Lối Vào Địa Ngục Chương 2


Chương 2
Ngày giáng sinh đẫm máu

Ngày 5 tháng 7, 11 giờ 2 phút sáng

Đảo Giáng sinh

Lại thêm một ngày lười nhác nữa trên bãi biển...

Monk Kokkalis đi sau người dẫn đường dọc theo dải cát hẹp. Cả hai đều mặc bộ quần áo chống nhiễm độc Bio-3. Thực ra, đó không phải là thứ thiết bị thích hợp để đi dạo trên bãi biển nhiệt đới. Đằng sau bộ quần áo ấy, Monk chỉ mặc trần sì mỗi chiếc quần đùi. Tuy nhiên, anh vẫn thấy mình mặc như vậy là quá thừa khi bước đi chậm chạp bên trong thứ đồ toàn bằng chất dẻo. Mắt chớp liên tục trước ánh nắng chói chang của buổi giữa trưa, anh nhìn ra xung quanh với cảm giác thật hãi hùng.

Bờ vịnh phía tây của đảo Giáng sinh bị sủi bọt và đảo lộn vì những xác chết như thể địa ngục đã bị xới tung lên từ phía dưới sâu thẳm. Xác các loài cá chất lên thành đống ngổn ngang sau cơn thủy triều đêm qua. Những đống lù lù xác các loại cá mập, cá heo, rùa biển, thậm chí cả một con cá voi to vật vã nằm chềnh ềnh trên bãi biển như thể thật khó nói nơi nào bắt đầu và đâu là điểm hết, thịt cùng vây cá nhào trộn tạo ra một mớ lổn nhổn xương và thịt. Cũng có rất nhiều loại chim biển bị biến dạng và chết trên bãi biển, trên mặt nước, có thể bị cuốn vào vụ thảm sát và bị nhiễm độc.

Một cái hố to gần đó đang phun ra nước biển đen ngòm, có tiếng sôi ùng ục ở phía dưới như thể đại dương đang trút hơi thở cuối cùng.

 

Khom người đi qua chỗ nước phun, cả hai đi về phía bắc dọc theo bãi biển, ngang qua một doi cát hẹp giữa vùng nước triều và những tảng đá lởm chởm dựng đứng.

"Hãy nhắc tôi bỏ qua bữa ăn trưa đồ biển ở trên tàu." Monk lẩm bẩm nói qua những tiếng thở hổn hển. Anh lấy làm mừng vì thở qua cái lọc không khí trên bộ quần áo. Anh chỉ có thể hình dung ra mùi nồng nặc đầy xú uế đi kèm với cái nghĩa trang thủy triều này.

Anh cũng cảm thấy nhẹ nhõm khi đồng nghiệp của mình, tiến sĩ Lisa Cummings ở lại trên con tàu biển ở phía bên kia hòn đảo. Con tàu Ngườicon gái của biển cả đã neo đậu an toàn ở phía đối diện với vùng bị nhiễm độc ở bờ phía tây.

Nhưng cũng có những người khác lại không được may mắn.

Cho đến lúc hoàng hôn, Monk đã chứng kiến hàng trăm người đàn ông, đàn bà và trẻ nhỏ được sơ tán khỏi hòn đảo, tất cả đều trong tình trạng bị nhiễm độc khác nhau: một vài người bị mù, số khác chỉ bị xây xước, tồi tệ nhất là tình trạng da bị tróc ra từng mảng. Mặc dù độ nhiễm độc đã giảm đi nhanh chóng nhưng toàn bộ hòn đảo đều phải dọn quang như một biện pháp đề phòng an toàn.

Con tàu Người con gái của biển cả, một chiếc tàu chở khách lớn, sang trọng, khởi hành với hành trình đầu tiên tới các hòn đảo Indonesia, đã được sơ tán và chuyển thành con tàu cứu trợ y tế. Nó cũng được dùng làm trụ sở tác chiến của nhóm chuyên gia Tổ chức Y tế Thế giới, được triệu tập để khám phá nguyên nhân và nguồn dẫn đến tình trạng nhiễm độc đột ngột của khu vực biển xung quanh.

Cũng chính vì thế mà Monk đi tới đây sáng nay, cố tìm kiếm câu trả lời về hậu quả của thảm họa này. Trở lại trên boong, tài năng của Lisa như một bác sĩ y khoa đã được đưa vào sử dụng triệt để trong khi sự đào tạo của Monk giúp anh thoát khỏi đây. Do sở trường chuyên môn của anh về pháp y và sinh học nên Monk đã được lựa chọn vào phi vụ đặc biệt này của Sigma. Phi vụ được mô tả như là ít mạo hiểm, chỉ quan sát và một cuộc hành quân, làm anh thấy nhẹ nhàng trở lại công việc sau hai tháng nghỉ vì việc gia đình.

Anh cố không nghĩ đến ý nghĩ vừa rồi. Anh không muốn nghĩ đến đứa con gái bé bỏng của mình khi đi qua bầu không khí ô nhiễm ở đây. Nhưng cũng chẳng làm thế nào khác được. Anh vẫn nhớ đến cặp mắt xanh lơ của Penelope, đôi má bầu bĩnh và mớ tóc vàng, không giống chút nào với cái đầu cạo trọc luộm thuộm của bố. Làm sao mà một đứa trẻ xinh đẹp như vậy có chung gene với anh được? Rồi lại nữa có thể vợ anh vẫn đang miệt mài với công việc ở trên bàn làm việc. Ngay tại đây, anh cũng không thể loại bỏ nỗi đau âm ỉ trong lồng ngực, niềm khát khao mong mỏi được hòa nhập với họ, như thể có một sợi dây ràng buộc, gắn kết máu thịt giữa ba người. Thật không thể tưởng được anh lại hạnh phúc đến như vậy.

Ở phía trước, người dẫn đường cho anh, tiến sĩ Richard Graff, một nhà nghiên cứu đại dương học, với nước da sạm nước biển, ở trường Đại học Queensland, đã quỳ một đầu gối xuống. Anh ta không biết chút gì về danh tính thực sự của Monk, chỉ biết láng máng rằng Monk đã được tổ chức Y tế Thế giới lựa chọn do chuyên môn của anh ta. Graff đặt chiếc hộp nhựa lấy mẫu vật lên một hòn đá phẳng. Nhìn qua mặt nạ, khuôn mặt đầy râu ria của anh ta thật căng thẳng với nỗi băn khoăn và tập trung.

Đây là lúc bắt tay vào việc.

Hai người đã được thả xuống trên một chiếc xuồng cao su không thể bị thủng loại Zodiac. Viên lái thuyền, một thủy thủ thuộc Hải quân hoàng gia Úc, vẫn ở trên thuyền, neo đậu cách xa vùng nguy hiểm. Một chiếc tàu canh gác của lực lượng canh gác bờ biển Úc đã tới đây để giám sát việc di tản dân cư.

Hòn đảo xa xôi này, nằm cách một nghìn năm trăm hải lý về phía bắc Perth, vẫn thuộc lãnh thổ Úc. Lần đầu tiên được phát hiện vào ngày Giáng sinh năm 1643, hòn đảo không người ở này sau đó trở thành thuộc địa của Anh để khai thác quặng phốt phát, và lập nên một cái mỏ lớn ở đây, với vài trăm công nhân từ các hòn đảo Indonesia quanh đấy. Và mặc dù những mỏ vẫn đang được khai thác, nhưng hòn đảo nhiệt đới này đã chuyển sang công nghệ chính là du lịch. Ba phần tư hòn đảo là núi cao với rừng mưa nhiệt đới dày đặc, giờ đã tuyên bố trở thành vườn quốc gia.

Song vào thời điểm này chẳng có bóng dáng du khách nào tới đây.

Monk đến chỗ tiến sĩ Richard Graff.

Nhà nghiên cứu hàng hải để ý thấy đồng nghiệp tới bèn vẫy một bàn tay đeo găng để định hướng sự hủy diệt hàng loạt ở đây.

"Chuyện này bắt đầu từ bốn tuần trước đây, theo như báo cáo của một vài người dân đánh cá địa phương." Graff giải thích. "Những chiếc bẫy cua biển được thấy đầy những vỏ rỗng của các loại tôm cua, còn thịt đã bị tiêu hủy bên trong. Người ta thấy trong các tấm lưới có cả những cánh tay bị sùi khi chúng được kéo lên từ biển. Và tình hình chỉ tiếp tục xấu thêm."

"Vậy theo anh, điều gì đã xảy ra tại đây? Một vụ tràn hơi độc hay tương tự?"

"Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là một vụ tấn công bằng chất độc, nhưng không phải là tràn ra."

Nhà khoa học mở ra cái túi đen dùng để đựng các mẫu vật, có tín hiệu báo chất độc, rồi chỉ vào mặt biển kế bên. Nước sủi bọt lên với một chất sền sệt màu vàng nhạt đầy bong bóng, một thứ trộn nguy hiểm gồm thịt và xương.

Anh ta vẫy một cánh tay." Tất cả cái này là tác phẩm của bà mẹ thiên nhiên."

"Anh nói vậy có nghĩa gì?"

"Anh bạn thân mến, anh đang nhìn thấy một lớp đất mùn lỏng, được cấu tạo bởi cyanobacteria, một tiền tố cổ đại của loại vi khuẩn và tảo hiện đại. Ba tỉ năm trước đây, những thứ chất bùn lỏng như vậy bùng phát dưới đáy các đại dương của trái đất. Giờ đây, chúng lại phát triển. Chính vì vậy, tôi được gọi tới đây. Những chất hữu cơ này là lĩnh vực chuyên môn hàng đầu của tôi. Tôi đã nghiên cứu sự bùng nổ như vậy ở vùng Great Barrier Reef, đặc biệt có một loại gọi là cỏ lửa. Một thứ hỗn hợp của tảo và cyanobacteria có thể lan nhanh ra một sân bóng đá trong khoảng thời gian ít hơn bạn ăn bữa trưa. Quái vật đẫm máu này nhả ra mười loại chất độc khác nhau, đủ để làm da bị nứt nẻ. Và một khi khô rồi, có thể phun ra với tốc độ nóng chảy của loại hạt tiêu."

Monk hình dung ra sự phá hủy tại khu vực thị trấn lớn nhất của hòn đảo. Nó nằm không xa cái vịnh này, trên con đường lưu thông của gió. "Vậy có phải anh nói đó chính là những gì xảy ra ở đây?"

"Cũng đại loại như vậy. Cỏ lửa và các loài vi khuẩn khác đang bùng phát khắp các đại dương của chúng ta. Từ vùng đá Fjord ở Na Uy đến khu vực Great Barrier Reef. Cá, san hô và các loài vật có vú sống dưới biển đều chết hàng loạt  khi những chất bùn lỏng cổ đại, cùng với loài sứa độc đang bùng phát. Nó giống như thể một tiến trình đang đảo ngược, các đại dương lại trở thành những biển nguyên thủy. Và chính chúng ta là người có lỗi. Những thứ còn thừa của các loại phân bón, những chất hóa học công nghiệp và nước thải đang đầu độc các bình nguyên và cửa sông. Nạn đánh cá bừa bãi của năm mươi năm qua đã dồn cư dân cá lớn xuống tới chín mươi phần trăm. Và sự thay đổi thời tiết đã a xít hóa, làm nóng nước, giảm bớt khả năng giữ lại ô xy của nó, làm ngạt thở đời sống sinh vật biển. Chúng ta đang nhanh chóng tiêu diệt biển, vô phương cứu chữa."

Với cái lắc đầu, anh ta nhìn ra phía vũng nước chết." Khi nó tỉnh dậy, chúng ta đang chứng kiến sự trở lại của biển từ một trăm triệu năm trước đây, đầy rẫy các loại vi khuẩn, tảo độc và sứa độc. Những nơi nguy hiểm như vậy được tìm thấy khắp nơi trên trái đất."

"Thế điều gì đã gây ra cái này?"

Đó là câu hỏi kéo tất cả bọn họ tới đây.

Graff lắc đầu." Một loại đất mùn lỏng chưa được xác định. Một cái gì đó chúng ta chưa nhìn thấy. Và đấy là cái làm tôi lo sợ. Chất độc sinh học dưới biển và các loại chất độc thần kinh thực ra là chất độc hại nhất trên thế giới. Nó tệ hại đến mức đã vượt quá khả năng của con người để nhân bản. Anh có biết loại saxitoxin, từ vi khuẩn của loại trai nào đó, đã được Liên hợp quốc phân loại như một thứ vũ khí giết người hàng loạt?"

Monk nhăn mặt qua màn hình của mặt nạ che phủ. "Bà mẹ thiên nhiên cũng có thể là một mụ phù thủy hư đốn."

"Kẻ khủng bố lớn nhất trong tất cả, anh bạn ạ. Nhưng tốt nhất là không nên nguyền rủa bà ta."

Monk không muốn tranh luận.

Sau khi bài học về sinh học kết thúc, anh cúi xuống để sắp xếp lại đồ nghề. Anh đánh vật với đôi găng tay bằng plastic của bộ quần áo. Cuối cùng  anh cũng thỏa hiệp với bàn tay trái. Bị cụt tay từ phi vụ trước, giờ đây anh đang đeo một bàn tay giả có năm ngón, một kiệt tác hoàn mỹ từ những thiết bị hiện đại nhất của DARPA, nhưng nhựa và thiết bị điện sinh học không phải là da thịt. Anh văng tục khi thọc một cái xy lanh vào cát.

"Cẩn thận với cái đó," Graff cảnh báo." Tôi không nghĩ là anh muốn làm thủng bộ áo của mình. Không được xảy ra ở đây. Mặc dù độ độc đã giảm nhiều nhưng tốt nhất chúng ta nên cẩn thận."

Monk thở dài. Anh cảm thấy vui mừng  nếu như thoát khỏi bộ quần áo khốn khổ này, quay trở lại boong tàu, trở về với bộ quần áo hàng ngày của mình. Trên đường tới hòn đảo, Monk đã điện để chuyển cả thùng thiết bị phân tích bằng đường không tới chiếc tàu. Lẽ ra anh phải ở chỗ ấy mới phải.

 

Nhưng đầu tiên là họ phải có các mẫu để đưa vào phòng thí nghiệm. Và phải có nhiều. Máu, tế bào và cả xương. Từ cá, cá mập, mực và cá heo.

"Thật kỳ quặc." Graff lẩm bẩm. Anh đứng nhìn dọc nhìn ngang bãi biển.

Monk tiến lại gần." Cái gì vậy?"

"Một trong những con vật có mặt ở hầu hết chỗ trên hòn đảo này là Greocarcoidea natalis."

"Thế tiếng Anh gọi là gì...?"

Graff đứng dậy rồi nhìn dọc bờ biển. "Mình muốn nói đến loại cua đất màu đỏ trên đảo Giáng sinh."

Monk nghiên cứu bờ biển bị vẩn đục.  Anh đã nghiên cứu kỹ thảm thực vật và động vật trên hòn đảo. Loại cua đất màu đỏ là ngôi sao trên hòn đảo, to cỡ bằng chiếc đĩa ăn cơm. Sự di trú hàng năm của chúng là một trong những điều kỳ diệu của thế giới tự nhiên. Vào tháng 11, quay vòng theo mặt trăng, khoảng trăm triệu con cua đã ào ạt tiến từ rừng ra biển, né tránh những con chim biển và cố chứng minh quyền được giao phối của chúng để tồn tại trong cuộc chiến.

Graff tiếp tục." Loài cua là loài động vật ăn thịt thối rữa nổi tiếng. Bạn nên nghĩ là tất cả các xác chết ở đây chắc sẽ thu hút chúng. Giống như hải âu. Nhưng mình chẳng nhìn thấy con nào ở đây cả, sống hay chết."

"Có thể chúng đánh hơi thấy chất độc và vẫn tụt lại trong rừng."

"Nếu như vậy, hiện tượng đó có thể cung cấp vài bằng chứng về nguồn gốc của chất độc hoặc vi khuẩn đã sản sinh ra nó. Có thể chúng đã đối mặt với sự bùng phát chết chóc ở đây. Có thể chúng kháng cự. Cách này hay cách khác, chúng ta có thể cô lập nguồn, càng tốt."

"Để giúp những người dân đảo..."

Graff nhún vai. "Chắc là vậy. Nhưng điều quan trọng hơn là làm cho chất hữu cơ không lan ra." Anh nghiên cứu chất lỏng màu vàng và giọng anh ta trầm xuống vì lo lắng. "Tôi e rằng cái này sẽ là điềm báo gở mà tất cả các nhà khoa học biển đều lo ngại."

Monk liếc nhìn anh ta, chờ thêm lời giải thích.

"Một loại vi khuẩn đứng đầu bảng, một chất cực mạnh có thể làm tê liệt mọi dấu hiệu sống trên biển."

"Thế cái đó liệu có thể xảy ra không?"

Graff quỳ xuống để bắt đầu công việc. "Điều ấy có thể đang xảy ra."

Với lời tuyên bố chua chát vậy, Monk dành suốt cả tiếng đồng hồ tiếp theo thu thập các mẫu cho vào ống nghiệm, túi và cốc nhựa. Cùng lúc đó, mặt trời nhô lên cao hơn mỏm đá, chiếu xuống nước như thể nấu anh trong bộ quần áo giáp sinh học. Anh bắt đầu ước ao tắm  vòi sen mát và một cốc nước lạnh ở dưới bàn che ô.

Cả hai chậm rãi làm việc trên bãi biển. Gần mỏm đá, Monk chợt thấy một đám chân hương cắm trên cát. Chúng làm thành một hàng rào trước mặt  một cái am nhỏ, không lớn hơn một hình người không có mặt đang ngồi, bị biển và cát bào mòn. Nó tựa vào một cái giá tạm bợ chi chit phân chim. Anh tưởng tượng những nén hương được thắp lên chống lại nạn chất độc, tìm kiếm sự can thiệp từ Thượng đế.

Anh tiếp tục đi qua, bỗng cảm thấy ớn lạnh, không biết những cố gắng của họ có mang lại lợi ích gì không.

Tiếng động của một chiếc thuyền đang tiến tới thu hút sự chú ý của anh trở lại phía biển. Anh nhìn xuống bãi cát. Trong khi thu thập các mẫu vật, anh và Graff đã đi qua một vùng đất. Cái xuồng của họ được kéo lên bờ phía sau mỏm đá, không nhìn thấy đâu.

Monk chau mày. Liệu gã lái xuồng người Úc có lái gần đến chỗ họ không?

Graff đến chỗ anh." Giờ quay về thì còn sớm quá."

Tiếng súng trường vang trên mặt nước khi một chiếc thuyền cao tốc quay ngược mũi lại. Monk nhìn thấy có bảy người ở phía sau, đầu họ đều quấn khăn. Ánh sáng mặt trời chiếu thẳng vào những khẩu súng trường.

 

Graff thở hổn hển. "Cướp biển..."

Monk lắc đầu. Ồ chuyện lớn rồi đây...

Chiếc thuyền quay về phía họ rồi lao thẳng tới qua khe lạch.

Monk nắm lấy cổ áo Graff rồi đẩy anh ta xuống bãi biển tràn đầy ánh nắng.

Nạn cướp biển đang gia tăng khắp nơi trên thế giới nhưng trên vùng biển Indonesia chúng hoành hành một cách ngang nhiên.  Rất nhiều hòn đảo và doi đất nhỏ, hàng nghìn cảng bí mật trong rừng rậm. Tất cả tạo ra một bãi đáp lý tưởng. Và sau vụ sóng thần vừa qua ở khu vực này, con số những tên cướp biển địa phương lại tăng vọt, lợi dụng tình hình hỗn loạn và sự thiếu thốn cảnh sát địa phương.

Hình như thảm kịch hiện nay không tạo ra sự khác biệt.

Thời kỳ tuyệt vọng sản sinh ra những con người tuyệt vọng.

Nhưng kẻ nào tuyệt vọng đến mức lại liều lĩnh trong vùng nước này? Monk để ý những kẻ cầm súng trùm kín từ đầu đến chân trong bộ quần áo sinh học tạm bợ. Liệu có phải chúng đã nghe thấy nồng độ độc hại đã giảm xuống tại đây nên liều lĩnh một cuộc tấn công?

Khi Monk lui lại từ mép nước, anh liếc nhìn về phía chiếc thuyền được kéo lên bờ của họ.  Ở khu vực các hòn đảo, chiếc thuyền Zodiac của họ sẽ trở thành một món hàng có giá tại chợ đen, đó là chưa nói đến những thiết bị nghiên cứu đắt tiền của họ. Monk để ý cũng không thấy có tiếng súng bắn trả từ người lái chiếc Zodiac. Có thể do bất ngờ, người thủy thủ Úc đó đã bị hạ ngay trong đợt tấn công đầu tiên. Anh ta cũng cầm chiếc máy bộ đàm duy nhất của họ. Mất liên lạc, họ hoàn toàn chỉ biết dựa vào chính mình


mà thôi.

Monk hình dung Lisa trên chiếc tàu khách. Cảnh sát bờ biển Úc canh phòng khu vực biển quanh cái hải cảng nhỏ. Ít nhất thì cô ta cũng an toàn.

 

Không giống như họ.

Những tảng đá cắt bỏ mọi đường lui. Phía bên kia, bãi biển vắng tanh kéo dài.

Monk kéo Graff tới một hòn đá lật ngược, nơi trú ẩn duy nhất.

Chiếc thuyền cao tốc hướng tới họ. Những tiếng súng chát chúa, làm cát bắn tung về phía họ ẩn náu.

Monk kéo họ xuống thấp hơn.

Quá nhiều cho một ngày lười biếng trên biển.

 

*

*    *

 

11 giờ 42 phút sáng

Tiến sĩ Lisa Cummings lau sạch vết kem gây tê trên lưng cô bé đang khóc mếu. Mẹ cô giữ chặt tay cô bé. Người phụ nữ Malaysia nói giọng thì thầm, đôi mắt màu hạnh đào của bà toát lên vẻ lo lắng. Thuốc vừa xoa vào lưng đã giảm bớt nỗi đau đớn của cô bé, giờ đây thay vì tiếng kêu la chỉ còn tiếng nấc nhè nhẹ và nước mắt của cô bé.

"Cháu sẽ ổn thôi." Lisa nói, biết được bà mẹ là một trong những người phục vụ ở khách sạn địa phương, nói được tiếng Anh." Chị phải cho cháu uống kháng sinh ba lần
trong ngày."

Người đàn bà gật đầu."Cảm ơn cô."

Lisa gật đầu ra hiệu cho đám đàn ông và phụ nữ mặc áo blu trắng, nhân viên trên tàu Người con gái của biển cả.

"Nhân viên sẽ dẫn chị và cháu đến một ca bin trên tàu."

Người đàn bà lại cúi đầu cảm ơn nhưng Lisa đã quay đi, tháo đôi găng tay ra. Phòng ăn trên con tàu đã trở thành nơi tụ tập chính của chiếc du thuyền. Mỗi người dân sau khi được di tản khỏi hòn đảo đều được kiểm tra và phân loại tùy theo mức độ nghiêm trọng của vết thương. Lisa, với kinh nghiệm của nàng trong công tác trợ cứu khẩn cấp, được giao nhiệm vụ chữa trị ban đầu. Để giúp nàng, có một sinh viên y khoa từ Sydney, một  chàng trai gầy gò, tên là Jesspal, người Ấn Độ, một tình nguyện viên trong đội ngũ nhân viên y tế của Tổ chức Y tế Thế giới.

Họ tạo thành một cặp thật so le, một người tóc vàng, nước da trắng xanh, còn người kia thì tóc đen, da sạm nắng. Nhưng họ lại là một kíp làm việc có kinh nghiệm.

"Jessie, chúng ta đang tiến hành với tốp đầu đến đâu rồi?"

"Thưa tiến sĩ Lisa, chắc còn lâu." Anh ta dùng một tay lắc ống đựng thuốc kháng sinh, tay kia thì tiếp tục điền vào giấy. Anh chàng này biết cách xử lý nhiều công việc một lúc.

Kéo chiếc quần vải màu xanh cao lên một chút, Lisa nhìn xung quanh. Không ai đang chờ cấp cứu kịp thời. Số còn lại ở buồng ăn đang trong tình trạng hỗn loạn dù đã được kiềm chế, đôi lúc vẫn nghe thấy tiếng kêu rên, thỉnh thoảng lại có tiếng hét to, nhưng vào lúc này tất cả đều yên tĩnh.

"Tôi nghĩ đa số người dân trên đảo đã được sơ tán." Jessie nói. "Nghe nói hai chiếc thuyền cập bến mới đây chỉ có một nửa số người. Tôi nghĩ chúng ta gặp các nhóm dân lẻ tẻ từ những làng nhỏ xung quanh".

"Tạ ơn Chúa".

Nàng đã điều trị tới một trăm năm mươi bệnh nhân suốt buổi sáng nay với các ca bị bỏng, xước da, ho khan, kiết lỵ, nôn mửa, đau cổ tay do bị ngã trên bến tàu... Nhưng nàng chỉ mới thấy một phần nhỏ của tất cả trường hợp. Chiếc tàu chở khách mới chỉ tới hòn đảo đêm qua và việc sơ tán đã được tiến hành từ lúc  rạng đông, chủ yếu bằng máy bay trực thăng. Điều ấy đòi hỏi ngay khi đặt chân xuống tàu, nàng phải bắt tay vào việc luôn. Hòn đảo nhỏ bé, xa xôi này có hơn hai nghìn dân. Mặc dù các khoang rất chật nhưng con tàu có thể chứa đủ số dân cư trên đảo, đặc biệt khi số người chết gia tăng một cách tệ hại, vượt qua con số hơn bốn trăm và vẫn tiếp tục tăng.

 

Nàng đứng đó, khoanh tay trước ngực, thầm mong có được cánh tay khỏe mạnh của Painter, ôm lấy mình từ phía sau, đôi má anh, rắn rỏi nhưng trìu mến áp vào gáy.
Nàng nhắm mắt lại, mệt mỏi. Mặc dù anh không có đây, nhưng nàng vẫn có thể nhận ra được từ con người anh vẻ đanh thép.

Khi làm việc phải xử lý từng ca một, cũng dễ dàng tách biệt và điều trị đơn giản.

Nhưng vào lúc này, trong giây phút bình yên, mức độ trầm trọng của cuộc khủng hoảng đã đập mạnh vào đầu óc nàng. Chỉ hai tuần qua từ khi căn bệnh phát triển lúc đầu ở quy mô nhỏ, một vài trường hợp bị bỏng qua tiếp xúc, thế rồi trong có hai ngày, vùng biển đã nhào trộn một đám mây chất độc, phun ra chất khí nóng bỏng, giết chết một phần năm dân số và làm bị thương số còn lại.

Mặc dù đám mây chất độc tự tan đi, bệnh tật vẫn tiếp tục và nhiễm trùng đã bắt đầu tác động đến những người bị bệnh: sốt cao, đau màng óc, mù lòa...mau chóng đến đáng ngại. Một phần ba boong tàu đã trở thành khu vực điều trị.

Nàng đang làm gì ở đây vậy?

Khi cuộc khủng hoảng y tế nổ ra, Lisa đã kiến nghị với Painter đòi được tham gia phi vụ này và nói đây chính là ca của mình. Bên cạnh tấm bằng về y khoa, nàng còn có bằng tiến sĩ về sinh lý con người, nhưng quan trọng hơn, nàng có nhiều kinh nghiệm hoạt động thực tế, đặc biệt trong nghiên cứu về biển cả. Nàng đã từng làm việc không dưới năm năm trên một con tàu cứu hộ có tên Đáy biển sâu, tiến hành các nghiên cứu về sinh lý học.

Vậy là nàng có đủ lý lẽ để có mặt ở đây.

Nhưng đó không phải là duy nhất.

Cả năm ngoái, nàng đã bị bó chân ở Washington và thấy mình dần bị tiêu phí vào cuộc sống của Painter. Và trong khi một phần nàng yêu thích sự gần gũi, cả hai đã nhập làm một, nàng vẫn biết mình cần cơ hội này, cho cả bản thân và mối quan hệ của mình, một phần khoảng cách để đánh giá cuộc đời mình, tách khỏi cái bóng của Painter.

Song có lẽ khoảng cách này quá xa...

Một tiếng thét đã kéo sự chú ý của nàng trở lại cánh cửa hai lớp ở phòng ăn. Hai người thủy thủ kéo lê một người đàn ông nằm trên một chiếc cáng. Ông ta quằn quại, da rỉ nước vàng, đỏ như vỏ tôm luộc. Trông như cả thân thể ông ta bị luộc sơ qua. Hai người khênh cáng vội vã đưa ông ta vào trạm cấp cứu.

Rất nhanh, nàng đã hình dung việc điều trị trong đầu. Tiêm móc-phin và dùng Diazepam. Tuy nhiên, từ trong sâu thẳm, nàng đã biết sự thật. Tất cả họ đều hiểu. Người đàn ông đang đau đớn kia chỉ có thể kéo dài sự sống bằng cách làm cho ông ta bớt đau đớn. Ông ta đã chết rồi.

"Phiền toái đã đến." Jessie lẩm bẩm phía sau cô.

Lisa quay lại và phát hiện tiến sĩ Gene Lindholm bước tới phía trước, như một con đà điểu, tất cả chỉ thấy hai cái chân và cái cổ với một nhúm tóc bạc. Viên trưởng nhóm Tổ chức Y tế Thế giới gật đầu với nàng, cho thấy chính nàng là mục tiêu của ông ta.

Giờ thì cái gì đây.

Nàng chẳng mấy bận tâm với người được đào tạo từ trường Harvard. Ông ta quả là một nhân vật. Tới đây, hay đúng ra là giúp đỡ ở đây, ông ta đã gặp gỡ chủ nhân của con tàu, một tỉ phú người Australia tên là Ryder. Viên tỉ phú, nổi tiếng vì lối chơi rắn trong làm ăn, có mặt trong chuyến ra khơi đầu tiên của chiếc du thuyền. Thực ra thì ông ta hoàn toàn có thể rời khỏi con tàu sau khi nó bị bắt cóc nhưng ông vẫn tiếp tục ở lại, hy vọng biến phi vụ giải thoát con tàu thành một cơ hội tiếp thị.

Và Lindholn đã hợp tác.

Tuy nhiên, sự hợp tác đó lại không bao gồm Monk và Lisa. Người đứng đầu Tổ chức Y tế Thế giới cảm thấy bực trước những ràng buộc đã lôi kéo hai người kia vào nhóm ông ta. Nhưng ông ta không còn sự lựa chọn nào khác – vì vậy không thể nói là ông ta vui vẻ về chuyện này.

"Tiến sĩ Lisa Cummings, tôi lấy làm vui khi thấy cô nhàn rỗi, chẳng có việc gì làm cả."

Lisa chau mặt phản ứng lại.

Jessie khịt mũi khinh khỉnh.

Lindholm liếc xéo qua chàng sinh viên thực tập như thể chẳng thèm  quan tâm đến sự có mặt của anh ta, rồi nhanh chóng bỏ qua, lại hướng sự chú ý tới Lisa.

"Tôi được dặn là phải đưa cả cô và đồng nghiệp vào bất cứ vụ phát hiện nào liên quan đến bệnh dịch trong thảm họa này. Và lúc này tiến sĩ Kokkalis đang ở hiện trường, tôi nghĩ cần lưu ý cô về điều đó."

Ông ta đưa ra một cặp hồ sơ dày. Nàng nhận ra lô gô của bệnh viện nhỏ trên hòn đảo Giáng sinh. Chỉ có một bác sĩ hoạt động khi được yêu cầu và hai y tá chuyên nghiệp, bệnh viện đã nhanh chóng bị quá tải, vậy là những ca nặng cần phải chuyển bằng máy bay tới Perth. Nhưng chuyện này trở nên phi thực tế sau vụ thảm họa giáng xuống hòn đảo. Khi chiếc tàu khách tới, bệnh viện là mục tiêu đầu tiên cần
sơ tán.

Lisa mở cặp hồ sơ và nhìn thấy tên bệnh nhân được ghi là John Doe. Nàng nhanh chóng tìm hiểu tiểu sử và chức vụ ghi trong đó. Bệnh nhân, một người đàn ông ngoài sáu mươi tuổi, được tìm thấy năm tuần trước đây, trần truồng lang thang trong rừng mưa, rõ ràng trong tình trạng mất trí và dãi dầu nắng mưa. Ông ta không nói được, bị mất nước nghiêm trọng. Thế rồi, ông ta rơi vào tình trạng trẻ sơ sinh, không thể tự chăm sóc cho mình, chỉ ăn khi được người ta bón. Họ tìm cách xác định danh tính người đàn ông bằng cách lấy dấu tay và qua việc tra cứu danh sách người mất tích, nhưng không thấy được gì cả. Ông ta vẫn là một John Doe.

Lisa liếc nhìn lên. "Tôi không hiểu... điều này có liên quan gì đến những điều xảy ra ở đây."

 

Thở dài, Lindholm bước tới gần rồi gõ tay lên tập hồ sơ. "Dưới phần liệt kê các triệu chứng và phát hiện. Dưới cùng."

Ảnh hưởng của các dấu vết bị dãi dầu nắng mưa. Nàng lẩm bẩm đọc tiếp danh mục. Dòng chữ cuối cùng viết Bị bỏng nặng do ánh nắng mặt trời ở cấp độ 2 trên tứ chi, với hiện tượng phù nề và xây xước nghiêm trọng.

Nàng ngước nhìn. Cả sáng nay, nàng đã phải xử lý những triệu chứng tương tự rồi."Cái này không phải là bỏng vì ánh sáng mặt trời."

"Những người làm y tế ở bệnh xá đã vội vã đi đến kết luận đó." Lindholm nói, vẻ khinh bỉ rõ rệt.

Tất nhiên, Lisa không thể chê trách viên bác sĩ và những người y tá ở đó. Vào lúc ấy, chẳng ai biết gì về thảm họa môi trường sắp bùng phát. Nàng nhìn lại phần ghi ngày tháng lần nữa.

Năm tuần trước đây.

"Tôi tin rằng chúng ta đã tìm thấy bệnh nhân số zero." Lindholm nói một cách tự mãn. "Hoặc ít nhất một trong những ca sớm nhất."

Lisa gập tập hồ sơ lại. "Liệu tôi gặp bệnh nhân được  không?"

Ông ta gật đầu. "Đó cũng chính là lý do thứ hai tôi tới đây." Giọng nói nghiêm trọng của ông ta làm Lisa cảm thấy khó chịu. Nàng chờ ông ta giải thích, nhưng ông ta chỉ quay gót lại rồi bước ra."Theo tôi."

Nhà lãnh đạo Tổ chức Y tế Thế giới đi ngang qua phòng ăn tới một trong những thang máy của con tàu. Ông ta ấn nút lên tầng ba, khoang dạo chơi.

"Phòng cách ly?" Nàng hỏi.

Ông ta nhún vai.

Một lát sau, cánh cửa mở ra dẫn đến một căn phòng vô trùng tạm thời. Londholm vẫy đưa cho nàng một trong những bộ áo giáp sinh học giống như bộ Monk đã mặc để đi thu thập mẫu vật.

 

Lisa trèo vào trong bộ áo, để ý thấy mùi cơ thể người khi chụp mũ che mặt lên đầu rồi kéo khóa lại. Khi cả hai đã sẵn sàng, nàng được dẫn tới một hành lang đến một trong những cabin. Cánh cửa mở ra và đã có những nhân viên y tế khác tụ tập ở lối vào.

Lindholm ra hiệu cho những người khác mở lối đi. Họ tản ra do đã được huấn luyện rất kỹ bởi thủ lĩnh. Lindholm dẫn Lisa vào một căn phòng nhỏ, một ca bin phía trong không có cửa sổ. Chỉ có mỗi một cái giường dựng trên tường phía sau.

Một thân hình nằm dưới một cái chăn mỏng. Ông ta trông như một xác chết hơn là đang sống. Nhưng cô để ý thấy tấm chăn phập phồng lên xuống, hơi thở rất yếu. Đường truyền ven dẫn tới một cánh tay để trần. Da  cánh tay mỏng gần như trong suốt.

Nàng nhìn thẳng vào mặt bệnh nhân. Có ai đó đã cạo râu cho ông ta nhưng vội vàng. Vài vết cắt vẫn ứa máu. Tóc ông ta lốm đốm bạc và hơi quăn, nhưng mắt ông mở trừng, gặp mắt nàng.

Trong giây lát, nàng nghĩ hình như ông ta thoáng nhận ra  mình, một sự ngạc nhiên. Ngay cả cánh tay nhấc hờ về phía nàng.

Nhưng Lindholm đã đứng chắn ngang giữa họ. Phớt lờ bệnh nhân, ông ta lật một góc chăn để lộ ra đôi chân của người đàn ông bất hạnh. Nàng đã nghĩ sẽ nhìn thấy màu da đỏ như cua luộc, sau khi bị bỏng ở độ hai, giống như các ca khác ngày hôm nay, nhưng thay vì đó lại là một thứ nước đỏ nhờ nhờ từ đầu gối xuống tận ngón chân, lỗ chỗ với những vết bầm màu đen.

"Nếu như cô đọc thêm trong báo cáo," Lindholm nói, "có thể cô sẽ phát hiện những triệu chứng mới xuất hiện cách đây bốn hôm. Các nhân viên bệnh viện đã tóm tắt bệnh hoại thư nhiệt đới, tiếp đó là thương tật sâu do bỏng. Nhưng
thực ra..."

 

"Chùm hoại tử." Nàng nói ngay.

Lindholm hít một hơi rồi kéo cái chăn xuống. "Chính xác, đấy là điều chúng tôi đã nghĩ."

Chùm hoại tử, được biết đến như căn bệnh ăn thịt, do vi khuẩn gây ra, thường là loại beta-hemolytic streptococci.

"Thế thì đánh giá thế nào?" Cô hỏi. "Lây nhiễm thứ hai qua các vết thương trước đây của ông ta chắc?"

"Tôi đã có báo cáo từ các nhà nghiên cứu vi khuẩn học. Một gam của vết đêm qua đã cho thấy độ ô nhiễm lớn của loại vi khuẩn này."

Nàng cau mày." Điều đó không đúng. Đấy chỉ là loại vi khuẩn biểu bì thông thường. Không thể so sánh được. Liệu ngài có chắc rằng nó không nhiễm độc không?"

"Không phải trong những thứ đã tìm thấy ở các vết bầm dập. Vết đó đã được lặp lại trong các mẫu tế bào khác. Cùng kết quả như vậy. Trong các nghiên cứu lần thứ hai một chất gây chết hoại kỳ quặc được tìm thấy ở tế bào xung quanh. Một hình mẫu của sự thối rữa thỉnh thoảng được thấy ở từng khu vực. Nó có thể bắt chước chùm hoại tử.

"Do cái gì gây ra?"

"Chất độc của loại cá đá. Rất độc. Loại cá này trông giống như một hòn đá nhưng lại có xương sống cứng có các tuyến độc. Một trong những chất độc tố tệ hại nhất trên thế giới. Tôi đã đề nghị tiến sĩ Barnhardt thí nghiệm với tế bào này rồi.

"Một nhà nghiên cứu về chất độc học?"

Một cái gật đầu.

Tiến sĩ Bardnhardt đã bay tới đây từ Amsterdam, một chuyên gia về các loại chất độc và độc tố môi trường. Dưới sự bảo trợ của Sigma, Painter đã đích danh yêu cầu bổ sung ông ta vào nhóm của Tổ chức Y tế Thế giới.

"Kết quả đã có trong giờ qua. Ông ta tìm thấy chất độc kích hoạt trong tế bào của bệnh nhân."

 

"Tôi không hiểu. Vậy là người đàn ông này bị độc vì loại cá đá trong khi lang thang vì điên dại?"

Một giọng nói cất lên từ phía sau cô, trả lời câu hỏi này. "Không phải?"

Nàng quay lại. Một thân hình cao lớn đứng chật cửa ra vào, một người đàn ông to như con gấu len vào. Khuôn mặt râu ria của ông ta phù hợp với khổ người nhưng không hợp với sự tinh tế của đầu óc. Tiến sĩ Hendrick Barnhardt cố chen người vào căn phòng.

"Tôi không tin là người đàn ông này đã bị châm chích bởi cá đá. Nhưng ông ta đang phải chịu chất độc." 

"Làm sao điều ấy xảy ra được?"

Bardnhardt phớt lờ câu hỏi của nàng, hướng tới vị lãnh đạo Tổ chức Y tế Thế giới.

 "Đó là điều tôi nghi ngờ. Tiến sĩ Lindholm. Tôi đã mượn tài liệu của tiến sĩ Miller và phân tích. Không còn nghi ngờ gì nữa."

Lindholm sợ tái mặt.

"Cái gì vậy?" Lisa hỏi.

Nhà nghiên cứu chất độc nọ bước tới và nhẹ nhàng kéo thẳng cái chăn lên trên người bệnh nhân, một cử chỉ nhẹ nhàng thật khác thường ở một người to lớn như ông. "Vi khuẩn", ông nói, "loại vi khuẩn Propionibacterium... đang sản sinh ra chất tương ứng như chất độc của loại cá đá, bơm ra một khối lượng đủ để hủy diệt tế bào của người đàn ông này."

"Thật phi lý."

Lindholm phản bác. "Đó là điều tôi đã nói."

Lisa phớt lờ ông ta. "Nhưng Propionibacterium không sản xuất ra chất độc nào. Nó lành tính."

"Tôi không thể giải thích tại sao và thế nào." Barnhardt nói. "Ngay cả khi bắt đầu xét nghiệm thêm, tôi cần ít nhất có ống kính scan. Song tôi đảm bảo với cô rằng, tiến sĩ Cummings, loại vi khuẩn lành này đã biến thể thành một trong những loại tệ hại nhất trên hành tinh."

 

"Ngài muốn nói đến từ biến thể là thế nào?"

"Tôi không nghĩ bệnh nhân bắt được con bọ đó. Tôi nghĩ đấy là một phần trong thực vật thông thường của ông ta. Khi người đàn ông bị phát ra ở đó, nó làm thay đổi khả năng sinh hóa của vi khuẩn, thay đổi cấu trúc gene cơ bản và làm nó trở thành ác tính. Biến nó thành loại ăn thịt."

Lisa vẫn khăng khăng không tin điều đó. Không tin được nếu không có bằng chứng. "Đồng nghiệp của tôi, tiến sĩ Kokkalis, có một phòng thí nghiệm phân tích mini để trong khoang của chúng tôi. Nếu ngài có thể..."

Lisa cảm thấy có cái gì đấy cọ vào bàn tay đi găng của mình. Cô suýt nữa nhảy dựng lên, giật mình. Nhưng đó chỉ là người đàn ông già nua trên giường bệnh vươn ra nắm lấy cô. Cặp mắt của ông nhìn cô, tuyệt vọng. Đôi môi của ông mấp máy, khô ráp.

"Sue... Susan..."

Nàng quay lại, nắm lấy ngón tay của bệnh nhân. Rõ ràng ông ta vẫn còn trong cơn mê sảng, nhầm Lisa với ai khác. Nàng nắm chặt tay ông trấn an.

"Susan... Oscar ở đâu rồi? Tôi nghe thấy tiếng nó sủa trong rừng..." Cặp mắt của ông trợn ngược. "Nó đang sủa... giúp nó với... đừng đi xuống nước..." Nàng cảm thấy ngón tay của ông ta rời khỏi bàn tay mình. Cặp mắt của ông nhắm nghiền như đã trôi qua giây phút tỉnh táo.

Một y tá bước lên kiểm tra mạch của người bệnh. Ông ta lại bất tỉnh.

Lisa đặt cánh tay của ông ta vào dưới chăn.

Lindholm bước lên trước, rất gần, chiếm khoảng trống của nàng. "Cái phòng thí nghiệm phân tích của tiến sĩ Kokkalis. Chúng ta phải có được nó càng sớm càng tốt. Để khẳng định hay bác bỏ ý tưởng điên rồ của tiến sĩ Bardnhardt."

"Tôi muốn chờ đến lúc Monk quay lại." Lisa nói, lui lại. "Một vài thứ thiết bị được thiết kế đặc biệt. Chúng ta cần có sự giúp đỡ của anh ấy mới có thể vận hành không gây ra
hư hại."

Lindholm cau mày - một chuyện không mấy khi xảy ra trong cuộc sống của nàng.

"Được thôi." Rồi ông ta quay gót. "Đồng nghiệp của cô sẽ về trong một giờ đồng hồ nữa. Tiến sĩ Barnhardt, trong
lúc này ngài có thể thu thập bất cứ mẫu nào ngài thấy
cần thiết."

Một cái gật đầu của nhà khoa học người Hà Lan, dù cho Lisa để ý thấy ông ta chỉ hơi nheo mắt với mình khi nhà lãnh đạo Tổ chức Y tế Thế giới ra ngoài. Lisa theo sau Lindholm bước ra ngoài.

Bardnardht nói với theo. "Cô sẽ nhắn tin cho tôi khi nào tiến sĩ Kokkalis quay về chứ?"

"Tất nhiên." Nàng cũng sốt ruột giống như mọi người muốn phát hiện sự thật ở đây. Nhưng nàng cũng e là họ mới chỉ gãi được bên ngoài mà thôi. Có cái gì đó ghê gớm đã âm ỉ ở đây.

Nhưng cái gì vậy?

Nàng hy vọng Monk sẽ không đi lâu.

Khi ra ngoài, nàng bỗng nhớ đến lời nói cuối cùng của bệnh nhân.

"Đừng... đừng đi xuống nước."

 

*

*    *

11 giờ 53 phút sáng

"Chúng ta sẽ phải bơi ra để lấy nó thôi." Monk nói.

"Liệu anh có điên không đấy?" Graff trả lời khi họ núp sau tảng đá.

Vài giây trước đó, chiếc xuồng cao tốc của bọn cướp đã đỗ vào một bãi đá ngập nước, một trong rất nhiều bãi đá đem lại cái tên cho khu vực này của hòn đảo: Khu ổ chuột Smithon. Trên mặt nước, tiếng súng đã chấm dứt, thay thế bằng tiếng gầm gào của động cơ con xuồng khi nó đang cố gắng thoát ra.

Monk cố thò đầu ra để quan sát tình hình, suýt nữa thì mất tai vì một viên đạn sượt qua. Họ vẫn bị ghìm chân, không còn chỗ nào để chạy, nhất là đang ở trước mặt kẻ thù.

Monk cúi xuống, kéo khóa chiếc túi gắn vào bộ quần áo. Anh lấy ra một khẩu súng lục 9 ly từ bao súng.

Cặp mắt của Graff tròn xoe khi thấy Monk lôi khẩu súng ra. "Thế anh nghĩ mình có thể diệt chúng hết à. Bắn vào thùng xăng hoặc đại loại?"

Monk lắc đầu rồi kéo khóa túi lại. "Anh đã xem quá nhiều phim hành động. Khẩu súng bắn lạc này chỉ làm cho chúng chúi đầu xuống. May ra kịp cho chúng ta tới cái thuyền ở đằng kia."

Anh chỉ vào hàng cây chạy dọc xuống tận mép nước. Nếu như họ có thể tiến tới phía xa, giữ được bụi cây và con thuyền nằm giữa, họ có thể  vòng lại vào điểm tới. Rồi nếu như họ có thể đến được bãi biển phía bên kia trước khi bọn cướp biển giải thoát được thuyền của chúng... và nếu như có một con đường nào đấy dẫn vào phía bên trong của đảo...

Mẹ kiếp, có quá nhiều nếu như...

Nhưng chỉ có một điều chắc chắn ở đây.

Họ sẽ chết nếu như họ ở lại, run rẩy như một cặp thỏ.

"Chúng ta sẽ phải nằm ở dưới nước càng nhiều càng tốt." Monk cảnh báo. "Có thể chúng ta ngụp một vài hơi nếu giữ được không khí trong bộ quần áo chống độc."

Mặt của Graff méo xệch đi vì ý nghĩ này. Mặc dù nồng độ cao nhất của sự nhiễm độc đã qua nhưng vùng vịnh này vẫn tiếp tục có độc. Ngay cả lũ cướp kia cũng biết phải bám chặt lấy con thuyền. Những kẻ đeo mặt nạ kia đang sử dụng mái chèo để đẩy các hòn đá, không dám lội ra để làm nhẹ con thuyền.

Nếu như ngay cả lũ cướp biển từ chối không chịu xuống nước...

 

Bỗng nhiên Monk bắt đầu tự hỏi về sự khôn ngoan trong kế hoạch của chính mình. Bên cạnh đó, anh ghét lặn. Anh từng là cựu lính biệt kích mũ nồi xanh chứ không phải người nhái hải quân.

"Thế nào?" Graff hỏi, như đọc thấy cái gì đó trong điệu bộ của anh. "Anh không tin rằng kế hoạch của anh sẽ thực hiện được phải không?"

"Hãy để một người đàn ông suy nghĩ đã."

Ngồi thụp xuống, Monk thấy mình nhìn chăm chăm về phía bức tượng Phật dãi dầu mưa nắng, được che chở bởi hàng rào chân nhang. Anh không phải là Phật, nhưng anh cũng không phải không muốn cầu xin bất cứ vị thánh nào giúp thoát khỏi cơn hiểm nghèo này.

Cặp mắt anh lại nhìn những nén nhang đã cháy dở. Không quay đi, anh nói với Graff. "Thế những người đi lễ làm sao tới đây được?" Anh hỏi. "Quanh đây hàng dặm không có làng mạc dọc bờ biển, bãi biển này bị che chắn bởi các tảng đá làm thành những bức tường rất hiểm trở khó mà trèo lên được..."

Graff lắc đầu. "Điều ấy thì có khác gì?"

"Có ai đó đã châm các nén nhang. Chỉ mới hôm trước thôi hay đại loại như vậy." Monk ngồi dậy."Hãy nhìn về phía bờ biển, không có dấu chân nào ngoài dấu chân của chúng ta. Anh có thể thấy nơi một ai đấy quỳ để thắp hương, nhưng không thấy bước chân ra phía nước hay dọc theo bờ biển. Điều này có nghĩa họ phải đi xuống từ phía trên. Chắc phải có đường."

"Hoặc có ai đó thả dây thừng xuống."

Monk thở dài, mong có một người bạn đồng hành thông minh hơn để có thể vạch ra lỗ hổng trong lập luận của mình.

"Nước hay Phật?" Monk hỏi.

 Graff rõ ràng là bị cuốn hút bởi tiếng động cơ của con thuyền cao tốc. Bọn cướp đã gần như thoát ra được.

 

Graff quay lại Monk. "Có phải cứ xoa bụng một ông Phật là tìm được may mắn không?"

Monk gật đầu. "Tôi nghĩ mình đã đọc cuốn sách đoán số ở đâu đó. Tôi hy vọng Phật cũng đọc cuốn ấy."

Monk quay lại, giơ khẩu súng lên. "Theo tôi đếm, anh lết mông đi. Tôi sẽ theo sau anh, bắn vào con thuyền. Anh chỉ tập trung vào việc tới được chỗ ông Phật, rồi tìm đường đi."

"Và tôi cầu cho những người đến thắp hương không dùng dây thừng..."

"Đừng nói vậy hoặc anh sẽ làm hỏng mọi chuyện!"

Graff đứng dậy.

"Nào chúng ta đi." Monk thu người lại, hơi loạng choạng để lấy thăng bằng cho đôi chân. Anh đếm ngược "Ba, hai, một!"

Graff lao ra như một con thỏ. Có tiếng đạn bắn vào đá theo gót chân anh ta. Monk văng tục rồi đứng dậy. "Anh phải chờ tôi ra hiệu đã chứ." Anh lẩm bẩm, bóp cò rồi bắn về phía chiếc thuyền bị mắc kẹt. "Các công dân."

Anh nhả đạn về phía con thuyền, làm cho bọn bắn tỉa phải nằm dán bụng xuống. Anh nhìn thấy một tên giơ tay lên rồi lộn ra khỏi thuyền. Một phát đạn may mắn từ phía Monk. Loạt đạn bắn trả gồm vài phát giận dữ, vội vàng.

Phía trước, Graff đã tới được chỗ tượng Phật rồi vượt qua doi cát, luồn qua chỗ cắm hương. Xoay một vòng, anh ta lấy lại thăng bằng và nhao đến sau bụi cây.

Monk đi thẳng ngang qua một cây gai. Anh nhảy xuống cạnh Graff.

"Chúng ta đã thành công!" Graff hét toáng lên.

"Và mặc kệ bọn chúng."

Monk hình dung ra tên đàn ông rơi xuống bát cháo
chất độc.

Có vẻ như đáp lại, những phát súng trường nhắm vào chỗ họ, làm tung cả thân cây và lá dọc theo bức tường đá. Monk và Graff đứng nấp cạnh nhau, được bức tượng Phật bụng bằng đá che chở. Chắc chắn điều ấy cũng có ý nghĩa trong hành động cuối cùng.

Nhưng có lẽ đó là tất cả những gì đức Phật có thể
che chở.

Monk nghiên cứu tảng đá phía sau cái lều gỗ.

Không có đường nào cả.

"Lẽ ra một trong hai chúng ta phải xoa cái bụng Phật khi tới đây thì phải." Monk cay đắng nói.

"Thế còn khẩu súng của anh?" Graff hỏi.

Monk giơ lên "Còn đúng một viên. Sau đấy, tôi thường vứt khẩu súng vào bọn chúng. Điều này luôn có kết quả."

Đằng sau họ con thuyền cuối cùng cũng thoát ra với tiếng rồ của động cơ. Tồi tệ hơn, con thuyền đang ở phía hòn đảo đá, trôi về phía bãi biển, luồn qua những xác chết.

Chẳng bao lâu nữa, sẽ lại có thêm hai xác chết nữa bổ sung vào bát xúp.

Một loạt đạn bắn lỗ chỗ vào b 194b c tượng Phật và hướng vào đó. Nhiều bụi cây bị hạ gục. Một mảnh đạn sượt qua mũi Monk, nhưng anh không động đậy. Anh ngắm nhìn một cành cây đổ gục xuống, lộ ra miệng  hang phía đằng sau.

Monk bò lên trước, giữ pho tượng giữa anh và lũ cướp. Anh tách những cành cây. Ánh sáng chiếu vào một bậc thang rồi lại một bậc nữa.

"Một đường hầm! Đúng là giả thuyết về dây thừng của cậu, Graff!"

Monk quay lại nhìn thấy vị tiến sĩ nằm vật sang một bên, một tay ép vào vai. Máu trào ra giữa các ngón tay.

Đoàng...

Monk vội tiến tới. "Không sao. Chúng ta không còn thời gian băng bó. Liệu anh có đi được không?"

Graff nói giữa hàm răng mím chặt. "Chừng nào chúng chưa bắn vào chân tôi."

Với sự trợ giúp, cả hai bò qua hàng cây rồi lọt xuống hầm. Nhiệt độ tụt xuống 10 độ. Monk giữ chặt lấy khuỷu tay Graff. Người đàn ông rất run rẩy nhưng vẫn bám theo sau Monk, cùng vội vã lần theo các bậc thang trong bóng tối.

Phía sau họ, anh nghe thấy tiếng hò reo thắng lợi của lũ cướp, tin rằng con mồi của chúng đã bị bao vây. Monk tiếp tục leo lên, vòng vèo, sờ lần trong bóng tối.

Sẽ chẳng lâu, bọn cướp sẽ tìm ra miệng hầm. Nhưng chúng sẽ đuổi theo hay đơn giản là chuồn mất. Câu trả lời đến nhanh thôi.

Ánh sáng bừng lên ở phía dưới... cùng với những mệnh lệnh cộc lốc.

Monk vội vã.

Anh nghe thấy sự bực tức trong các giọng nói từ
phía dưới.

Thực sự anh đã cho bọn chúng ra rìa.

Phía trước tất cả dần chuyển thành màu xám. Những bức tường giờ đây đã không còn nhìn thấy gì. Bước chân của họ như vội vã hơn. Graff lẩm bẩm, thở hổn hển, song Monk không hiểu anh ta đang nói gì. Lời cầu nguyện hay  chửi rủa gì đi nữa... anh cũng có thể chấp nhận nếu có hiệu quả.

Cuối cùng thì bậc cao nhất của cầu thang cũng hiện ra. Cả hai vọt ra khỏi hầm ngầm lao vào chỗ rừng mưa bao bọc khu vực. Monk vọt lên trước, cảm ơn rừng đã che chở cho họ. Bước vào trong rừng, anh đã nhìn thấy vùng các loài vật bị chết không chỉ giới hạn ở bãi biển dưới kia. Những con chim chết nằm ngổn ngang trên bìa rừng. Gần chỗ anh đứng là xác một cáo bay, vắt ngang cành cây như một chiếc máy bay rơi.

Nhưng không phải tất cả cư dân trong rừng đều đã chết.

Monk nhìn về phía trước. Bìa rừng bỗng chuyển sang màu đỏ như ngói. Song đó không phải là sự bùng phát của vi khuẩn. Hàng triệu con cua đã chiếm phủ nền rừng, mỗi một phân vuông. Vài con đã lao đến thân cây và bụi cây.

Đây chính là loài cua màu đỏ mất tích của đảo Giáng sinh.

 

Monk nhớ lại nghiên cứu trước đây của mình. Suốt cả năm, những con cua tỏ ra rất hiền lành, trừ khi bị đánh thức hoặc khua dậy. Vào mùa di chuyển hàng năm, loài cua này đã từng cắn nát cả lốp của những chiếc xe ô tô chạy qua bằng cái càng sắc như dao cạo của chúng.

Monk lui lại một bước.

Lũ cua lúc này đang ở trong tình trạng bị kích động. Chúng trèo lên nhau, bị kích động, ngoe nguẩy. Một sự
điên rồ.

Giờ thì Monk hiểu vì sao lũ quái vật này vắng bóng trên bờ biển  dưới kia. Việc gì phải bò xuống trong khi có biết bao nhiêu thứ để ăn ở đây?

Loài cua không chỉ ăn chim và dơi chết mà còn ăn thịt lẫn nhau trong một bữa tiệc tự do dành cho tất cả. Trước việc hai người đàn ông lạ xuất hiện, lũ cua giơ những cái càng tổ bố của chúng lên, đe dọa, huơ huơ như những chiếc gậy gẫy.

Xin chào đến với bữa tiệc!

Đằng sau họ, từ miệng hang, vọng đến những tiếng kêu mừng rỡ.

Lũ cướp đã phát hiện ra miệng hầm.

Graff tiến lên một bước, ôm chặt vai. Một con cua tổ bố, nấp sau một cái lá dương xỉ, cặp ngón chân, cắt đứt chỗ vải plastic.

Vị tiến sĩ lui lại, thở hổn hển. Đó cũng là những câu thần chú trên cầu thang mà giờ đây Monk đã hiểu và không thể đồng ý được nữa.

"Lẽ ra chúng ta phải xoa bụng tượng Phật."

 

 

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/86459


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận