Tình Thế Hiểm Nghèo Chương 22


Chương 22
Nhà hàng

Khi Polito ra về vào lúc hai giờ bốn lăm, nhà hàng trở nên vắng khách.

Monique đứng ở quầy bar uống cà phê, tôi thanh toán hóa đơn và để lại ba mươi phần trăm tiền hoa hồng. Cô ấy cảm ơn tôi với cặp mắt mở to và hàm răng thật đẹp.

"Cô có phiền không nếu tôi ngồi đây ít phút."

"Tôi sẽ mang thêm rượu đến cho ông."

Tôi có hơn ba tiếng trước khi Roland Korvutz đến nhà hàng La Bella. Vì vậy, tôi bèn giết chút ít thời gian để thưởng thức một ly Bordeaux có vị ngon hơn so với món rượu lúc trưa và suy nghĩ về cuộc nói chuyện với vị thám tử già lúc nãy. Polito gặp rắc rối với giả thiết rằng đáng lí ông ta có thể tóm được kẻ phạm tội ngay trước mắt mình và ông ấy đã lỡ mất một vài điều quan trọng. Tuy nhiên, sự xuất hiện và biến mất thất thường của Dale trong việc điều tra không phải là một việc tai tiếng gì với Polito.

Nếu Bright là một kẻ mắc bệnh thần kinh thì hắn ta đã vô tình hành động rất xuất thần.

 

Một sự thay hình đổi dạng.

Nếu những nạn nhân của Bright không được ghi nhớ nhờ một vài vụ việc về các tòa cao ốc ở Manhattan, có thể giờ này hắn ta đang sống dưới một cái tên mới và một lý lịch mới ở Los Angeles, đùa giỡn với sự phân biệt giới tính, thích thú tận hưởng nghệ thuật dối lừa và những điều tệ hơn thế.

Tôi gọi điện để trả lời tin nhắn của Robin, Milo và một gã luật sư cứ liên tục bám theo đòi tôi thanh toán hóa đơn cho gã. Tôi giả vờ nói rằng tôi muốn nói chuyện với gã.

Robin nói, "Em nhớ anh, nhưng nỗi lo lớn hơn cả là Blanche, anh à. Nó không hề nở một nụ cười kể từ lúc anh đi, và cứ liên tục đánh hơi quanh phòng làm việc. Sau đó, nó khăng khăng chạy xuống cái hồ, nằm trên chiếc ghế dài mà anh vẫn hay nằm. Thế vẫn còn chưa đủ, nó còn chạy xung quanh và nhìn chằm chằm vào lũ cá cho đến khi em cho chúng ăn. Nếu em không ném đủ thức ăn cho chúng, nó sủa ngay. Em liên tục nói với nó là anh sắp về rồi, nhưng cái cách nó nhìn em, nói với em là nó không thích như vậy".

"Nói với nó là anh sẽ mang quà về cho nó."

"Nó không ham vật chất, nhưng chắc là phải như vậy. Mọi chuyện thế nào rồi anh?"

"Không có gì tiến triển hết."

"Em đã kiểm tra bản tin dự báo thời tiết trực tuyến. Trời có vẻ đẹp anh à."

"Ừ, vậy thì một ngày nào đó chúng mình sẽ đi dạo."

 

"Nhất định rồi. Khách sạn có tiện nghi không anh?"

Tôi miêu tả Midtown Executive cho cô ấy.

Cô ấy nghe và nói, "Một lợi thế là tụi mình sẽ tình cờ gặp nhau."

"Anh sẽ trở về vào ngày mai, sẽ có cả đống cơ hội cho em. Công việc thế nào rồi em?"

"Phải lựa chọn một vài công việc mới nhưng cũng dễ chuẩn bị thôi."

Một sự im lặng trong giây lát.

"Anh ta gọi cho em sáng nay, vì muốn chắc rằng em sẽ có mặt trong thành phố khi anh ta đến. Anh ta có vẻ lạ."

"Lạ như thế nào?"

"Xa xôi - không tràn trề nhiệt huyết như thường ngày. Anh ta nói với em rằng anh ta đang có một dự án nhưng giọng nói lại không có vẻ gì như vậy."

"Em thương hại người mua hàng à?"

"Có thể anh ta nhận ra rằng đã phung phí cả đống tiền khi không thể sử dụng món hàng đó."

"Tệ rồi đấy. Em bán chúng cho người nào khác nữa."

"Em chỉ băn khoăn liệu anh ta có hiểu được những tình cảm anh ta dành cho em sẽ không được đáp lại. Em đang tránh những cuộc nói chuyện riêng với anh ta."

"Nếu anh ta nhận ra và kín đáo rút lui, em quả thật rất may mắn."

"Chắc vậy."

Tuy nhiên giọng nói lại không có vẻ gì là chắc chắn.

 

Tôi nói, "Em đã cố gắng rất nhiều và bây giờ mọi thứ lại trở nên phức tạp."

"Có thể đó chỉ là suy nghĩ của em. Em đã để tâm đến việc đó quá nhiều."

"Em quá nhạy cảm đấy, Rob."

"Không phải bao giờ cũng vậy. Em đoán là tốt hơn hết mình sẽ không nghĩ ngợi gì nữa trước khi xuất hiện cho đội nhìn thấy. Hẹn gặp anh sáng mai, anh yêu."

Tôi kể cho Milo về cuộc gặp với Polito. Anh nói, "Em rể của phó ủy viên hội đồng nhân dân hả? Và cũng tình cờ là người lái xe trước đây cho Đức giáo hoàng?"

"Tốn khá nhiều mới tóm được những kẻ bất lương," tôi nói.

"Và để nuôi chúng nữa chứ. Vậy Polito nói Bright không phải là một kẻ đồng tính?"

"Kết hợp với những thay đổi sâu sắc về ngoại hình, giả vờ là một người ăn chay, giống như kiểu Jekyll - Hyde (nhân vật tiểu thuyết, ban ngày là bác sĩ Jekyll, ban đêm là kẻ giết người Hyde - chú thích của người dịch) mà chị hắn đã miêu tả, chúng ta không thể chắc chắn được bất cứ điều gì về hắn."

"Cuộc đời là một vở kịch."

"Một vở kịch đẫm máu. Chúng ta hãy xem Roland Korvutz nói sao về hắn."

"Anh định tiếp cận Korvutz trực tiếp ư?"

 

"Đó không phải là mục đích của việc anh đưa tôi địa chỉ nhà và những địa điểm ưa thích của hắn sao?"

"Đúng, nhưng sáng nay tôi chợt tỉnh dậy với một ý tưởng mới. Điều gì khiến Korvutz thậm chí phải nói chuyện với anh?"

"Nếu tôi có thể nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Dale Bright và hạ thấp giá trị của hắn, có thể hắn sẽ nghĩ bản thân hắn là một người trình diễn và sơ suất để lộ ra điều gì đó thú vị."

"Nếu hắn trả tiền cho Bright để giải quyết Safrans, hắn sẽ đá đít anh hay tệ hơn thế."

"Tại sao anh cứ bi quan trong khi mình có thể tạo ra cú đột phá chứ?"

"Anh đọc sổ ghi chép của tôi rồi đấy. Gã này là một rắc rối lớn, anh bạn à. Tôi không thấy bất kì điều gì có thể khiến cho hắn ta lo lắng. Hãy trở về khách sạn của anh, tận hưởng mười lăm phút xoa bóp và ngủ một giấc thật ngon."

"Ồ vâng, cảm ơn mẹ."

"Tôi nghiêm túc đấy."

"Còn mọi việc trước mắt thì sao?"

"Đổi phương án hành động không làm thay đổi tình hình."

"Được rồi. Tôi sẽ chăm sóc cái lưng của tôi. Có gì mới không?"

Chẳng có gì. Anh nói, "Tại sao lại sắp xếp trước mọi việc khi anh có thể đang làm những việc vô ích."

 

"Anh dự định gặp Korvutz ở đâu?"

"Vẫn ở nhà hàng La Bella."

"Vùng Thượng Đông. Chúng ta không đang nói về một gã trai lực lưỡng uống espresso trong một vài câu lạc bộ công tác xã hội."

"Tốt nhất là anh nên chuyển hướng hành động đi, Alex. Tại sao Korvutz để ý tới anh?"

"Vào lúc này hay lúc khác, không phải mọi người lúc nào cũng muốn trở nên nổi tiếng sao?"

Cổ tôi căng ra "Chỉ cần nghĩ đến một điều. Nếu Dale sắp trở thành một Olivier, có thể chính điều đó đã mang hắn đến New York lần đầu tiên."

"Sự cám dỗ của hào nhoáng."

"Gia đình Safrans lên kế hoạch đi xem kịch vào cái đêm họ biến mất. Một buổi trình diễn ở trong thị trấn nằm ngoài Broadway. Chuyện gì xảy ra nếu Dale đã tâng bốc hai vợ chồng bằng cách đưa ra một lời đề nghị êm tai "tôi đang làm một chương trình và tôi nhận ra tên ông bà trong danh sách. Tôi rất lấy làm vinh dự nếu ông bà có thể đến tham gia chương trình của chúng tôi. Sau đó, chúng ta có thể ra ngoài uống nước và dàn xếp những xích mích về vấn đề tòa nhà." Và anh ta mang đến đấy một xích mích thật, điều đó thật đáng sợ. Vấn đề ở chỗ chúng ta đã tìm kiếm tất cả những gì mà chúng ta nghĩ có liên quan đến Bright, tên của hắn không hề xuất hiện trong bất kì vở kịch nào hay bất cứ rạp hát nào."

 

"Buổi trình diễn ấy có lẽ diễn ra trong một thời gian ngắn và ít người chú ý." Tôi nói - "hoặc anh ta sử dụng tên trên sân khấu. Trên đường trở về khách sạn, tôi có đi ngang qua thư viện chính. Có thể đó là một nghiệp chướng.


Tôi có chút ít thời gian trước khi gặp Korvutz. Chúng ta hãy xem những thông tin trên các tờ báo có thể cung cấp được gì."

"Ý kiến hay đấy. Anh tìm thấy điều gì đó và hãy quên quý ông Korvutz đi và trở về nhà."

"Anh đang bị ám ảnh quá đấy."

"Bình và ấm trà."

Tôi hối hả đi ngược lại đường số 5, chen qua đám đông những người đang vội vã trong buổi chiều tà, và chạy lên cầu thang của thư viện.

Phòng đọc vi phim được trang bị mười hai chiếc máy đọc bản phim, gần gấp đôi số đó là máy đọc nhiều khổ và một vài bộ đèn chiếu. Rất nhiều nhà nghiên cứu cần mẫn đang chờ tới phiên mình, kể cả một gã vô gia cư nằm dài cuộn mình ở phía trước một cách tùy tiện.

Tôi tìm quyển hướng dẫn về tên các nhà hát và lịch biểu diễn một tuần trước khi Safrans biến mất trên những tờ báo như Times, Post, tờ tin tức trong ngày và tờ địa phương. Sau đó, chờ đợi một chiếc máy trống và bắt đầu làm việc.

Một tiếng sau, tôi lọc được một danh sách dài gồm chín buổi biểu diễn trong thành phố, có ít người chú ý. Tôi phải đợi thêm mười lăm phút nữa để có thể truy cập Internet. Không có đề cập gì đến năm trong số chín buổi biểu diễn đó. Ba trong bốn cái còn lại tôi tìm được danh sách diễn viên. Ansell/ Dale Bright không thấy xuất hiện trong bất cứ danh sách nào nhưng tôi vẫn in chúng ra và rời thư viện.

Bầu trời xanh thẫm. Đại lộ số 5 ánh lên vẻ huy hoàng bởi ánh sáng từ các cửa hàng trưng bày. Xe cộ qua lại như mắc cửi. Những chiếc taxi màu vàng và xe cơ quan màu đen trông giống như những chú ong đang vội vàng bay về tổ. Đám đông khách bộ hành khẩn trương rảo bước với những mục đích khác nhau. Tôi bỗng thấy mình như một con ốc nhỏ trong guồng máy khổng lồ.

Để thay đổi, tôi đi bộ lên phía bắc Manhattan. Bất chợt, tôi nhận ra ánh trăng vàng vằng vặc sau những tòa nhà cao vút. Sự phát triển có thể là một thứ gì đó hủy hoại vẻ đẹp của thiên nhiên, thế nhưng một New York do bàn tay con người dựng nên cũng lộng lẫy, rực rỡ không kém gì những thứ do tạo hóa ban tặng.

Khi tôi băng từ đường số 60 sang đường 70, những lá cờ tàu lớn dẫn đến các cửa hàng bán quần áo thời trang và những quán ăn ấm cúng. Cửa kính của những quán ăn ấy để lộ những vị khách hàng xinh đẹp.

Nhà hàng Osteria La Bella lại khác. Với mặt tiền bằng gạch sơn màu trắng và những chữ cái xinh xắn màu be, tên nhà hàng hiện ra sau lớp kính trang trí đầy hoa văn nên có thể vì thế mà nhìn không rõ.

 

Thêm một điều bạn cần biết về nơi này: Sau tấm kính đó là bóng tối. Tôi đưa mắt nhìn những người đi trên phố nhưng không sao tìm thấy ai trông giống Roland Korvutz. Sáu giờ hai mươi tối, nếu ông ta đã có mặt ở đây thì tôi muốn ông ấy ngồi ở khu vực nấu nướng. Tôi rảo bước và tiếp tục quan sát suốt con đường 19 phía Đông, rồi lại tăng tốc vượt qua con dốc của khu đồi Carnegie. Trước bảy giờ mười, tôi trở lại nhà hàng, sảng khoái vì vừa thực hiện xong một bài thể dục nhưng cũng hơi lo lắng.

Cửa kính dẫn vào một tiền sảnh sáng bóng màu xanh đậm. Phía sau tiền sảnh là chiếc cửa gỗ màu đen, bên kia lối đi là một cầu thang nhỏ đầu gắn tấm biển thông báo được khắc bằng đồng: "Cẩn thận khi bước lên cầu thang." Ba cầu thang dẫn xuống và một cái dễ nhận ra nằm bên trái dẫn đến một quầy bằng cẩm thạch. Một người đàn ông cao và ốm trong bộ lễ phục đang kiểm tra danh sách đặt bàn trong ánh sáng hổ phách của chiếc đèn chùm hình vỏ sò Tiffany. Không gian ngập chìm trong tiếng nhạc du dương và êm ái. Một vài giọng nam trung đang rên rỉ một câu chuyện buồn. Những mùi thơm quyến rũ tấn công khứu giác của tôi, nào là mùi phô-mai, thịt nướng, mùi tỏi và cả mùi dấm chua.

Đằng sau người lễ tân là một giá rượu cao ngất chạm tới trần nhà được trang trí thủ công, che khuất toàn bộ tường trái của căn phòng. Bên phải có treo một bức bích họa tả cảnh những người nông dân đang vui vẻ thu hoạch mùa nho. Ba chiếc bàn tròn được phủ vải lanh và vẫn chưa có khách. Âm thanh của thủy tinh chạm vào nhau và tiếng người nói chuyện rì rầm phát ra từ sau giá quầy rượu.

"Tôi có thể giúp gì, thưa ông?"

"Tôi chưa đặt bàn trước nhưng liệu anh có thể sắp xếp một bữa tối dành cho một người được không?"

"Một người?" Anh ta đáp lại như chưa bao giờ nghe thấy con số đó trước đây.

"Tôi vừa nảy ra ý định vào đây ăn tối."

"Chúng tôi thích sự ngẫu nhiên như vậy." Anh ta nói rồi dẫn tôi đến một trong những chiếc bàn trống, đưa thực đơn và giới thiệu với tôi những món osso đặc biệt. Nguyên liệu của món ăn này là thịt bê từ những con bò cái xứ Vermont thanh bình. Người ta đã cho những chú bò này tận hưởng một cuộc đời ngắn ngủi trước khi giải thoát
cho chúng.

Ánh mắt anh ta chạm tới chiếc bàn bên cạnh khi anh ta mô tả món rau trộn được chế biến rất cầu kì, tôi giả vờ quan tâm và liếc nhìn thực đơn. Một bộ sưu tập rượu, nấm tuyết, cá bắt từ những cái hồ mà tôi chưa từng nghe đến. Thức ăn còn hơn cả hầu hết các lễ cưới và giá của chúng cũng vậy.

"Ông uống gì, thưa ông?"

"Nước đóng chai, có ga."

"Vâng."

Anh ta bước sang bên cạnh, để lộ hai bàn tiệc ở phía bên kia căn phòng không cửa sổ.

 

Chiếc bàn đầu tiên là một cặp ăn mặc sang trọng, khoảng dưới ba mươi đang nâng cốc và ngả người vào nhau. Đôi môi hé mở, ánh mắt đắm đuối không rời. Sự đam mê đong đầy trong đáy mắt như thể họ đang vuốt ve nhau trong tư tưởng hay ít ra cũng là một cuộc tranh cãi giữa hai người được ngụy trang quá kém.

Bên phải đôi tình nhân ấy là một người đàn ông ngồi cùng đứa trẻ - một cô bé mũm mĩm, tóc hơi thưa. Cô bé ngồi quay lưng lại với tôi. Từ hình dáng có thể đoán chừng cô bé sáu, bảy tuổi. Người đàn ông cúi thấp người để nhìn đứa trẻ, khuôn mặt ông chìm trong bóng tối. Ông ta đưa tay vuốt má cô bé nhưng nó đẩy ra và tiếp tục ăn. Cô bé mặc áo len trắng dài tay với váy kẻ ô màu hồng, chân đi vớ trắng và giày da sơn màu đỏ. Ngoại trừ đôi giày thì bộ quần áo có thể là đồng phục. Người đàn ông mặc áo khoác thể thao màu xám, sơ mi nâu, tất cả trông hoàn toàn tương phản với cô bé. Tôi có thể nhìn ông ta đủ rõ để hình dung ra dáng người của ông ấy. Hoàn toàn khớp với miêu tả của Polito về Roland, về cả độ tuổi lẫn việc ông ta có một đứa con.

Ông ta bẻ một mẩu bánh mì và bắt đầu ăn, tôi có thể nhìn rõ mặt ông hơn - một khuôn mặt với xương gò má cao và dẹt, mũi to, cằm nhọn và nhỏ. Nếu đó là con mồi của tôi thì bộ tóc nâu đỏ ngày xưa đã ngả màu xám và trở nên
thưa thớt.

Ông ta lấy chiếc nĩa và cuộn mỳ ống, đưa một ít cho đứa bé nhưng nó lắc đầu quầy quậy. Ông nói điều gì đó với cô bé và nếu nó có trả lời thì tôi cũng không thể nào nghe được. Người phục vụ lại che khuất tầm nhìn của tôi một lần nữa. Một chai nước khoáng Aqua Minerale Primo Fiorentina được đặt nhẹ nhàng xuống bàn cùng với một chiếc ly ướp lạnh.

"Ông sẵn sàng gọi món chưa?"

Vẫn còn đầy bụng vì bữa trưa muộn nên tôi chọn một món nhẹ, rau trộn với sò giá bốn mươi bốn đô. Trước khi người bồi bàn lấy lại thực đơn, tôi kịp kiểm tra giá tiền chai nước. Bữa ăn này vượt quá trợ cấp của phòng cảnh sát Los Angeles. Tôi phải tự thanh toán nó rồi. Có thể chai nước được lấy từ những dòng suối bởi các cô gái đồng trinh nên mới đắt như vậy. Tôi mở nắp chai và uống. Nó có vị như nước lọc.

Cô bé đi ngang qua căn phòng, nói điều gì đó với cha mình làm người đàn ông phải nhướn mày.

Một lần nữa, ông ta lại nói và cô bé lắc đầu. Nó tụt khỏi ghế.

Chiếc váy bị phồng lên, ông ta đưa tay để vuốt xuống nhưng cô bé đã làm điều đó trước. Nó đứng lên và vuốt tóc, sau đó quay đi. Cô bé có nước da sáng, tóc đỏ, mũi tẹt và hếch. Một nét mặt không thể nhầm lẫn được của hội chứng Down. Cô bé lớn hơn tôi tưởng, cỡ mười hay mười một
gì đó.

Nó nhìn tôi, mỉm cười, vẫy tay và nói: "Xin chào."

Giọng cô bé đủ lớn để át cả tiếng nhạc.

 

Tôi chào lại.

"Con định vào nhà tắm."

Người đàn ông gọi: "Elena"

Cô bé vung tay tỏ vẻ khó chịu, "Con đang nói chuyện với chú này, bố."

"Con yêu, nếu con phải đi..."

"Bố" - nó tiếp tục giậm chân rồi lại hỏi, "Bố buồn đúng không?"Rồi ôm khuôn mặt ông ta bằng cả hai tay, hôn lên má ông và nhảy chân sáo tới cánh cửa phía sau nhà hàng. Cánh cửa không được đánh dấu nên tôi có thể biết được cô bé là một vị khách sành ăn với bữa tối cả trăm đô la.

Người đàn ông nhún vai và nói, "Xin lỗi ông."

"Cô bé thật đáng yêu," tôi đáp.

Ông ta không nói gì, tiếp tục cuộn mì ống rồi xem giờ bằng chiếc đồng hồ đeo tay nạm kim cương. Sau đó, ông ta lại đặt nĩa xuống và kiểm tra thời gian một lần nữa.

Người bồi bàn xuất hiện

"Mọi thứ ổn cả chứ, ông Korvutz?"

"Vâng, cảm ơn Gio."

"Rất vui được gặp lại Elena. Cô bé khỏi ốm rồi phải không?"

"Ừ."

"Một cô bé lanh lợi, ông Korvutz. Cô bé thích trường học chứ?"

Korvutz gật đầu một cách yếu ớt.

 

"Tôi mang đến cho ông ít rượu với côca cho người ăn kiêng chứ?"

"Không, tí nữa tôi còn phải làm việc. Cần giữ cho đầu óc tỉnh táo."

Gio nói, "Ông không đùa chứ?"

Gương mặt của Korvutz trở nên buồn bã.

"Cần phải như vậy."

Elena trở lại, vừa đi vừa nghịch những đường viền trên áo len của mình. Cô bé dừng tại bàn ăn của tôi, chỉ tay và nói, "Chú ấy ngồi có một mình."

Roland Korvutz nói, "Hãy để cho quý ông ấy yên tĩnh đi con."

"Nhưng chú ấy cô đơn mà bố"

"Bố chắc là ông ấy chỉ thích..."

"Chú ấy cô đơn. Chú có thể qua ngồi với bố con mình."

"Elena."

Cô bé kéo tay áo tôi, "Qua với bố con cháu."

Tôi trả lời, "Nếu bố con đồng ý thì không có vấn
đề gì."

Korvutz trở nên nhăn nhó.

Elena vỗ tay "Hoan hô."

"Elena, dừng lại, con hãy để cho chú ấy..."

Tôi đứng lên và mang cốc nước sang bàn của họ.

"Hoan hô!"

Korvutz nói, "Ông không cần phải làm như thế."

 

"Tôi không lấy làm phiền trong một vài phút."

Cặp tình nhân liếc về phía chúng tôi. Người phụ nữ thì thầm điều gì đó với bạn trai của mình nhưng anh ta nhún vai tỏ vẻ thờ ơ.

"Thật sự là không cần thiết."

"Cần mà bố."

Đôi tình nhân cười chế giễu.

"Elena"

"Cần thiết mà."

"Suỵt, suỵt..."

"Cần..."

"Elena! Suỵt! Chúng ta đã nói thế nào về nhà hàng
La Bella."

Cô bé bĩu môi.

Korvutz nói, "Ở trong nhà hàng, chúng ta cần phải làm gì, nói đi cưng..."

Cô bé bắt đầu khóc, Korvutz đưa tay lau nước mắt và hôn lên má nó, "Cưng, cưng, ở La Bella, chúng ta cần phải giữ im lặng."

"Cưng, cưng" Elena nói, "Cái đó dành cho Mẹ."

"Nhưng mà con cũng là cục cưng của bố nữa."

"Không."

Korvutz đỏ bừng.

"Thưa ông, tôi xin lỗi vì đã làm phiền, ông có thể trở
lại bàn..."

 

"Chú ấy cô đơn. Cô Price nói phải đối xử tốt với những người cô đơn."

"Đó là ở trường, Elena."

"Cô Price nói là phải luôn luôn tử tế."

Tôi nói, "Tôi có thể ngồi đây cho đến khi thức ăn được mang đến."

"Elena, để chú ấy đi."

Korvutz cao giọng khiến cô bé nhăn mặt. Sau đó, ông ta lại thì thầm điều gì đó nghe giống như tiếng Nga với cô bé. Cô bé tụt khỏi ghế và thổn thức. Người phụ nữ trẻ bên cạnh lại liếc mắt nhìn qua.

"Elena."

Cô bé chạy ra cửa. "Con đi nữa đây."

Korvutz nói, "Xin lỗi ông, con bé rất thân thiện."

Tôi nói, cố tỏ ra không có vẻ gì nịnh bợ. "Cô bé rất đáng yêu."

Tuy nhiên ánh mắt của ông ta nói lên tôi đã thất bại.

Tôi giới thiệu bản thân mình. "Tôi làm việc với lũ trẻ."

"Ông làm gì?"

"Chuyên gia tâm lí trẻ em."

"Ồ, ra vậy."

Korvutz nói một cách thờ ơ và đưa mắt hướng về phía bàn ăn của tôi.

"Chúc ông một buổi tối vui vẻ."

Tôi giơ chiếc huy hiệu có in chức vụ cố vấn phòng cảnh sát Los Angeles mà sếp để lại nhà tôi tối qua, đặt nó lên bàn trước mặt ông ấy.

 

"Khi nào ông có thời gian..."

Korvutz rất đỗi ngạc nhiên, đôi mắt ông ta lồi ra sau cặp kiếng. Dù ánh sáng trong nhà hàng rất yếu, ông ta vẫn căng mắt nhìn vào tấm huy hiệu.

"Cái quái gì...?"

Tôi bỏ huy hiệu vào túi.

"Chúng ta cần nói chuyện, không phải về ông mà về Dale Bright."

Ông ta bắt đầu đứng dậy, nghĩ rằng như vậy sẽ tốt hơn. Cả hai tay vẫn nắm chặt và để trên bàn.

"Hãy thoát khỏi những chuyện vớ vẩn này."

"Tôi đã vượt ba ngàn cây số đến đây để nói chuyện với ông. Dale Bright có thể đã sát hại những người khác. Đây là một vụ án mạng cực kỳ phức tạp."

"Tôi không biết anh đang nói cái quái gì."

Tôi đứng để che ông ta khỏi cái nhìn soi mói của Gio và cặp tình nhân bên cạnh. Miệng vẫn nở nụ cười để người khác nghĩ đây là một cuộc nói chuyện thân mật.

"Dale Bright. Từng là chủ tịch hội đồng đại diện những người thuê nhà trên đường số 35."

Vai Korvutz cứng đờ, ngón tay ông ta sượt qua con dao xắn bơ.

"Ông không nằm trong diện tình nghi của chúng tôi nhưng Bright thì có. Điều tôi cần là thông tin chi tiết, bất cứ thứ gì có thể giúp tìm được hắn ta."

"Tôi không biết."

 

Korvutz nói một cách khó khăn.

"Chỉ là một cuộc nói chuyện nhỏ khi nào ông thấy tiện."

"Sau đó, bọn chúng lại hành hạ tôi."

"Nếu ông chịu hợp tác và giúp chúng tôi tìm ra Bright, mọi chuyện sẽ kết thúc."

"Tôi không biết gì cả." Ông ta rít qua kẽ răng.

"Thậm chí những ấn tượng về hắn, trông hắn như thế nào, thói quen của hắn là gì?"

"Mắt con khô rồi."

Một giọng nói cất lên sau lưng chúng tôi.

Elena đang nhảy nhót bên cạnh tôi, tay cô bé cầm một chiếc khăn mỏng.

Roland Korvutz nói, "Chú này phải đi rồi con."

"Không, b..."

"Có"

"Bố làm con buồn."

Korvutz bật dậy, nắm lấy tay con bé và nói, "Cuộc đời đầy những chuyện buồn ngay cả khi con có thể học được điều đó."

Ông ta kéo đứa bé đang khóc lóc ra khỏi nhà hàng.

Gio nhìn theo hai bố con. Cánh cửa đóng sầm lại.

Giọng nam trong vở nhạc kịch vẫn còn rên rỉ.

Người phụ nữ quay sang bên cạnh và nói, "Dắt một đứa con nít vào những nơi như thế này."

Bạn cô ta đưa tay vuốt lại ve áo. "Mà còn là một đứa trẻ kiểu đó. Thôi chúng ta gọi món đi."

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/83644


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận