Kết quả là nền tài chính của nhà nước phong kiến ngày thêm thiếu hụt một cách trầm trọng, đời sống nhân dân trong nước ngày một kiệt quệ. Mâu thuẫn xã hội vì vậy càng thêm sâu sắc, dẫn tới sự bùng nổ hàng loạt những cuộc khởi nghĩa nông dân ở nhiều nơi thuộc vùng đồng bằng, như Tuần Vĩnh (Hà Đông), Đỗ Văn Đạo, Nguyễn Văn Năm (Phúc Yên); Lê Văn Khuông, Đỗ Chuyên, Nguyễn Nhiễm, Nguyễn Văn Đài (Bắc Ninh); Quản Thỏa, Quản Uy, Quản Cáo và dư đảng của Tạ Văn Phụng (Quảng Yên)... Trong khi đó thì dọc theo biên giới hai nước Việt - Lào, đồng bào Mông ngoài Bắc và đồng bào Thượng trong Nam Trung Kì cũng nổi dậy. Đặc biệt, tình hình ngoài Bắc lúc này còn rối ren thêm nhiều bởi sự xâm nhập của nhiều toán thổ phỉ từ Trung Quốc tràn sang và sự hoành hành của bọn Tàu Ô cướp biển.

Để đối phó lại, triều Nguyễn một mặt ra sức đàn áp đẫm máu các cuộc nông dân khởi nghĩa, mặt khác cầu cứu phong kiến nhà Thanh (Trung Quốc) phái quân sang đánh dẹp các toán thổ phỉ. Tình cảnh nước nhà nguy khốn như vậy đã thúc đẩy một số quan lại và sĩ phu tiến bộ thức thời mạnh dạn đưa ra nhiều đề nghị đổi mới các mặt công tác nội trị, ngoại giao, kinh tế, cũng như văn hóa - xã hội của nhà nước phong kiến. Năm 1868, Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế xin mở cửa biến Trà Lý (Nam Định), Đinh Văn Điền xin đẩy mạnh việc khai khẩn ruộng hoang và khai mỏ, phát triển việc buôn bán với nước ngoài, chấn chỉnh việc quốc phòng. Năm 1872, Việc Thương Bạc xin mở ba cửa biển Đà Nẵng ở miền Trung, Ba Lạt, Đồ Sơn ở ngoài Bắc để thông thương rộng rãi với bên ngoài, Nhưng được nhiều người chú ý hơn cả là các đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871) đề cập đến hàng loạt vấn đề quan trọng hồi đó như chấn chỉnh bộ máy quan lại phát triển nông công thương nghiệp và tài chính, chỉnh đốn võ bị, mở rộng ngoại giao, cải tổ giáo dục.

Nhìn chung, tất cả các đề nghị cải cách đều xuất phát từ tinh thần yêu nước muốn cho nước nhà giàu mạnh có thể đương đầu với sự tấn công ngày càng dồn đập của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Trong hoàn cảnh bế tắc của xã hội phong kiến Việt Nam hồi đó, lối thoát duy nhất là mạnh dạn đi vào con đường phát triển chủ nghĩa tư bản. Các đề nghị cải cách ở nước ta cuối thế kỉ XIX nhằm giải quyết một phần nào yêu cầu đó của lịch sử. Nhưng các đề nghị đó vẫn có tính chất lẻ tẻ, rời rạc, nặng về chịu ảnh hưởng bên ngoài mà thiếu cơ số bên trong; chưa động chạm đến vấn đề cơ bản của thời đại là giải quyết hai mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là giữa nhân dân ta với thực dân Pháp xâm lược và giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Triều Nguyễn cầm quyền lúc đó trên miệng hố suy vong lại đối lập với nhân dân nên trước sau đã ngoan cố cự tuyệt mọi đề nghị cải cách lớn nhỏ, thủ tiêu những tiền đề phát triển mới của xã hội, luẩn quẩn trong vòng bế tắc của chế độ phong kiến đương thời. Đó chính là trách nhiệm lớn lao của triều Nguyễn trước lịch sử dân tộc.

Nhưng cho đến trước năm 1873, tư bản Pháp vẫn chưa dám chủ trương mở rộng chiến tranh ở Việt Nam, đem quân ra đánh chiếm Bắc Kì vì tình hình nước Pháp còn có nhiều điều đáng lo ngại. Bị đánh bại trong cuộc chiến tranh Pháp - Đức năm 1870, một phần lãnh thổ nước Pháp bỉ quân Đức chiếm đóng. Năm 1873, tuy quân Đức rút khỏi đất Pháp - chỉ giữ lại hai miền Anđát (Alsace) và Loren (Lorraine), nhưng sự uy hiếp của Đức với Pháp vẫn rất mạnh, buộc giới chính trị Pháp phải đề phòng đường biên giới phía đông. Tình hình kinh tế và chính trị nước Pháp chưa ổn định cũng không cho phép giai cấp tư sản Pháp nghĩ tới chuyện đánh chiếm thuộc địa nơi xa, vừa tốn kém vừa nguy hiểm.

Trong khi đó thì bọn thực dân Pháp ở Nam Kì lại nôn nóng muốn hành động gấp: Chúng luôn luôn dòm ngó Bắc Kì nhất là từ sau khi Nam Kì đã được củng cố có lợi cho chúng. Chúng biết chắc triều đình Huế suy yếu sẽ không có phản ứng gì đáng kể. Để dọn đường cho đội quân xâm lược sau này, chúng đã tung ra Bắc bọn gián điệp đội lốt thầy tu để do thám tình hình và tổ chức một số giáo dân lầm đường làm nội ứng. Đồng thời, chúng còn bí mật xúi giục những tập đoàn phiến loạn mượn danh nghĩa phù Lê chống Nguyễn làm áp lực buộc phong kiến triều Nguyễn phải nhờ chúng đem quân ra giúp. Thương nhân Pháp lúc đó cũng ráo riết tìm cách hoạt động. Sau khi thấy đường vào miền Tây Nam Trung Quốc bằng sông Cửu Long không thể đi được vì lắm thác ghềnh nguy hiểm, bọn chúng đặc biệt chú ý tới đường sông Hồng. Tên lái buôn Pháp Đuypuy (Jean Dupuis) vẫn chở súng ống vào vùng Vân Nam, Quý Châu (Trung Quốc) bán cho bọn tướng tá triều Thanh đàn áp phong trào khởi nghĩa của nhân dân. Nếu đi theo sông Trường Giang (Dương Tử) thì sẽ xa xôi tốn kém, nên chúng thương thuyết với bọn tướng tá nhà Thanh cho được đi trên sông Hồng. Tổng đốc Lưỡng Quảng thay mặt “Thiên triều” yêu cầu triều đình Huế cho Đuypuy được ngược sông Hồng. Y còn được sự ủng hộ của quan quân nhà Thanh đóng trên vùng thượng du Bắc Kì. Mặt khác, y lại xin Chính phủ Pháp ủng hộ công việc kinh doanh. Bọn thực dân Pháp ở Nam Kì lúc đó cũng thấy đây là một thời cơ tốt để hành động, vừa để kịp thời ngăn chặn thế lực nước Anh phát triển ở miền Tây Nam Trung Quốc, vừa để củng cố tình hình Nam Kì, nghĩa là để buộc triều đình Huế phải chính thức thừa nhận việc Pháp chiếm đóng ba tỉnh miền Tây Nam Kì, vừa để gạt thế lực địch thủ cổ truyền của Pháp là Anh ra khỏi địa bàn Bắc Kì.

Tình hình nước Pháp trong hai năm 1870 - 1871 không cho phép giai cấp tư sản Pháp tăng cường hoạt động. Đối với các đề nghị của Đuypuy, các nhà cầm quyền ở nước Pháp (cũng như ở Nam Kì) đều tỏ ra rất dè dặt. Tình hình đó buộc Đuypuy phải tự mình hành động. Y đi Hương Cảng và Thượng Hải (tháng 10-1872) sắm pháo thuyền và súng ống đạn dược, mộ quân lính, rồi kéo tới Bắc Kì tháng 11 năm đó. Bọn thực dân hiếu chiến ở Nam Kì cũng đã lợi dụng việc triều đình Huế yêu cầu gửi quân ra Bắc tiễu trừ giặc biển để phái ngay tàu chiến ra Bắc tiếp tay cho Đuypuy. Được thể làm càn, Đuypuy đã buộc Kinh lược sứ Lê Tuấn trong vòng hai tuần phải xin triều đình Huế cho phép hắn được mượn đường sông Hồng đi lên Vân Nam. Nhưng hạn hai tuần chưa hết và giấy phép cũng chưa có, Đuypuy đã nổ súng thị uy, rồi tự tiện kéo đoàn tàu vào Cửa Cấm ngược sông Hồng lên tới Hà Nội ngày 22 tháng 12 năm 1872.

Mặc dù chưa có lệnh của triều đình, trước hành động ngang trái của Pháp; quân dân Hà Nội đã đề cao cảnh giác, tích cực đề phòng. Lệnh bất hợp tác được ban hành, nhân dân tích cực thực hiện, không một ai chịu chỉ đường, mua bán tiếp tế với Pháp, các chợ không họp. Đồng thời, quân dân nhiều nơi còn sôi nổi đóng cọc để chặn lại hay đánh đắm tàu thuyền của địch đi lại trên sông. Nhưng nhờ có một số Hoa kiều buôn bán ở Hà Nội, như Quan Tá Đường, Bành Lợi Ký, Huỳnh Lục Ký, Lê Đạt Ký... và quân Thanh đóng ở Bắc Ninh giúp đỡ, Đuypuy vẫn kiếm được một số thuyền nhỏ để chuyển hàng ngược sông Hồng lên tận sát biên giới vào đầu tháng 3 năm 1873. Bán hàng xong, khi trở về, hắn lại được bọn tướng Thanh ở Vân Nam cho quân võ trang đầy đủ hộ tống. Hắn còn mộ thêm được một số binh lính trong đội quân Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây) lúc đó đóng ở Bắc Kì. Có một lực lượng quân sự khá mạnh trong tay, Đuypuy càng tỏ ra hung hãn và hạch sách nhiều điều quá đáng: như đòi được đóng quân trên bờ sông; đòi thả những người cộng tác với hắn đã bị bắt giam; đòi có nhượng địa ở Hà Nội; đòi được cung cấp muối và than đá để đưa lên Vân Nam bán; xé bố cáo của Nguyễn Tri Phương mới từ Huế ra nhận thức Tổng đốc Hà Nội; cho lính Pháp và thổ phỉ lên bờ bắt các quan, lính và dân chúng đem xuống tàu; cướp thuyền gạo của triều đình ở bờ sông; tuyên bố việc buôn bán ở Hà Nội do nó nắm và tự do chở hàng lên Vân Nam bán; thả tay sai đi do thám lấy tin tức ở khắp nơi; khước từ lời Nguyễn Tri Phương mới tới thương thuyết...

Giữa lúc quan hệ đôi bên đang hết sức căng thẳng thì bọn thực dân hiếu chiến Pháp ở Sài Gòn phái Đại úy hải quân Gácniê (Francis Garnier) mang quân ra Bắc, bề ngoài với danh nghĩa giải quyết tại chỗ vụ Đuypuy, nhưng bên trong chính là để kiếm cớ can thiệp sâu vào vấn đề Bắc Kì.

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/4641-02-633921678140622500/Cuoc-khang-chien-cua-nhan-dan-Viet-Nam-ch...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận